Sức Mạnh Của Từ Bi

10 Tháng Mười 201516:05(Xem: 9628)

SỨC MẠNH CỦA TỪ BI
Nguyên Giác

 

dalai lama
Mario Anzuoni / Reuters

Từ bi có sức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không? Trước tiên, từ bi sẽ chuyển hóa được cả thân và tâm của người tu tập.

Bài viết tựa đề “The Buddhist and the Neuroscientist: What compassion does to the brain” (Người Phật Tử và Nhà Khoa Học về Thần Kinh: Từ bi ảnh hưởng não bộ thế nào) trên tạp chí The Atlantic ngày 4 tháng 7-2015 ghi nhận một cuộc nghiên cứu về sức mạnh của từ bi. Người Phật tử đây là Đức Đạt Lai Lạt Ma; nhà khoa học là Richard Davidson.

Tác giả bài viết là Kathy Gilsinan, một biên tập viên của tạp chí The Atlantic, phụ trách về các vấn đề thế giới. Bà trước đây là một biên tập viên của tạp chí World Politics Review. Bản dịch toàn văn như sau.

***

Năm 1992, nhà khoa học về thần kinh hệ Richard Davidson được Đức Đạt Lai Lạt Ma thách thức. Cho tới lúc đó, nhà khoa học này đã để trọn sự nghiệp vào cuộc nghiên cứu rằng tại sao người ta phản ứng với, trong chữ của ông là, “những giàng ná và mũi tên của cuộc đời” trong những cách khác nhau. Tại sao một vài người kham nhẫn mạnh mẽ hơn những người khác khi đối diện với thảm kịch? Và sự kham nhẫn mạnh mẽ bạn có thể có được xuyên qua thực tập hay không?

Đức Đạt Lai Lạt Ma có một câu hỏi khác cho Davidson khi nhà khoa học tới thăm vị lãnh đạo tinh thần Phật Giáo Tây Tạng tại bản doanh ở Dharamsala, Ấn Độ. “Nhà sư nói: ‘Ngài trước giờ sử dụng công cụ khoa học thần kinh hiện đại để nghiên cứu về sự trầm cảm, sự lo lắng, và sự sợ hãi. Tại sao ngài không sử dụng cùng các công cụ đó để nghiên cứu về sự tử tế và từ bi?’… Tôi lúc đó không có một câu trả lời rất tốt. Tôi nói, như thế là khó đấy.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma quan tâm về những gì các công cụ của khoa học thần kinh hiện đại có thể hé mở về não bộ của những người đã để ra nhiều năm, theo cách nói trong chữ của Davidson, “trưởng dưỡng các phẩm chất của tâm, và phẩm chất tâm này quảng bá một cái nhìn tích cực.” Không lâu sau đó, kết quả là Davidson mang hàng loạt các nhà sư Phật Giáo vào phòng thí nghiệm của ông và gắn những điện cực vào đầu của họ, hay chiêu đãi tiếp tân họ trong vài giờ trong một máy MRI.

“Cách tốt nhất để khởi động các mạch điện cảm xúc tích cực trong não bộ là xuyên qua tâm độ lượng,” theo lời Davidson, người sáng lập Center for Investigating Healthy Minds (Trung Tâm Nghiên Cứu Về Não Bộ Lành Mạnh) tại đại học University of Wisconsin, ở thành phố Madison, nói trong một cuộc diễn thuyết ở Aspen Ideas Festival. “Đây thực sự là một kiểu kích động tìm hiểu khoa học thần kinh vì đã có những viên ngọc trí tuệ trong truyền thống thiền định – Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói về điều này – rằng cách tốt nhất cho chúng ta rằng để hạnh phúc là hãy độ lượng với người khác. Và sự thực, chứng cớ khoa học cho thấy trong nhiều cách chân lý đó, và cho thấy rằng sự biến đổi có hệ thống trong não bộ có liên hệ tới hành vi độ lượng.”

Davidson và các nhà khoa học đồng viện thực hiện một thí nghiệm đơn giản trên tám “người tu học Phật Giáo nhiều năm” – những vị này đã để ra trung bình 34,000 giờ luyện tâm. Các nhà khoa học yêu cầu người được thí nghiệm hãy thay đổi qua lại giữa trạng thái tâm thiền định và một trạng thái tâm trung tính nhằm quan sát xem não bộ biến đổi ra sao. Một vị sư mô tả việc thiền định của vị này là khởi lên “một trạng thái trong đó yêu thương và từ bi lan tỏa khắp toàn bộ tâm, với không một niệm gì khác, không lý luận gì khác, không xem xét gì khác.”

Davidson nói, “Khi chúng tôi thí nghiệm như thế, chúng tôi nhận ra một số điểm đáng nói. Những gì chúng tôi thấy là các hình sóng gamma độ cao trong não bộ, nghĩa là dấu hiệu của tâm nhu hòa" – nghĩa là những não bộ đó dễ hơn trong việc biến đổi, để thí dụ, về mặt lý thuyết, để trở thành kham nhẫn hơn. Các nhà nghiên cứu cũng thấy trong các cuộc đo máy MRI trên các vị sư rằng một khu vực não bộ có tên là anterior insula được kích hoạt. 

Davidson nói, “Tất cả các nhà khoa học thần kinh sẽ có phần quan tâm ưa thích của họ trong não bộ. Phần anterior insula là một trong phần đó, vì đó là nơi sự phối hợp tâm-thân xảy ra. Hệ thống trong não bộ hỗ trợ cho sự lành mạnh của chúng ta được nối kết chặt chẽ với các hệ thống cơ phận khác trong thân chúng ta, và cũng nối kết với hệ miễn nhiễm và hệ kích thích tố trong những cách ảnh hưởng tới sức khỏe của chúng ta. Các bản chụp scan não bộ cho thấy rằng từ bi là một trạng thái liên hệ tới thân trong một cách quan trọng.”

 Một thí dụ: Davidson và các nhà khoa học trong nhóm nghiên cứu này đã thấy trong một cuộc nghiên cứu khác rằng thiền tập cải thiện phản ứng miễn nhiễm đối với một thuốc vaccine ngừa cúm – và những người được thí nghiệm không phải là các vị chuyên gia tập thiền Phật Giáo, mà chỉ là những người vừa mới trải qua chương trình dài 8 tuần lễ về thiền chánh niệm. 

Davidson và các nhà nghiên cứu cũng thấy trong một cuộc nghiên cứu năm 2013 rằng người dự một khóa “thiền tập về tâm từ bi” ngắn hạn cho thấy có thái độ hy sinh kham nhẫn hơn so với một nhóm đối tượng khác.

Nghiên cứu về não bộ các Phật Tử đã phổ biến hơn kể từ khi Davidson lần đầu gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng vẫn chưa biết chính xác về cách tâm từ bi thay đổi não bộ để làm cho sức khỏe tốt hơn hay làm cho thái độ ứng xử tốt hơn. Các làn sóng gamma và khu vực insula trong não bộ phựt sáng chỉ có thể nói rằng có sự nối kết giữa tâm và thân, và rồi, về điều nó làm cho bạn tự nghĩ về một phẩm cách tốt đẹp hơn.

Davidson nói rằng nghiên cứu cho thấy rằng “chúng ta có thể mang trách nhiệm đối với não bộ của chúng ta.” Trong đó, tự trưởng dưỡng trách nhiệm có thể là bước đầu tiên.

Bản văn gốc ở đây:

http://www.theatlantic.com/health/archive/2015/07/dalai-lama-neuroscience-compassion/397706/ 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Ba 2016(Xem: 14714)
Thật sự thì cũng định trả lời kiểu “cộc lốc” ngay lúc con nhắn thư hỏi rồi, nhưng thiết nghĩ, nên trích dẫn bài kinh liên quan đến vấn đề này cho nó khoa học hoá vấn đề chút. Dù sao thì con người thời nay vẫn thích “trích chương tầm cú” và “mê tín khoa học” hơn! Mà lạ lùng thay, chính đức Phật lại là người đầu tiên trả lời thực tế và giản dị một cách lạ thường mà thời nay có thể cho rằng nói kiểu đó là thô tục, không lịch sự. Nhưng có lẽ nhờ dùng từ miêu tả không bóng bẩy như vậy mà trúng tim đen người nghe. Thầy tạm dịch theo lối văn cộc lốc để lấy nghĩa cho con thấy: “Này Vāseṭṭha, rõ ràng rằng, những bà mẹ của họ đến tháng có kinh nguyệt, mang bầu, sinh đẻ, rồi cho con bú mớm. Họ toàn sinh ra từ bộ phận sinh dục của những bà mẹ ấy cả. Vậy mà họ mở miệng ra là ca tụng giai cấp Bà-la-môn là cao thượng, thanh tịnh, da trắng, là con cái, là thái tử sinh ra từ miệng của Thượng đế (Phạm thiên), Thượng đế tạo ra, là nối dõi của Thượng đế, còn giai cấp khác là hạ liệt…” [2]
28 Tháng Ba 2016(Xem: 6191)
“In my Heart Sutra’s view, one plus one equals three , and two minus one equals emptiness ().” Tru Le Nhị nguyên nhi sinh tam thừa (phải trái và trung đạo,) và 1= Sắc = = Không. Nên nhớ định đề Bát Nhã: Không không phải Không mà là Không.
30 Tháng Tám 2010(Xem: 56301)
Quyển A Brief History of Time của Stephen W . Hawking đã bán trên 22 triệu quyển ở khắp thế giới và đã được dịch trên 35 thứ tiếng. Tôi nhớ đâu đó tác giả nói rằng ai đọc hiểu quyển này thì sẽ có trình độ hiểu biết về Vật lý học ngang hàng Với một kẻ đậu tiến sĩ Vật lý học. Mặc dù tác giả đã cố gắng viết một cách phổ thông dễ hiểu, nhưng quyển A Brief History of Time không phải dễ hiểu như lúc mình mới đọc sơ qua. Trên 10 năm qua, tôi đã được dịp đọc lại nhiều lần quyển sách của Hawking và thấy rằng : “Thấy Thượng Tọa Viên Lý đã tập trung thiên lực và định lực để làm vài ba sự việc ít ai làm được: đã dịch hai tác giả khó hiểu nhất của nhân loại , một người mang tên là Long Thọ (Nagarjuna) và một người mang tên là Stephen Hawking: một bên là cái khó khăn nhất của Đạo học Đông – phương và một bên là cái khó khăn nhất của Khoa học Tây phương. Chỉ nội nỗ lực vĩ đại truyền đạt hai cái khó khăn nhất của Phật học và Khoa học, Thượng Tọa Viên Lý đáng được chúng ta hết lòng ngưỡng mộ, đó là chư
03 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6599)
Muốn khảo sát vũ trụ hiện hữu thì trước nhất phải biết rõ chính mình, hiểu rõ người, chúng sinh, và vạn vật rồi mới có thể nghiên cứu tới vũ trụ quan. Thế nên, điều thực tiển trước nhất cho nhân sinh là quay trở về chính mình để biết mình là ai, từ đâu tới, đang làm gì và sẽ đi đâu?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5995)
Nhà khoa học dùng logic kiểu Descartes để tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên, còn Phật giáo, theo tôi hiểu , dùng tư duy đạo đức, triết học để giác ngộ và giúp nhân loại diệt khổ. Tuy nhiên, khoa học và Phật giáo không phải là không tương hợp với nhau. Một Phật tử có thể là một nhà khoa học lỗi lạc. Nhưng nếu dùng khoa học để giải thích một hiện tượng siêu hình, đối với tôi, là không thực tế.
17 Tháng Chín 2015(Xem: 11561)
Trong quyển Cơ Sở Khoa Học của Thiền Chánh Niệm, nội dung nhấn mạnh đến những phương pháp thực hành Chánh Niệm. Nội dung quyển này chú trọng đến những khám phá mới về vận hành của não khi thực hành Chánh niệm qua ánh sáng khoa học.
01 Tháng Chín 2015(Xem: 7861)
Tôi cũng xin tâm tình đôi chút . Hôm nay là ngày giỗi mẹ tôi . Ngày mẹ tôi mất cách đây 16 năm , lần đầu tôi nghe và đọc Bát Nhã Tâm Kinh : “Sắc bất dị không , không bất dị sắc ; thọ , tưởng , hành , thức , diệc , phục như thị …” và tìm đến triết lý “tánh không” của ngài Long Thụ . Qua cuốn sách của anh Bách , tôi suy ngẫm về cái Không lượng tử theo đó chân không là vật chất , vật chất là chân không , hai cái đó chỉ là một giả ngữ , chúng liên hoàn tương tác với nhau , cái này chứa cái kia ; chân không , vật chất chẳng sao tách biệt .
01 Tháng Chín 2015(Xem: 5769)
21 Tháng Năm 2015(Xem: 6099)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới. Ví dụ nếu chúng ta có một gene gây ra một bệnh di truyền huyết thống, thế hệ kế tiếp thế nào cũng mắc một bệnh tương tự, chạy trời không khỏi nắng!
03 Tháng Năm 2015(Xem: 6281)
Gần đây khi Thiền Chánh Niệm trở thành một phương pháp thông dụng trong các hoạt động y khoa, danh từ Tỉnh Thức (Mindful) trở thành phổ biến trong những đối thoại đời thường . Trong quá trình ‘nhận thức’ , ý thức chỉ là bước đầu khi một đối tượng lọt vào tầm.