Phật Giáo Với Khủng Hoảng Kinh Tế - Minh An

29 Tháng Tám 201000:00(Xem: 28119)

PHẬT GIÁO VỚI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
Minh An
blank
blank
 
Phật giáo và sự khủng hoảng toàn cầu

Đó là chủ đề của Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2009 (Vesak 2009) sẽ diễn ra từ ngày 4 đến 6-5 tới tại Bangkok, Thái Lan. Phái đoàn Giáo hội Phật giáo đã đề nghị chuyên đề phụ với những nhóm diễn đàn để mời các chuyên gia trên khắp thế giới cùng chia sẻ chất xám của mình như là mối liên hệ đến hạnh phúc và khổ đau cho tất cả mọi trường hợp một cách trực tiếp hay gián tiếp. 

Tại đại lễ, các sư tăng, phật tử và các nhà nghiên cứu sẽ thảo luận ở các diễn đàn: Phật giáo và sự khủng hoảng kinh tế; Phật giáo và sự khủng hoảng đời sống hạnh phúc gia đình... Những chuyên đề này thể hiện mối quan tâm về phương diện nhập thế của Phật giáo, nhằm tìm ra về phương diện lý thuyết các lời dạy của Đức Phật góp phần căn bản, để giúp cho sự khủng hoảng đó có thể có hệ quy chiếu để dùng. Đồng thời cũng dựa trên nền tảng đó người ta khôi phục lại những gì đã mất hoặc tối thiểu trong sự mất mát đó, nỗi khổ niềm đau của con người về phương diện cảm xúc và tinh thần không bị suy sụp.

Khi nền kinh tế toàn cầu khủng hoảng, mỗi quốc gia đều có bài toán kích cầu để thúc đẩy kinh tế. Trong khi đó, Phật giáo lại đưa ra các học thuyết, quan điểm để diệt trừ lòng ham muốn. Từ góc độ này, có phải Phật giáo và các triết thuyết kinh tế đối lập nhau? 

Câu hỏi này đã được Đại đức - TS Thích Nhật Từ (Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo VN) đưa ra tại hội thảo “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp thời kỳ hội nhập” vừa được báo điện tử Đảng Cộng sản VN tổ chức tại Học viện Phật giáo Trung ương. 

Một chỗ dựa về tinh thần

Phật giáo có đứng bên lề cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu không? “Mỗi khi có sự khủng hoảng, các nhà doanh nghiệp và nhiều thành phần kinh tế xã hội đều tìm những nhà tư vấn về tinh thần, tâm linh, trong đó có đạo Phật. Họ đến để chia sẻ các kỹ năng tâm lý, làm chủ cảm xúc và vượt qua bằng nhận thức chân chính, nhìn thấy được vô thường của nền kinh tế cũng giống như bao vô thường khác trong xã hội” - Đại đức Thích Nhật Từ nói. 

Đại đức Thích Trí Chơn khuyên hãy nhìn rõ tính vô thường, vạn vật luôn chuyển biến không ngừng nghỉ. Có những chuyển biến tạo nên sự hình thành, vun bồi, cũng có những chuyển biến mang tính phá vỡ để hình thành cái mới. Ta thường vui sướng với cái được và khổ đau với cái mất mát nhưng không quá tuyệt vọng. Đại đức khuyên hãy nhìn cậu bé đắp cát xây thành trên bãi biển, mỗi lần bị sóng đánh sập, cậu lại mỉm cười và tiếp tục với trò chơi mới. Ta không đủ can đảm để mỉm cười vì thành quả “trò chơi” ta gây dựng quá lớn. Nhưng nên nghĩ rằng ít ra ta còn có cơ hội để tiếp tục gây dựng, còn cuộc sống, ta không có cơ hội để “sống lần thứ hai”.

TS Thích Nhật Từ phân tích, nếu hiểu kích cầu là một biện pháp để đẩy mạnh tiêu dùng, là nghệ thuật làm tăng tổng cầu. Nhu cầu tiêu dùng tăng lên, tạo sự kích thích và tăng trưởng kinh tế. Ngay trong tình trạng này, thái độ chuyển hóa lòng ham muốn tiêu cực của Phật giáo lại là một nghệ thuật để hỗ trợ cho kích cầu kinh tế, nghĩa là ai cũng biết quý sở hữu của người khác là đáng trân trọng; nỗ lực chân chính để làm giàu những sở hữu đó như là một phước báu. Đức Phật không hề yêu cầu tất cả hãy tiêu diệt các dục vọng nếu nó là chân chính. Do đó, sự kích cầu của Nhà nước khiến người dân có thể tiêu dùng nhiều hơn không đi ngược lại với tôn chỉ chuyển hóa tâm thức của Phật giáo. 

Tiền bạc tự nó không xấu

Lâu nay người ta thường nhìn nhận Phật giáo dưới nhãn quan là một tôn giáo thoát tục, chỉ tìm kiếm một chốn an lành có tên là “niết bàn” mà không màng đến thực tại. “Vì thế, giáo lý của đạo Phật không được ứng dụng tốt đẹp trong giới doanh nhân và doanh nhân cũng ít có cơ hội nghiên cứu để thực hành có hiệu quả vào công việc” – Đại đức Thích Trí Chơn nói. 

Đạo Phật xuất hiện để xoa dịu nỗi khổ niềm đau, xây dựng nếp sống an lành và hạnh phúc dựa trên những nền tảng đạo đức và nguyên lý sống phù hợp với quy luật tự nhiên, quy ước xã hội. Ông cho rằng sẽ không “chuẩn” lắm nếu chỉ nghiên cứu giáo lý đạo Phật nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất nhưng sẽ là thượng sách nếu doanh nhân đến với đạo Phật để sáng thêm tâm trí, củng cố niềm tin và có được những giây phút an bình, hạnh phúc trong việc kinh doanh của mình. 

blank
TS Thích Đức Thiện phát biểu quan điểm về kinh tế học Phật giáo. Ảnh: C.T.V 

Đại giới tì kheo cao học Phật giáo Tây Tạng Michael Roach, tác giả cuốn Năng đoạn Kim cương (áp dụng giáo lý của Đức Phật vào quản trị doanh nghiệp và cuộc sống) lý giải: Trong Phật giáo, tiền bạc không xấu, một người có nhiều tiền bạc có thể làm được nhiều việc thiện trên đời hơn là không có. Vấn đề làm ra tiền bằng cách nào; làm sao để tiền tiếp tục đến và chúng ta có giữ được một thái độ lành mạnh về tiền hay không. Kiếm tiền lương thiện, hiểu rõ nó từ đâu ra để tiền đừng dừng lại và giữ quan điểm lành mạnh khi ta có nó. Mỗi người cũng phải học cách hưởng thụ tiền bạc - tức là học cách giữ cho tinh thần và thân thể lành mạnh khi làm ra tiền. Kiếm tiền không được làm cho mỗi người mệt mỏi cả thể xác và tinh thần, một doanh nhân tàn phá sức khỏe khi kinh doanh tức là làm tiêu tan mục đích thực sự của việc kinh doanh. Áp dụng giáo lý Phật giáo kinh doanh, một nguyên tắc không thể bỏ qua là phải quay nhìn lại sự nghiệp kinh doanh của mình, Đại giới tì kheo Michael Roach khuyên. Bao năm làm kinh doanh của mỗi người đã có một ý nghĩa nào đó. Khi nhìn lại tất cả những gì đã đạt được, cần phải thấy rằng “chúng ta đã điều hành chúng ta và điều hành doanh nghiệp theo một cách có ý nghĩa lâu dài, để lại dấu ấn tốt cho đời” - ông khuyên. 

Không làm giàu bằng mọi giá

TS Thích Đức Thiện tóm lược: Kinh tế học Phật giáo chú trọng đến chất lượng cuộc sống và tiêu chuẩn sống tốt. Sự giàu có là một phương tiện chứ không phải là mục đích cuối cùng. Sự giàu có đạt theo chánh pháp với những giới hạn hợp pháp và những ràng buộc, đồng thời kêu gọi những giới hạn cho những ham muốn và sự tiêu thụ. Mọi phương tiện phải trong sạch và có ích đến tận cùng. 

Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu nhấn mạnh: “Kinh doanh có văn hóa là lối kinh doanh có mục đích và theo phương thức đạt tới cái lợi, cái thiện và cái đẹp. Kinh doanh vô văn hóa là lối kinh doanh sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị, không từ bất cứ thủ đoạn bỉ ổi nào, miễn là kiếm được càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Để đạt được lợi nhuận ngày càng cao, họ sẵn sàng cho ra đời những hàng kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái, những hàng có chất độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng, thậm chí sức khỏe của trẻ em. Họ chà đạp lên chuẩn mực văn hóa trong kinh doanh, họ thiếu hẳn chữ “tâm” trong kinh doanh”.

Theo Đại đức Thích Trí Chơn, khi một người bị ô nhiễm tâm thức, người đó có thể làm hại bản thân mình, hại gia đình mình. Nếu người đó có vị trí trong hệ thống chính trị hay trong kinh tế, kinh doanh thì có thể làm hại cả cộng đồng và làm hại xã hội.

Doanh nhân làm việc với tâm trong sáng, lợi mình lợi người, thấy được cái chân cái giả, thấy được những quy luật, những chuyển biến cuộc đời và ứng dụng cái thấy vào cuộc sống thường nhật thì doanh nhân sẽ có nhiều niềm vui dù công việc có thăng có trầm. 

Ngược lại, hiệu quả công việc rất tốt, sự nghiệp thành đạt nhưng nếu doanh nhân không tìm được những phút giây an bình nội tại, không thấy được bản chất cuộc đời, lấy giả làm chân, lấy phương tiện làm cứu cánh thì doanh nhân vẫn là những người nghèo khổ nhất cuộc đời: nghèo tình thương, nghèo hạnh phúc, nghèo an lạc. 

Đại đức Thích Trí Chơn đưa ra lời khuyên về 5 nguyên tắc kinh doanh theo tinh thần đạo Phật: Giữ cho tâm trong sáng. Tự lợi – lợi tha, trong kinh doanh mà vừa làm lợi cho mình vừa làm lợi cho người thì đó là phương thức kinh doanh bền vững, đẹp đẽ. Phương tiện và cứu cánh, mục đích cuối cùng của lợi nhuận là để phục vụ cho nhu yếu cuộc sống, là phương tiện đem lại an vui chứ không phải cứu cánh. Tính nhân quả là quy luật tồn tại khách quan của cuộc sống. Một khi đã hiểu và tin theo, mỗi người tự biết mình nên làm gì và không nên làm gì. Tính vô thường. 

Minh An
(Báo Người Lao Động)
 

03-01-2009 04:13:45

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Giêng 2015(Xem: 5537)
Trong sách Dân quyền sơ bộ (Bước đầu dân quyền), ông Tôn Trung Sơn định nghĩa về hội nghị như sau: “Nói chung, khi nghiên cứu sự lý rồi theo đó mà giải quyết, tự một mình mình thì gọi là độc tư, hai người với nhau thì gọi là đối thoại, ba người trở lên tuân theo những nguyên tắc nhất định, thì gọi đó là hội nghị”.
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 4981)
23 Tháng Giêng 2015(Xem: 9252)
Một vị lãnh đạo một tôn giáo lớn, tuy thờ Trời nhưng lại sợ con người, đã không dám tiếp một vị lãnh đạo tôn giáo khác trong một dịp viếng thăm Âu Châu gần đây, mặc dù một vị lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng khác từ một nước rất xa xôi tận phía nam Phi Châu đã trực tiếp can thiệp và trách cứ về hành động đáng tiếc này.
16 Tháng Giêng 2015(Xem: 6635)
Người lãnh đạo phải là gương mẫu; mà điều đòi hỏi cao nhất là đức. Đức mới là cái gốc; tất nhiên phải kèm theo cái tài phụ cho cái đức ấy. Theo Sớ giải kinh Pháp Cú (Dhammapadatthakathà), ngài Buddhaghosa ghi nhận rằng Đức Phật có lưu ý đến vấn đề tổ chức một nền hành chánh nhân đạo. Đức Thế Tôn chỉ ra rằng cả một xứ bị suy vong, đốn mạt và khốn khổ khi những người nắm vận mạng quốc gia như vua chúa, quần thần, quan lại quá đỗi tham tàn và bất công.
05 Tháng Chín 2014(Xem: 6100)
Bài viết này không đi vào tìm hiểu về cuộc chiến này mà chỉ phác thảo một vài điểm có liên quan đến Phật giáo ở trong cuộc chiến; nói cụ thể hơn là giới Phật giáo đã có những hành động gì khi đứng ở mỗi bên của cuộc chiến để thực hiện điều được gọi là “hộ quốc” của mình.
01 Tháng Chín 2014(Xem: 10417)
Trong một cuộc đối đầu, ta không nhất thiết cứ réo tên đối phương mà nguyền rủa trù ếm hay chỉ biết bắn phá, dội bom trực tiếp lên họ. Làm vậy tốn kém, om sòm và bạo lực quá, mà kết quả thì như ai cũng thấy là sẽ rất ngắn hạn. Bởi một lẽ là chiếm thành thường dễ hơn giữ thành và cái gật đầu bên ngoài không quan trọng bằng sự đồng tình bên trong.
26 Tháng Bảy 2014(Xem: 11162)
Giới luật Phật giáo cấm người xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đối với người thế tục thì giới luật không cấm đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng những phương tiện sinh sống đúng tức chánh mạng trong Bát chánh đạo. Giáo pháp nhà Phật cũng luôn nhắc nhở: “Phải biết sử dụng tài sản và giúp đỡ người khác”.
25 Tháng Bảy 2014(Xem: 11008)
Người giàu có được coi là có đầy đủ hay dư thừa tài sản. Có nhiều loại tài sản như tiền bạc, hay kiến thức hoặc thông tin kinh tế, tâm linh. Tuy nhiên bài viết này chỉ đặt trọng tâm vào quan điểm của Phật giáo đối với của cải vật chất và kinh tế.
13 Tháng Bảy 2014(Xem: 9647)
Mùa an cư năm thứ bốn mươi lăm, đức Phật ngụ tại Trúc Lâm tịnh xá, gồm khá đông chư vị đại trưởng lão và chúng tỳ-khưu. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, đức Phật và một số ít vị tỳ-khưu lại ghé vườn xoài của thần y Jīvaka hoặc lên đỉnh núi Linh Thứu (Gijjhakūṭa), tại đây ngài thường ở lại lâu hơn.