Kinh Tế Phật Giáo - Quán Như Phạm Văn Minh

30 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 16173)

KINH TẾ PHẬT GIÁO
Quán Như Phạm Văn Minh
Nhà Xuất Bản Văn Hóa-Văn Nghệ 2012

kinhtephatgiao-bia

 Hình bìa trước và sau


Đôi lời tâm huyết
trong ngày phát hành Kinh Tế Phật Giáo

kinhtephatgiao-biasauTrong cuộc tranh đấu đòi bình đẳng tôn giáo vào năm 1963, một lý thuyết cho Phật giáo Nhập thế phản ảnh qua một châm ngôn giản dị: “Phục vụ dân tộc trong ánh sáng đạo pháp. Phục vụ Đạo pháp trong hoàn cảnh của Dân tộc”. Bởi trước khi trở thành một người Phật tử, người đó trước tiên là người Việt. Không có quốc gia hay dân tộc Việt nam, sẽ không có ‘Phật tử Việt nam” hay ‘Phật giáo Việt Nam’.

Lý do chính tôi chọn con đường nghiên cứu về một đề tài mới mẻ hầu như chưa có nhà nghiên cứu Việt nam dám phiêu lưu vào, bởi tôi tin là tinh thần đạo pháp có những yếu tố có thể đóng góp và sư phát triển kinh tế tại quê nhà hiện nay, để nhà nước và những người hoạch định kinh tế có dịp suy nghĩ và tìm một con đường kinh tế mà Schumacher gọi là Chính Mệnh phù hợp với lý tưởng ‘xã hội chủ nghĩa’ là “Công Bình xã hội”. Tất cả mơ ước của Marx là tạo ra một xã hội công chính ‘không còn cảnh người bóc lột người’ hay ít ra là hố ngăn cách giàu nghèo không quá độ như trong các xã hội tư bản, nhất là trong hình thức tư bản cực đoan là kinh tế thị trường. 

Trong phần kinh tế, tôi chứng minh là các nhà kinh tế tư bản như Keynes và Samuelson không nhất thiết chống những biện pháp can thiệp của chánh phủ trong khối xã hội chủ nghĩa và cũng quan tâm đến việc phân chia tài sản quốc gia một cách công bằng ‘có thể được’ và đã phê phán hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo trong xã hội tư bản. Và tại Tây Phương có những quốc gia ‘âm thầm’ thực hiện lý tưởng xã hội như các quốc gia Bắc Âu và trong một chừng mực nào đó, hệ thống an sinh của các quốc gia Tây Âu, là những mô thức mà Việt Nam có thể học hỏi và thực hiện ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’. Phát triển cho nước giàu dân mạnh là một điều cần phải làm trong hoàn cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhưng thiên mệnh của nhà nước là ‘Công Bình Xã Hội’. Cần phải có chánh sách để những người hiện còn sống với thu nhập 1, 2 hay 3 đồng Đô La Mỹ một ngày, theo như định nghĩa người cùng đinh của Liên Hợp Quốc, cải thiện thu nhập nếu không cũng phải có một mạng lưới an sinh an toàn cho những thành phần này.

Một yếu tố có khả năng gây tranh cãi khác ‘là ánh sáng Đạo Pháp’. Chúng tôi may mắn được sống ở ngoài nước và chứng kiến kỳ chuyển pháp luân lần thứ Tư, một loại Phật giáo Nhập thế cho người sống ‘ở đây, bây giờ’, không phải đợi đến kiếp sau mới giải thoát vào cõi Tịnh Độ. Và các lý tưởng Bồ Tát của Tây phương hiện nay là những người bằng xương bằng thịt, hoẳng hóa đạo Phật bằng những đóng góp thiết thân cho chúng sinh trên nhiều lãnh vực, trong đó có kinh tế. Những lễ nghi mê tín như đốt vàng mã, lên đồng có thể là tín ngưỡng dân tộc, nhưng không phải là tinh hoa của Đạo Phật và không phải là ‘ánh sáng đạo Pháp’ mà chúng tôi muốn đề cập. Thay vì lập ra hệ thống đào tạo tăng già phức tạp, các tỳ kheo không cần phải qua con đường thọ giới dài lê thê như vậy. Các sinh viên tốt nghiệp Đại học có thể được nhận thọ giới nếu họ muốn theo con đường tâm linh. Họ chỉ cần được huấn luyện nội điển chừng hai năm là có thể vừa hành nghề chuyên môn, vừa sống và hành đạo như một tỳ kheo. Mô thức này đã áp dụng thành công trong môn phái Làng Mai. Và những Bồ tát kinh tế này có thể góp phần rất nhiều cho nhà nước trong việc hoạch định những chánh sách thực hiện công bình kinh tế theo tinh thần Phật Giáo. Nếu Phật giáo chỉ có sản phẩm như ma chay, đốt vàng mã, cầu an, cầu siêu và tệ hơn nữa, đồng bóng, những người tiêu thụ (tức Phật tử) trong thời đại tin học, sẽ không muốn tiêu thụ nữa. Một phong trào hiện đại hóa Phật giáo phải được khởi động để thu hút giới trẻ có học.

Cuộc đổi mới nào cũng bắt đầu bằng một lý tưởng utopian. Vận động hiện đại hóa Phật giáo đã kéo dài nhiều năm mà chưa có một tiến triển nào đáng kể. Ngày xưa Nhất Hạnh khi viết Đạo Phật Hiện Đại Hóa, dù lúc đó là một cổ thụ văn hóa Phật giáo, cũng đã bị ‘kết án’ là làm chia rẻ Tăng Già, cũng như Thái Hư Đại sư bị các thành phần tăng già nọa tính Trung Quốc kết án là phá hoại. Tôi mang ơn chư Phật, Bồ Tát và nhiều vị Tăng già trước 75, chỉ muốn đóng góp phần mình để trả ơn quý vị nói trên trong cuộc đời vô thường ngắn ngủi. 

Con đường ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng một bước đầu tiên. Tôi xin ‘liều mạng’ đi bước đầu tiên. Những người cải cách nào cũng có giấc mơ utopian như tôi. Thà thế còn hơn nhìn thấy Phật giáo tụt hậu thành một tín ngưỡng đầy dẫy mê tín, không phục vụ cõi nhân sinh mà chỉ lo cho tiền kiếp hay hậu kiếp mịt mùng.

Cám ơn quý gia đình và bạn hữu đã đến tham dự buổi phát hành sách. Tuy lâu năm không gặp lại nhau nhưng tôi vẫn còn nhớ từng nét mặt, từng cử chỉ của quí bạn mà tôi có thời đã từng hoạt động văn nghệ chung. Cám ơn cố nhân Ngọc Anh và Trái Tim Mặt Trời, Như Dương và gia đình đã góp sức hình thành việc xuất bản Kinh Tế Phật giáo tại quê nhà, nhất là hai bạn Sâm Thương và Trần Anh Tuấn.

Quán Như Phạm Văn Minh
(Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=thutin&action=detail&id=209 & Chuyển Luân)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Giêng 2015(Xem: 5558)
Trong sách Dân quyền sơ bộ (Bước đầu dân quyền), ông Tôn Trung Sơn định nghĩa về hội nghị như sau: “Nói chung, khi nghiên cứu sự lý rồi theo đó mà giải quyết, tự một mình mình thì gọi là độc tư, hai người với nhau thì gọi là đối thoại, ba người trở lên tuân theo những nguyên tắc nhất định, thì gọi đó là hội nghị”.
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 5003)
23 Tháng Giêng 2015(Xem: 9281)
Một vị lãnh đạo một tôn giáo lớn, tuy thờ Trời nhưng lại sợ con người, đã không dám tiếp một vị lãnh đạo tôn giáo khác trong một dịp viếng thăm Âu Châu gần đây, mặc dù một vị lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng khác từ một nước rất xa xôi tận phía nam Phi Châu đã trực tiếp can thiệp và trách cứ về hành động đáng tiếc này.
16 Tháng Giêng 2015(Xem: 6650)
Người lãnh đạo phải là gương mẫu; mà điều đòi hỏi cao nhất là đức. Đức mới là cái gốc; tất nhiên phải kèm theo cái tài phụ cho cái đức ấy. Theo Sớ giải kinh Pháp Cú (Dhammapadatthakathà), ngài Buddhaghosa ghi nhận rằng Đức Phật có lưu ý đến vấn đề tổ chức một nền hành chánh nhân đạo. Đức Thế Tôn chỉ ra rằng cả một xứ bị suy vong, đốn mạt và khốn khổ khi những người nắm vận mạng quốc gia như vua chúa, quần thần, quan lại quá đỗi tham tàn và bất công.
05 Tháng Chín 2014(Xem: 6113)
Bài viết này không đi vào tìm hiểu về cuộc chiến này mà chỉ phác thảo một vài điểm có liên quan đến Phật giáo ở trong cuộc chiến; nói cụ thể hơn là giới Phật giáo đã có những hành động gì khi đứng ở mỗi bên của cuộc chiến để thực hiện điều được gọi là “hộ quốc” của mình.
01 Tháng Chín 2014(Xem: 10427)
Trong một cuộc đối đầu, ta không nhất thiết cứ réo tên đối phương mà nguyền rủa trù ếm hay chỉ biết bắn phá, dội bom trực tiếp lên họ. Làm vậy tốn kém, om sòm và bạo lực quá, mà kết quả thì như ai cũng thấy là sẽ rất ngắn hạn. Bởi một lẽ là chiếm thành thường dễ hơn giữ thành và cái gật đầu bên ngoài không quan trọng bằng sự đồng tình bên trong.
26 Tháng Bảy 2014(Xem: 11372)
Giới luật Phật giáo cấm người xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đối với người thế tục thì giới luật không cấm đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng những phương tiện sinh sống đúng tức chánh mạng trong Bát chánh đạo. Giáo pháp nhà Phật cũng luôn nhắc nhở: “Phải biết sử dụng tài sản và giúp đỡ người khác”.
25 Tháng Bảy 2014(Xem: 11037)
Người giàu có được coi là có đầy đủ hay dư thừa tài sản. Có nhiều loại tài sản như tiền bạc, hay kiến thức hoặc thông tin kinh tế, tâm linh. Tuy nhiên bài viết này chỉ đặt trọng tâm vào quan điểm của Phật giáo đối với của cải vật chất và kinh tế.
13 Tháng Bảy 2014(Xem: 9661)
Mùa an cư năm thứ bốn mươi lăm, đức Phật ngụ tại Trúc Lâm tịnh xá, gồm khá đông chư vị đại trưởng lão và chúng tỳ-khưu. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, đức Phật và một số ít vị tỳ-khưu lại ghé vườn xoài của thần y Jīvaka hoặc lên đỉnh núi Linh Thứu (Gijjhakūṭa), tại đây ngài thường ở lại lâu hơn.