KINH TÁM ĐỀ TÀI GIÁC NGỘ
của CÁC BẬC ĐẠI NHÂN
(Bát Đại Nhân Giác Kinh)
Sa môn An Thế Cao (người nước An-tức) dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-hoa, vào đời Hậu-Hán (25-220 s.TL)
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Gia-nã-đại, năm 2011
Đã là đệ tử Phật,
Ngày đêm phải hết lòng,
Đọc tụng và quán niệm
Tám đề tài giác ngộ
Của các bậc Đại Nhân.
Thứ nhất, giác ngộ rằng:
Thế gian là vô thường,
Quốc độ là mong manh,
Bốn đại là khổ, không,
Năm uẩn là vô ngã;
Tất cả đều sinh diệt,
Đều biến đổi không ngừng,
Hư ngụy không tự chủ.
Tâm là nguồn khởi ác,
Thân là nơi chứa tội.
Quán sát thấy như trên,
Dần dần thoát sinh tử.
Thứ hai, giác ngộ rằng:
Nhiều tham dục là khổ.
Bao nhiêu nỗi cực nhọc
Trong sinh tử luân hồi,
Do tham dục khởi sinh.
Nếu sống ít ham muốn,
Không chạy theo dục vọng,
Thân tâm được tự tại.
Thứ ba, giác ngộ rằng:
Tâm cứ mãi tham cầu,
Không bao giờ biết chán,
Thì tội ác theo đó,
Cũng tăng trưởng không cùng.
Bồ-tát không như thế,
Niệm niệm thường biết đủ,
Sống nghèo, tâm giữ Đạo,
Xem trau dồi trí tuệ
Là sự nghiệp duy nhất.
Thứ tư, giác ngộ rằng:
Lười biếng thì đọa lạc.
Phải luôn luôn tinh tấn,
Phá giẹp giặc phiền não,
Hàng phục bốn loài ma,
Thoát ngục tù ấm, giới.
Thứ năm, giác ngộ rằng:
Ngu si là cội gốc
Của sinh tử luân hồi.
Bồ-tát thường tâm niệm,
Phải học rộng nghe nhiều,
Chăm vun bồi trí tuệ,
Có đầy đủ biện tài
Để giáo hóa chúng sinh,
Đạt được niềm vui lớn.
Thứ sáu, giác ngộ rằng:
Chỉ vì quá nghèo khổ,
Người ta sinh oán thù,
Rồi tạo nhiều nghiệp xấu.
Bồ-tát hành bố thí,
Không phân biệt oán, thân,
Không nhớ thù hận cũ,
Không ghét người làm ác.
Thứ bảy, giác ngộ rằng:
Năm dục lạc gây ra
Tội lỗi và hoạn nạn.
Tuy là người cõi tục,
Mà không nhiễm thói đời.
Pháp khí luôn bên mình:
Chỉ ba y, một bát.
Người xuất gia lập chí
Sống thanh bạch, giữ Đạo,
Giữ phạm hạnh thanh cao,
Từ bi độ muôn loài.
Thứ tám, giác ngộ rằng:
Lửa sinh tử hừng hực,
Gây thống khổ vô biên.
Hãy phát tâm đại thừa,
Cứu độ khắp tất cả.
Nguyện thay cho chúng sinh,
Nhận chịu vô lượng khổ;
Khiến cho hết mọi loài,
Được niềm vui giải thoát.
Tám điều vừa nói trên,
Là các bậc Đại Nhân
(Chư Phật và Bồ-tát)
Đã thấy biết rõ ràng.
Các Ngài từng tinh tấn
Tu đạo và hành đạo,
Phát đại nguyện từ bi,
Phát triển trí tuệ lớn,
Cưỡi con thuyền Pháp Thân,
Về đến bến Niết Bàn.
Trở lại biển sinh tử
Để cứu độ chúng sinh,
Các Ngài đều sử dụng
Tám điều vừa nói trên,
Khai mở cho chúng sinh
Thấy rõ khổ sinh tử,
Tu tâm, lìa năm dục,
Tiến vào con đường Thánh.
Nếu người đệ tử Phật
Thường tụng tám điều trên,
Quán niệm, không lãng quên,
Dứt trừ vô lượng tội,
Tiến tới quả Giác Ngộ,
Chóng thành bậc Chánh Giác;
Vĩnh viễn thoát ra khỏi
Biển sinh tử khổ đau,
Và mãi mãi thường trú
Cõi giải thoát an lạc.
KINH ƯU BÀ TẮC
Tam tạng pháp sư Cù Đàm Tăng Già Đề Bà (người nước Kế-tân)
dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-hoa,
vào đời Đông-Tấn (317-420).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
tại Gia-nã-đại, năm 2012.
Đây là những điều chính tôi được nghe:
Thuở đó đức Phật đang ngự tại tinh xá Cấp-cô-độc, trong rừng cây Kì-đà, ở thành Xá-vệ. Một hôm nọ, trưởng giả Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị ưu bà tắc, đã tìm đến tịnh thất của tôn giả Xá Lị Phất. Các vị cúi đầu đảnh lễ tôn giả, rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Xá Lị Phất đã sử dụng nhiều phương tiện khéo léo để thuyết pháp cho các vị cư sĩ này, đem lại cho họ niềm vui pháp lạc, làm phát khởi nơi họ niềm khát ngưỡng đối với Tam Bảo. Sau đó, tôn giả Xá Lị Phất tới chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Trưởng giả Cấp Cô Độc và năm trăm vị ưu bà tắc cũng nối gót tôn giả, đi đến chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi mọi người đã an tọa, đức Phật dạy:
“Này thầy Xá Lị Phất! Thầy nên biết rằng, nếu một vị đệ tử tại gia đạo hạnh, gìn giữ và thực hành năm giới pháp một cách hòan hảo, và tu tập thành tựu bốn tâm tăng thượng, thì có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn gì. Xá Lị Phất! Thầy cũng nên ghi nhận rằng, vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy sẽ không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỉ và bàng sinh. Một người như thế là đã đắc quả Tu-đà-hòan, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh-giác, không còn thối đọa vào các nẻo ác; chỉ còn qua lại cõi Trời và cõi Người tối đa bày lần nữa là chấm dứt sinh tử khổ đau.
“Thầy Xá Lị Phất! Người đệ tử tại gia đạo hạnh khéo gìn giữ và thực hành năm giới pháp như thế nào?
“Vị ấy xa lìa sự giết hại, trừ dứt sự giết hại, buông bỏ dao gậy; biết hổ biết thẹn, tập từ tập bi, bảo hộ cho mọi lòai sinh vật, kể cả các lọai côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại. Đó là giới pháp thứ nhất mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữ và thực hành hòan hảo.
“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự không cho mà lấy, trừ dứt sự không cho mà lấy, khi nào cho mới lấy; tâm không keo kiệt, thường hay bố thí, vui vẻ trong sự bố thí, bố thí mà không cầu đền đáp; tâm không tham lam, thấy tài vật của người mà không ham lấy về cho mình. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm trộm cắp. Đó là giới pháp thứ hai mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữ và thực hành hòan hảo.
“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự tà dâm, trừ dứt sự tà dâm. Bất cứ là nam hay nữ, dù người ấy nằm trong sự bảo hộ của cha hay mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ, hoặc chị em, hoặc anh em, hoặc cha mẹ bên sui gia, hoặc gia đình sui gia, hoặc bởi người đồng tính, hoặc là vợ con hay chồng con kẻ khác, kể cả kẻ cuồng dâm khủng bố, hoặc kẻ đã hứa hôn, đối với người nam hay người nữ ở bất cứ chỗ nào trong những trường hợp này, đều không xâm phạm đến. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm tà dâm. Đó là giới pháp thứ ba mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữ và thực hành hòan hảo.
“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự nói dối, trừ dứt sự nói dối; chỉ nói sự thật, vui thích sự chân thật, an trú vững chắc nơi sự chân thật; được tin cậy hòan tòan, không bao giờ dối gạt thế gian. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm dối trá. Đó là giới pháp thứ tư mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữ và thực hành hòan hảo.
“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự uống rượu, trừ dứt sự uống rượu, diệt trừ tận gốc tánh thích uống rượu. Đó là giới pháp thứ năm mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữ và thực hành hòan hảo.
“Thầy Xá Lị Phất! Người đệ tử tại gia đạo hạnh thành tựu bốn tâm tăng thượng như thế nào thì có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn?
“Trước hết, vị ấy quán niệm về Như Lai như thế này: Như Lai là bậc Không Dính Mắc, bậc Đẳng Chánh Giác, bậc Minh Hạnh Túc, bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ, bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thiên Nhân Sư, là Phật, là đức Thế Tôn. Quán niệm về Như Lai như thế thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy hòan tòan dứt sạch những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ và lo âu. Nhờ niệm tưởng tới Như Lai mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ nhất, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.
“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Pháp như thế này: Giáo pháp đựợc đức Thế Tôn giảng dạy thật khéo léo, chắc chắn đưa tới thành quả giải thóat hòan tòan. Giáo pháp đó đưa tới trạng thái không ưu phiền, không bức não, có tính cách thường hằng, không dời đổi. Quán niệm và biết rõ như thế về Pháp thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy không còn những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ và lo âu. Nhờ niệm tưởng tới Pháp mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ hai, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.
“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Tăng như thế này: Thánh chúng của Như Lai là những bậc hướng về nẻo thiện, đi trên đường chánh, thực hành giáo pháp, sống đúng theo giáo pháp. Trong thánh chúng ấy có các bậc A-la-hán và sắp chứng A-la-hán, các bậc A-na-hàm và sắp chứng A-na-hàm, các bậc Tư-đà-hàm và sắp chứng Tư-đà-hàm, các bậc Tu-đà-hòan và sắp chứng Tu-đà-hòan; – tức là có đủ cả bốn đôi tám bậc. Thánh chúng của Như Lai đã thành tựu được Giới, thành tựu được Định, thành tựu được Tuệ, thành tựu được Giải-thóat, và thành tựu được Giải-thóat-tri-kiến. Thánh chúng ấy đáng được tôn kính, đáng được quí trọng, đáng được phụng sự, đáng được cúng dường; đó là ruộng phước tốt nhất cho thế gian. Nhờ niệm tưởng tới Tăng mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ ba, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.
“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Giới như thế này: Giới luật của Phật không có khuyết điểm, không bị xuyên thủng, vững chắc như đất, không uế trược, không hư vọng, được các bậc hiền thánh khen ngợi, tiếp nhận và hành trì. Quán niệm và biết rõ như thế về Giới thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy không còn những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ và lo âu. Nhờ niệm tưởng tới Giới mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ tư, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.
“Này thầy Xá Lị Phất! Nếu thầy biết rằng một vị đệ tử tại gia đạo hạnh giữ gìn và thực hành năm giới pháp một cách hòan hảo, cùng tu tập thành tựu bốn tâm tăng thượng, có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn gì, thì, này Xá Lị Phất, thầy cũng nên ghi nhận rằng, vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy sẽ không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh, hoặc nẻo ác nào khác. Một người như thế là đã đắc quả Tu-đà-hòan, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh-giác, không thối đọa vào các nẻo ác; chỉ còn qua lại cõi Trời và cõi Người tối đa bảy lần nữa là chấm dứt sinh tử khổ đau.”
Bấy giờ đức Phật nói bài tụng rằng:
Kẻ trí sống tại gia
Thấy sợ cảnh địa ngục,
Nên thọ trì Thánh Pháp.
Dứt trừ mọi điều ác.
Biết rõ và hành trì:
Không giết hại chúng sinh;
Chân thật, không dối trá;
Không trộm tài vật người;
Trung kiên đạo vợ chồng,
Thói tà dâm dứt tuyệt;
Nhất quyết không uống rượu
Để tâm chẳng lọan cuồng.
Thường niệm tưởng Chư Phật,
Thường niệm tưởng Chánh Pháp,
Niệm Tăng và niệm Giới,
Do đó tâm an vui.
Muốn thực hành bố thí
Để vun trồng phước đức,
Trước cúng bậc Tịch Tĩnh,
Được phước báo lớn nhất.
Nghe đây Xá Lị Phất!
Ta nói “bậc Tịch Tĩnh”:
Như bò và chim câu,
Tùy lọai chúng sinh ra,
Có con đen, con trắng,
Có con đỏ, con vàng,
Màu đốm hay màu tuyền…
Dù chúng màu sắc gì,
Xấu tốt không đáng kể.
Bò huấn luyện thuần thục,
Có sức mạnh chuyên chở,
Đi nhanh lại về nhanh,
Đó là lòai hữu dụng.
Ở nhân gian cũng vậy,
Người dù thuộc giới nào,
Sát đế lị, phạm chí,
Cư sĩ, hay thợ thuyền…
Những ai trì tịnh giới,
Không đắm nhiễm thế gian,
Trở thành bậc Thiện Thệ,
Cúng dường những bậc ấy,
Được phước báo rất lớn;
Phàm phu không hiểu biết,
Không tu, không trí tuệ,
Cúng dường những kẻ ấy,
Phước báo không đáng kể.
Có sáng mới chiếu soi,
Không sáng lấy gì soi?
Phật tử cần tu tuệ,
Căn lành thêm vững bền,
Chỉ sinh về cõi lành,
Qua lại cõi Trời, Người
Nhiều lắm là bảy lần,
Cuối cùng đạt Niết Bàn.
Đó là những lời đức Phật đã dạy. Tôn giả Xá Lị Phất, các vị tì kheo, trưởng giả Cấp Cô Độc và năm trăm vị ưu bà tắc, sau khi nghe lời Phật dạy, đều hoan hỉ phụng hành.
(Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm,
tạng Đại Chánh, quyển 1, trang 616)
LƯU Ý: Xin đừng nhầm lẫn kinh Ưu Bà Tắc này với kinh ƯU BÀ TẮC GIỚI, thuộc hệ kinh luật đại thừa, do tam tạng pháp sư Đàm Vô Sấm (385-433) dịch từ Phạn văn ra Hán văn vào năm 426, tại nước Bắc-Lương (397-439), Trung-hoa, được thu vào tạng Đại Chánh, quyển 24, mang số 1488, trang 1034.
PHỤ GHI:
Liên quan đến bậc Tu-đà-hoàn, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật dạy: “Tu-đà-hoàn có hai hạng: một là hạng độn căn; hai là hạng lợi căn. Hạng độn căn thì phải qua lại giữa cõi Người và cõi Trời bảy lần mới chứng quả A-la-hán. Hạng độn căn này lại còn có năm hạng nữa: có hạng thì phải qua lại sáu lần; có hạng thì phải qua lại 5 lần; có hạng thì phải qua lại bốn lần; có hạng thì phải qua lại ba lần; có hạng thì chỉ qua lại hai lần, mới chứng quả A-la-hán. Còn hạng lợi căn thì chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán ngay trong đời hiện tại.”
(Đại Bát Niết Bàn Kinh, phẩm “Ca Diếp Bồ Tát”,
Tam tạng pháp sư Đàm Vô Sấm dịch ra Hán văn
tại nước Bắc-Lương (397-460), thời đại Đông-Tấn Liệt Quốc, Tạng Đại Chánh, quyển 12, kinh số 374.
Cư sĩ Hạnh Cơ trích dịch ra Việt văn.)
Nghi Thức SÁM HỐI SÁU CĂN
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch và sọan
(Dựa theo “Lục Thì Sám Hối
Khoa Nghi”
của vua Trần Thái Tông, Việt-nam)
Khải Bạch
Nghi Thức Sám Hối này do cư
sĩ Hạnh Cơ soạn và chú thích. Nội dung của nghi thức
đã được dịch từ bài
“Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi” (bằng
Hán văn) của vua Trần Thái Tông (1218-1277).
Nghi thức đã được lựa
chọn và sắp xếp lại thành chỉ có
một thời, khác với nguyên tác.
Theo nguyên tác (trong tác phẩm Trần Thái
Tông Ngự Chế Khóa Hư), vua Trần
Thái Tông đã soạn sáu nghi sám hối
riêng biệt cho sáu thời trong một ngày
đêm (khuya, sáng, trưa, chiều, đầu
hôm, nửa đêm); mỗi thời, sám
hối tội lỗi của một trong sáu căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), có
nghi thức đầy đủ từ lúc dâng
hương cho đến khi hồi hướng.
Trộm nghĩ, Việt-nam vốn đã có
nghi thức sám hối riêng của mình
từ gần ngàn năm trước, nhưng
lại không được sử dụng phổ
biến, mà trong thiền môn, từ lâu
nay, chỉ có những nghi thức sám hối
của Trung-hoa được sử dụng. Vì
vậy, để tỏ lòng tôn kính hướng
về cội nguồn quí báu của Tổ Tiên
Dân Tộc, nghi thức này đã được
tuyển dịch và soạn ra.
Kính cẩn,
Cư sĩ Hạnh Cơ
Edmonton, Gia-nã-đại,
đầu đông năm 2000 (PL. 2544)
NGHI THỨC SÁM HỐI SÁU CĂN
1. Thiền tọa (10 phút – mục
đích là để điều hòa thân
tâm trước khi vào nghi lễ Sám Hối)
2. Dâng hương (đại chúng
cùng quì, lắng nghe và quán tưởng
theo lời xướng của vị Chủ lễ)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Kính bạch đấng Đại Giác Thế Tôn
Đại chúng hòa hợp tề tựu trước nghiêm đài
Dâng nén hương thơm trùm pháp giới
Hương này do âm dương hội tụ
Trời đất(1) sinh thành
Công vun trồng trải đã nhiều đời
Lại được sức chư thần(2) bảo hộ
Gốc rễ vững vàng,
Từng nhờ thấm nhuần mưa pháp
Thể chất thanh khiết
Từng nương bóng mát mây từ
Giống kì lạ không thể sánh cùng cây thường
Hương thơm trong lành người phàm khó biết
Vừa châm vào lửa, cắm lên lư vàng
Liền kết thành lọng báu tầng tầng
Bay thẳng lên không trung
Dùng làm lễ dâng trước Phật
Chúng con tin sâu sắc
Cùng một dạ chí thành
Nguyện hương thơm vi diệu
Xông khắp cõi mười phương
Cúng dường vô lượng Phật
Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng
Rời khỏi đài quang minh
Đến vô biên Phật độ
Thi hành các Phật sự
Ơn nhuần khắp chúng sinh
Đều phát tâm bồ đề
Đất tâm(3) đà rộng mở
Muôn hoa nở thắm tươi
Chúng con dâng cúng Phật
Gió nghiệp lặng đời đời
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ
Tát
(3 lần)
3. Lễ Tam Bảo
Nhất tâm kính lễ Phật Bảo thường
- trụ trong mười phương (1 lạy)
Nhất tâm kính lễ Pháp Bảo thường
- trụ trong mười phương (1 lạy)
Nhất tâm kính lễ Tăng Bảo thường
- trụ trong mười phương (1 lạy)
4. Khai thị 1 (quì – vị Chủ lễ
đọc lời khai thị, đại chúng lắng
nghe)
Thưa đại chúng! Đi lại dễ
dàng trên bộ hay dưới sông là
nhờ có xe, thuyền; rửa sạch trần
cấu nơi thân tâm là nhờ sám
hối. Muốn rửa sạch thân tâm mà
không dùng phương pháp sám hối thì
cũng giống như muốn đi lại dễ dàng
mà không dùng xe thuyền. Công năng của
việc sám hối thật là to lớn, như
kinh Đại Tập nói: “Áo dơ dù để
cả trăm năm, nhưng giặt trong một ngày
thì có thể sạch sẽ. Cũng vậy, các
nghiệp xấu đã tích tụ hàng trăm
ngàn kiếp, nếu biết quán chiếu bằng
trí tuệ của Phật, thì có thể tiêu
trừ sạch hết chỉ trong một ngày hoặc
một giờ.”
Vả lại, chúng sinh vốn có tính
giác trọn vẹn, sáng suốt thanh tịnh,
trong lặng như thái hư, một hạt bụi
cũng không dính được. Nhưng vì
do bọt vọng tưởng nổi dậy mà
uế độ(4) hiện thành, phân
chia có năng và sở, Phật và chúng
sinh, ngu và trí v.v..., căn tánh đều
sai khác. Nếu chỉ bày ra một cửa
thì thật khó ngộ nhập, cho nên đức
Phật của chúng ta đã dùng trí nguyện
rộng lớn, mở cửa phương tiện,
tùy lối mà chỉ cho đường về,
ứng theo bệnh mà cho thuốc uống. Vì
biết rõ các huyễn cấu nơi chúng
sinh chỉ là do vọng tưởng phát sinh,
nên khuyên phải nhất tâm kiền thành
qui y sám hối; khiến cho gió lặng sóng
yên, bụi sạch gương sáng, thân tâm
thanh tịnh, tự tại như xưa. Vì sao
được như vậy? Vì phút trước
tâm xấu xa, như mặt trăng bị mây
che, mà phút sau tâm đã trở nên
tốt đẹp, như bó đuốc quét sạch
bóng tối. Ôi! Chẳng phải là công
đức sám hối lớn lao đến như
vậy sao! (3 tiếng chuông, đại chúng đứng
dậy)
5. Lời sám hối tổng quát (đại
chúng đồng tụng theo tiếng khánh)
Chí tâm sám hối
Đệ tử chúng con
Từ vô lượng kiếp
Sáu căn sai quấy
Bỏ mất bản tâm
Không biết đường ngay
Đọa ba ác đạo
Không sám tội trước
Khó hối lỗi sau
Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng
thường trụ trong mười phương
(3 lạy)
6. Sám hối tội lỗi của nhãn
căn (đại chúng đồng tụng theo
tiếng khánh)
Kính bạch Thế Tôn
Căn mắt chúng con
Cái xấu xem kĩ
Việc thiện qua loa
Nhận lầm không hoa(5)
Bỏ quên trăng thật
Thương ghét khởi niệm
Đẹp xấu tranh giành
Liếc xéo nhìn xiên
Che mờ chánh kiến
Xanh đi trắng đến
Tím phải vàng sai(6)
Mọi thứ nhận lầm
Khác gì mù mắt
Gặp người nhan sắc
Nhìm trộm liếc ngang
Mê tối kiếp xưa
Bản lai diện mục(7)
Thấy người giàu có
Nhìn ngó đăm đăm
Gặp kẻ nghèo hèn
Không thèm để ý
Khi thân nhân chết
Lệ máu đầm đìa
Người khác qua đời
Ráo khô nước mắt
Hoặc thấy Tam Bảo
Hoặc vào già lam
Trước tượng trước kinh
Lơ là không thiết
Phòng tăng điện Phật
Trai gái cợt đùa
Mắt liếc mày đưa
Đắm mê sắc dục
Không sợ Hộ Pháp
Không trọng Long Thần
Hớn hở ham vui
Đầu chưa từng cúi
Tội lỗi như thế
Vô lượng vô biên
Đều do mắt sinh
Phải sa địa ngục
Trải hằng sa kiếp
Mới được làm người
Dù được thân người
Lại bị đui chột
Nếu không sám hối
Thật khó tiêu trừ
Nay trước Phật đài
Chí thành sám hối
Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng
thường trụ trong mười phương
(3 lạy)
7. Sám hối tội lỗi của nhĩ căn
Kính bạch Thế Tôn
Căn tai chúng con
Ghét nghe giáo pháp
Thích những lời tà
Quên mất bản tâm
Chỉ lo vọng ngoại
Sáo đàn huyên náo
Gọi khúc long ngâm(8)
Tiếng mõ tiếng chuông
Cho là tiếng ếch
Hát tình ca thảm
Chú ý lắng nghe
Lại để ngoài tai
Câu kinh lời kệ
Thoáng nghe khen hão
Khấp khởi mong cầu
Nói rõ lời lành
Không màng đón nhận
Bạn chơi bạn rượu
Chuyện ngắn chuyện dài
Sư trưởng dạy khuyên
Bịt tai không đoái
Tiếng vòng tiếng xuyến
Liền nảy lòng tham
Nghe nửa câu kinh
Liền thành tai ngựa
Tội lỗi như thế
Vô lượng vô biên
Đầy ắp bụi trần
Kể sao cho xiết
Hiện báo vừa hết
Liền đọa tam đồ(9)
Khi được thân người
Lại làm người điếc
Nếu không sám hối
Thật khó tiêu trừ
Nay trước Phật đài
Chí thành sám hối
Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng
thường trụ trong mười phương
(3 lạy)
8. Sám hối tội lỗi của tị căn
Kính bạch Thế Tôn
Căn mũi chúng con
Thường ham mùi lạ
Trăm thứ chan hòa
Chẳng thích chân hương
Năm phần thanh tịnh(10)
Xạ lan(11) sực nức
Mê luyến tìm cầu
Giới định thơm lừng
Chưa từng để mũi
Trầm xông hương đốt
Đặt trước Phật đài
Ngửi trộm ngông nghênh
Hít hơi phẩy khói
Ý thức trần tục
Khinh mạn Long Thần
Chỉ biết đam mê
Mùi hương trái đạo
Mặt đào má hạnh
Đeo dính chẳng lìa
Cây giác hoa tâm
Gọi về không ngó
Hoặc ra phố chợ
Hoặc vào nhà trù
Thấy bẩn(12) muốn ăn
Thèm mùi lông thú
Tỏi hành không tránh
Tanh hôi chẳng hiềm
Mê đắm không dừng
Như heo dầm ổ
Hoặc hỉ nước mũi
Hoặc búng sáp vàng(13)
Bôi cột quẹt thềm
Bẩn dơ đất tịnh
Say mèm nằm ngủ
Điện Phật phòng tăng
Hơi thở hôi nồng
Hun(14) kinh xông tượng
Ngửi mùi son phấn
Thành kẻ dâm ô
Ngửi mùi sen thơm
Thành ra kẻ trộm
Không hay không biết
Đều do nghiệp mũi
Tội lỗi như thế
Vô lượng vô biên
Khi xả mạng rồi
Đọa ba đường khổ
Trải hằng sa kiếp
Mới được làm người
Dù được thân người
Lại cam mũi tịt
Nếu không sám hối
Thật khó tiêu trừ
Nay trước Phật đài
Chí thành sám hối
Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng
thường trụ trong mười phương
(3 lạy)
9. Sám hối tội lỗi của thiệt căn
Kính bạch Thế Tôn
Căn lưỡi chúng con
Ham đủ các vị
Rành rẽ tinh thô
Thức thức nếm qua
Béo gầy đều biết
Giết hại sinh vật
Nuôi dưỡng thân mình
Chiên rán cá chim
Nấu hầm cầm thú
Đầy miệng thịt máu
Kín ruột tỏi hành
Vừa hết đòi thêm
Ăn hoài không đủ
Đàn chay gặp hội
Lễ Phật cầu thần
Đành để bụng không
Đợi khi hoàn mãn
Ăn chay buổi sáng
Cơm ít nước nhiều
Cháo thuốc qua loa
Giống như người bệnh
Tít mắt mỡ thịt
Cười nói oang oang
Rượu chuốc cơm mời
Nguội đi nóng tới
Cưới gả con cái
Thết tiệc đãi đằng
Sát hại chúng sinh
Chỉ vì cái lưỡi
Đặt điều nói dối
Thêu dệt lắm lời
Đâm thọc hai chiều
Lại thêm ác khẩu
Nhục mạ Tam Bảo
Nguyền rủa song thân
Khinh rẻ thánh hiền
Lừa vua dối chúa
Bàn bạc bươi móc
Hay dở chuyện người
Thị phi chính mình
Tìm phương dấu diếm
Bình luận kim cổ
Khen chê đó đây
Nịnh bợ nhà giàu
Lăng nhục kẻ khó
Chửi mắng tôi tớ
Xua đuổi tăng ni
Nói lời dèm pha
Thật là độc địa
Nói lời gian xảo
Êm như tiếng ru
Thật nói thành hư
Vẽ tô điều quấy
Oán hờn thời tiết
Phỉ nhổ non sông
Tán gẫu phòng tăng
Huyên thuyên điện Phật
Tội lỗi như thế
Vô lượng vô biên
Nhiều như trần sa
Đếm sao cho hết
Mạng này vừa chết
Cảnh khổ đọa vào
Kéo lưỡi trâu cày
Đồng sôi rót miệng
Thọ báo muôn kiếp
Mới lại làm người
Dù được thân người
Suốt đời câm ngọng
Nếu không sám hối
Thật khó tiêu trừ
Nay trước Phật đài
Chí thành sám hối
Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng
thường trụ trong mười phương
(3 lạy)
10. Sám hối tội lỗi của thân căn
Kính bạch Thế Tôn
Căn thân chúng con
Tinh cha huyết mẹ
Giả hợp nên hình
Năm tạng trăm xương
Cùng nhau kết tụ
Chấp là thân thật
Quên mất pháp thân
Sinh sát đạo dâm
Thành ra ba nghiệp
Đây là nghiệp sát
Bạo ngược lộng hành
Không phát lòng từ
Bốn loài một thể
Vì không biết rõ
Giết hại mặc tình
Hoặc là giết lầm
Hoặc là cố ý
Hoặc tự mình giết
Hoặc bảo người làm
Hoặc tìm thầy bùa
Thuật tà trù ếm
Hoặc làm thuốc độc
Dùng hại sinh linh
Tính chỉ hại người
Không hề thương vật
Hoặc đốt rừng núi
Lấp cạn suối khe
Xua chó thả ưng
Giăng chài bủa lưới
Móng tâm khởi ý
Cử động hành vi
Thấy nghe vui theo
Đều là tội sát
Đây nghiệp trộm cắp
Lòng dạ tham lam
Thấy tài vật người
Tâm tà móng khởi
Mò túi mở tráp
Bẻ khóa cạy then
Lấy làm của riêng
Tài sản thường trụ
Không chỉ vàng ngọc
Mới là tội to
Cọng cỏ cây kim
Đều là tội trộm
Đây nghiệp dâm dục
Tâm mê sắc thanh
Mắt đắm phấn son
Liêm trinh chẳng kể
Lòng đầy tư dục
Điện Phật phòng tăng
Cư sĩ nữ nam
Cười đùa cợt nhả
Tung hoa ném quả
Khều cẳng kề vai
Khoét ngạch trèo tường
Tội dâm tất cả
Tội lỗi như thế
Vô lượng vô biên
Đến lúc mạng chung
Liền sa địa ngục
Gái nằm giường sắt
Trai ôm cột đồng
Trải kiếp hằng sa
Mới sinh nhân thế
Nếu không sám hối
Thật khó tiêu trừ
Nay trước Phật đài
Chí thành sám hối
Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng
thường trụ trong mười phương
(3 lạy)
11. Sám hối tội lỗi của ý căn
Kính bạch Thế Tôn
Căn ý chúng con
Lăng xăng nghĩ ngợi
Không lúc nào dừng
Vướng víu tình trần
Kẹt tâm chấp tướng
Như tằm kéo kén
Càng buộc càng bền
Bướm lao vào đèn
Tự thiêu tự nướng
Hôn mê không tỉnh
Điên đảo phát sinh
Nhiễu loạn tâm thần
Đều do ba độc
Tội đầu của ý
Keo kiệt tham lam
Ghen ghét mưu mô
Của mình thì tiếc
Của người vơ vét
Vốn ít lời nhiều
Của chứa tợ sông
Vẫn cho chưa đủ
Như hũ lủng đáy
Rót vào trống không
Chẳng bao giờ đầy
Thà để gạo mốc
Thà để tiền mục
Không giúp người nghèo
Vải chất lụa chồng
Mặc ai đói rách
Được người trăm lạng
Không kể là nhiều
Bỏ ra một đồng
Bảo mình hao lớn
Trên từ châu báu
Dưới đến tơ gai
Kho đụn chứa đầy
Chưa từng bố thí
Bao nhiêu sự việc
Ngày tính đêm lo
Mỏi trí lao tâm
Đều từ tham nghiệp
Đây tội sân hận
Gốc bởi lòng tham
Lửa giận bốc lên
Nạt nộ trợn mắt
Đốt tiêu hòa khí
Không riêng kẻ phàm
Cả đến tăng ni
Tranh đua công kích
Khích bác sư trưởng
Chỉ trích mẹ cha
Cỏ nhẫn úa vàng
Lửa độc rực cháy
Buông lời hại vật
Cất tiếng hại người
Không nhớ Phật từ
Không tuân giới luật
Hí luận thì giỏi
Đối cảnh lại ngu
Dù ở cửa không
Chưa thông vô ngã
Như cây sinh lửa
Lửa đốt cháy cây
Những tội trên đây
Đều do sân nghiệp
Đây tội si độn
Căn tính ngu đần
Ý thức tối tăm
Tôn ti không rõ
Không phân thiện ác
Giết gấu gẫy tay
Chặt cây hại thân
Mắng Phật mang họa
Phun trời ướt mặt(15)
Quên đức quên ơn
Bội nghĩa bội nhân
Không tỉnh không xét
Đều là si nghiệp
Những tội như trên
Rất nặng rất sâu
Khi bỏ thân mạng
Sa vào địa ngục
Trăm ngàn kiếp sau
Mới được làm người
Chịu báo ngu dốt
Nếu không sám hối
Thật khó tiêu trừ
Nay trước Phật đài
Chí thành sám hối
Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng
thường trú trong mười phương
(3 lạy)
12. Khai thị 2 (quì – vị Chủ lễ đọc lời khai thị, đại chúng lắng
nghe)
Thưa đại chúng! Gốc thân không
vững, bản mệnh khó an. Phàm là người
đầu đội trời, không tránh khỏi
nhãn quang rơi xuống đất(16).
Một sớm chợt sẩy tay, muôn kiếp
khó được lại thân người. Mặt trời lên đến giữa trời thì phải xế, người đời có thịnh ắt có suy. Hình thể chẳng bền
lâu, giàu sang không giữ mãi. Mau lẹ
như nước chảy dưới sông, mỏng
manh như mây trên đỉnh núi. Ngày thường
chẳng tạo nhân lành, có lúc ắt
về cảnh khổ. Hãy khởi lòng tin sâu
sắc, trừ sạch nghi ngờ. Hãy mở
tâm trong sáng như chư Phật, soi rọi phá
tan cái thùng tăm tối chúng sinh. Nên
nhớ tới cơn vô thường thấm
thoắt, chớ tham phù thế xa hoa. Hãy mau
kéo mũi lôi về(17), chớ
để buông lòng phóng chạy. Hãy tự
soi sáng nội tâm, không nên chạy tìm
ngoại cảnh. Nên biết tiền trình khó
tiến, chớ tham nệm ấm ngủ say. Lên
giường khó bảo đảm sẽ xuống
giường, đêm nay há biết được
đêm mai. Cửa giác ngộ hãy tiến
thẳng vào, ba đường ác chớ
nên nhắm tới. Quay đầu lại nhận
lấy quê mình(18), mở mắt
ra tỉnh mộng phù thế. Hãy nghĩ tới
bốn con rắn độc(19) đang
bức bách, chớ quên hai con chuột(20)
đang gặm mòn. Luân hồi ba cõi đến
bao giờ, quanh quẩn bốn loài chừng
nào dứt? Hãy sớm gieo giống lành,
không nên khư khư tìm quả ác. Người
người mau tỉnh, ai nấy siêng tu. Nên
bước đi trên đường vãng
sinh, hãy vịn vào xe giải thoát. Cửa
ngục nào đâu, đêm nay quyết tâm
phá vỡ. Dốc lòng lễ Vô Thượng
Từ Dung, mở mắt thấy Đại Quang
Minh Tạng. (3 tiếng chuông, đại chúng đứng dậy)
13. Pháp ngữ (vị Chủ lễ xướng)
Trống pháp rền vang dậy
Đánh tan mộng thế trần
Chuông chùa ngân sương sớm
Thức tỉnh kiếp trầm luân
Người đang say mê ngủ
Còn chìm trong tối tăm
Đâu biết phương Đông nọ
Mặt trời sáng rỡ dần
Đêm dài rồi cũng sáng
Đường mờ khó thoát thân
Nếu chẳng siêng hành đạo
Làm sao tỏ chân tâm
14. Phát nguyện (đại chúng đồng
tụng theo tiếng khánh)
Nguyện giữ tâm ý thường trong lặng
Nguyện rèn tàng thức dứt vấn vương
Nguyện bao nghi ngờ đều phá vỡ
Nguyện cho trăng định mãi tròn đầy
Nguyện lắng pháp trần không khởi động
Nguyện tránh xa lưới ái biển tình
Nguyện ngưng tâm vượn thôi nhảy nhót
Nguyện dừng ý ngựa dứt lăng xăng
Nguyện hằng ấp ủ lời Phật dạy
Nguyện vui thiền định Tổ Sư truyền
Nguyện luôn thực hành hạnh Bồ Tát
Nguyện vượt ba cõi chứng Chân Như
15. Hồi hướng (đại chúng đồng tụng theo tiếng khánh)
Chúng con quay về nương Thánh Chúng
Chí thành đảnh lễ đức Từ Tôn
Hồi hướng công đức khắp quần sinh
Do nhân thù thắng thành Chánh Giác
(3 lạy, hoàn mãn)
CHÚ THÍCH:
(01) Âm dương, trời đất: Đây là những từ tượng trưng cho đức sinh thành, nói theo tín ngưỡng dân gian Việt-nam. Trong giáo lí nhà Phật, những từ ấy chỉ có nghĩa là “duyên sinh”, tức là bất cứ sự vật gì cũng đều do các duyên
(điều kiện) hợp lại mà sinh thành.
(02) Chư thần: “Chư thần” ở
đây là chỉ cho chư vị Hộ-pháp,
Thiện-thần luôn luôn ủng hộ và
bảo vệ Phật pháp.
(03) Đất tâm: Tâm chứa chủng tử của vạn pháp và làm phát sinh vạn pháp, cũng giống như đất
chứa hạt giống của mọi loại cây
cỏ và làm nẩy sinh mọi loại cây
cỏ. Bởi vậy, TÂM thường được
gọi là “đất tâm” (tâm địa).
(04) Uế độ: là cõi dơ bẩn,
tức chỉ cho những nơi mà đời
sống đầy phiền não, tối tăm, đau
khổ. Thế giới loài người chẳng
hạn, là một loại “uế độ”.
(05) Không hoa: là hoa đốm giữa
hư không. Khi mắt bị đau, hay vừa
dụi mắt xong mà nhìn lên khoảng không,
chúng ta thấy như có vô số hoa đốm
đủ màu nhảy múa trong không khí.
Hoa đốm đó không có thật, chỉ
do mắt bệnh mà hóa hiện ra.
(06) Xanh đi trắng đến, tím phải
vàng sai: Đây là nói về cái tâm
không bình đẳng, phân biệt chấp trước
khi đứng trước sự vật. Đó
là cái tâm vọng động của người
không tu hành, chỉ biết chạy đuổi
theo thị dục mà gây tội lỗi.
(07) Bản lai diện mục: là mặt mắt
tự thuở nay. Đây là một thuật
ngữ thường dùng trong thiền môn,
chỉ cho chân tánh, hay Phật tánh vốn
có sẵn trong mỗi chúng sinh.
(08) Long ngâm: là tên một khúc
nhạc hay. Truyện “Trịnh Thuật Tổ”
trong sách Bắc Tề có chép: Thuật
Tổ là người chơi đàn cầm
giỏi. Một đêm nằm ngủ thấy một
người chơi một khúc nhạc rất
hay, tỉnh dậy bèn theo đó soạn thành
khúc “Long Ngâm”, được nổi
tiếng đương thời.
(09) Tam đồ: là ba đường khổ, tức ba cảnh giới với ba cách hành hạ khác nhau, khiến cho chúng sinh chịu
đau khổ cùng cực: 1. Hỏa đồ
(cảnh giới lửa): trong cảnh giới
địa ngục, chúng sinh bị lửa
thiêu đốt mãnh liệt; 2. Đao đồ
(cảnh giới dao): trong cảnh giới ngạ
quỉ, chúng sinh vừa bị đói khát,
vừa bị các thứ dao kiếm bách
hại nặng nề; 3. Huyết đồ (cảnh
giới máu): trong cảnh giới súc
sinh, các loài vật bị loài người
ăn thịt, và chính chúng cũng ăn
thịt lẫn nhau.
(10) Năm phần thanh tịnh: Đây là
năm thứ hương thơm thanh tịnh, gọi
là “chân hương”; danh từ Phật
học Hán Việt gọi là “ngũ phần
hương”, gồm có: 1. Hương GIỚI:
hương thơm do sự giữ gìn giới
luật, các nghiệp thân ngữ ý đều
thanh tịnh; 2. Hương ĐỊNH: hương thơm
của sự tu tập thiền định, tất
cả vọng niệm đều chìm lắng, tâm
ý không còn loạn động; 3. Hương
TUỆ: hương thơm của trí tuệ sáng
chói, thấy biết sự vật hoàn toàn
bằng chánh kiến; 4. Hương GIẢI THOÁT:
hương thơm của thành quả giải thoát,
không còn bị ràng buộc bởi bất
cứ loại phiền não cấu uế nào; 5. Hương GIẢI THOÁT TRI KIẾN: hương thơm của bậc đã chứng đạt trí tuệ siêu việt, dứt tuyệt căn bản vô minh, thấy rõ bản tánh vốn vô nhiễm của mình, thân tâm hoàn toàn tự tại, không còn bị bất cứ điều gì làm cho chướng ngại. Năm thứ chân hương trên
cũng chính là năm thứ công đức
để làm nên pháp thân của chư
Phật; cho nên, chữ “HƯƠNG” ở
đây được dùng để ví dụ
cho pháp thân của chư Phật. Bởi vậy,
“ngũ phần hương” cũng tức
là “ngũ phần pháp thân” (tức:
giới pháp thân, định pháp thân,
tuệ pháp thân, giải thoát pháp thân,
và giải thoát tri kiến pháp thân).
(11) Xạ lan: chỉ cho các mùi thơm
vật chất, trần tục.
(12) Bẩn: Chữ “bẩn” ở đây là chỉ cho các thức ăn có mùi tanh hôi của thịt cá, do hành động
sát sinh, hoặc do những hành động
bất chánh mà có.
(13) Sáp vàng: chỉ cho cứt mũi hoặc nước mũi đặc như đờm.
(14) Hun: có nghĩa như xông, ướp.
(15) Giết gấu gẫy tay, chặt cây hại thân, mắng Phật mang họa, phun trời ướt mặt: Đại ý của bốn câu này nói lên sự ngu si tối dạ của người đời, không biết điều gì là đúng, sai, phải, trái. Một anh chàng cầm rựa vào rừng giết gấu. Anh đang đi, thình lình một con gấu xông ra cắn cánh tay anh, nhưng chưa trúng. Thấy thế, anh chàng bèn cầm rựa chặt đứt lìa cánh tay kia của mình để cho con gấu khỏi cắn được! Một anh chàng khác leo lên một cây cao lớn để chặt một cành. Anh muốn chặt ở ngay chỗ sát thân cây cho cành được dài. Anh bèn leo ra ngồi ở đầu cành và xoay mặt vào để chặt phía trong. Cành cây đứt, mang theo anh ta rớt xuống đất! Một người nông dân đem lúa ra phơi, bỗng trời mưa xối xả. Ông ta giận quá, ngửa mặt lên vừa chửi trời, vừa phun nước miếng cho dơ trời. Nhưng bao nhiêu tiếng chửi của ông chỉ có ông nghe, bao nhiêu nước miếng ông phun lên đều rơi trở lại trên mặt ông! Có một bà nọ do ngoại đạo xúi giục, đã độn bụng lớn rồi đến chỗ Phật để bêu xấu, đổ thừa cho Phật đã gây ra cái bụng bầu cho bà, rồi mắng
chửi Phật. Nhưng không ngờ, trong
lúc bà đang mắng chửi Phật thì
một con chuột ở đâu chạy tới
cắn đứt cái xà rông của bà
rớt xuống, làm cho bao nhiêu thứ
bà độn trên bụng đều rớt
xuống theo, lộ rõ lòng dạ ác độc
của bà.
(16) Nhãn quang: là sức sáng của
con mắt. Nhãn quang rơi xuống đất là
nói con người nhất định không
thoát khỏi sự chết.
(17) Kéo mũi lôi về: Ý câu
này nói, luôn luôn quán sát và
điều phục tâm ý mình, không để
cho nó chạy lông bông đuổi theo năm
dục.
(18) Quê mình: tức là tự
tánh thanh tịnh vốn có (bản lai diện
mục) của mình.
(19) Bốn con rắn độc đang bức bách: Bốn con rắn độc là chỉ cho bốn yếu tố (tứ đại: đất, nước, gió, lửa) tạo nên thân người. Bốn thứ này luôn luôn
chống trái lẫn nhau, làm cho thân ta chẳng
lúc nào thấy an ổn. Chúng lại còm
cõi, già nua theo thời gian, chỉ chực
tan rã, gây cho ta bao nhiêu lo âu, phiền
muộn, khổ đau.
(20) Hai con chuột đang gặm mòn: Hai con
chuột là chỉ cho ngày và đêm. Ngày
qua đêm đến, hết ngày lại đêm,
hết đêm lại ngày; cứ thế mà
thời gian trôi qua, bào mòn thân xác,
cho đến ngày tàn tạ để vào cõi
chết; giống như người đeo vào
sợi dây treo trên miệng giếng, bị
hai con chuột cứ chạy qua chạy lại, gặm
nhấm lần hồi, cho đến khi sợi dây
đứt, người kia rớt xuống đáy
giếng tan thân.
NGHI LẠY TAM BẢO
Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ
biên sọan (Hán văn), Phật lịch 2518
Cư sĩ Hạnh Cơ chuyển dịch sang Việt ngữ
Phật lịch 2557 (2014)
PHẦN MỘT
KHAI KINH (tùy nghi)
PHẦN HAI
XƯỚNG LẠY
1. XƯỚNG:
Đối trước chư Phật cả ba đời,
Trong các thế giới khắp mười phương,
Con đem thân miệng ý thanh tịnh,
Kính lễ cùng khắp không bỏ sót;
Nhờ sức oai thần hạnh Phổ Hiền,
Hiện thân khắp trước các Như Lai,
Một thân lại hiện vô số thân,
Mỗi thân kính lễ vô số Phật.
Vô số Phật trong một vi trần,
Đều ngự giữa chúng hội Bồ-tát;
Cùng khắp pháp giới cũng như vậy,
Lòng tin chư Phật đều đầy đủ.
HÒA:
Một lòng kính lạy Ba Ngôi Báu Phật Pháp Tăng thường trú trong khắp mười phương pháp giới, trải suốt ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. (1 lạy)
2. XƯỚNG:
Chư Phật khắp mười phương,
Đấng Đại Thánh Thế Tôn
Thấy tột cùng thật tướng
Vạn pháp ở thế gian,
Bậc Thầy của trời người.
Cho nên con hôm nay
Xin quay về nương tựa.
HÒA:
Đệ tử chúng con qui y Phật, đấng phước đức trí tuệ vẹn tòan. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y trời thần quỉ vật. (1 lạy)
3. XƯỚNG:
Tất cả Pháp thường trú,
Lời Phật dạy thanh tịnh,
Có công năng chữa lành
Các bệnh khổ thân tâm.
Cho nên con hôm nay
Xin quay về nương tựa.
HÒA:
Đệ tử chúng con qui y Pháp, con đường xa lìa tham dục, đưa đến cuộc sống thanh tịnh. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y ngọai đạo tà giáo. (1 lạy)
4. XƯỚNG:
Chư vị Đại Bồ Tát
Không an hưởng niết bàn
Của bốn quả Thanh Văn,
Mà phát tâm cứu độ
Khắp chúng sinh đau khổ.
Cho nên con hôm nay
Xin quay về nương tựa.
HÒA:
Đệ tử chúng con qui y Tăng, bậc tôn quí giữa mọi người. Xin nguyện đời đời, vĩnh viễn không qui y tà sư bạn xấu. (1 lạy)
5. XƯỚNG:
Thời Phật đang tại thế
Chúng con còn trầm luân,
Nay được sinh làm người
Thì Phật đã diệt độ!
Đáng thương cho chúng con
Nghiệp dầy mà phước mỏng,
Nên xin đem một niệm
Chí thành cầu sám hối.
HÒA:
Do tham sân si từ vô thỉ,
Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,
Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
6. XƯỚNG:
Đệ tử chúng con từ đời vô thỉ,
Xa rời chân tánh, trôi giạt sông mê,
Xuôi theo sinh tử để nổi chìm,
Đuổi bám sắc thanh mà đắm nhiễm;
Mười triền mười sử, chứa thành hữu lậu nghiệp nhân;
Sáu căn sáu trần, gây nên vô biên tội cấu;
Mê man bể khổ, lún mãi đường tà;
Chấp chặt ngã nhân, bỏ ngay làm quấy;
Bao đời nghiệp chướng, chồng chất lỗi lầm.
Ngưỡng mong trên Tam Bảo từ bi,
Chúng con tâm thành xin sám hối.
HÒA:
Do tham sân si từ vô thỉ,
Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,
Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
7. XƯỚNG:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu,
Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không.
Như thế thật là chân sám hối.
HÒA:
Do tham sân si từ vô thỉ,
Chúng con đã tạo nhiều tội lỗi,
Bằng cả ba nghiệp thân ngữ ý,
Hôm nay thảy đều xin sám hối. (1 lạy)
8. XƯỚNG:
Con nguyện tu hành đạo bồ đề,
Dù sinh nơi nào cũng nhớ lại
Thường được xuất gia tu tịnh giới,
Không thiếu, không sót, không hủy phạm.
Hòa:
Nay con phát nguyện thọ trì ba nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ nhất là “nhiếp luật nghi”; con nguyện từ nay cho đến vô tận đời vị lai: không làm các việc ác. (1 lạy)
9. XƯỚNG:
Dùng tâm không chấp tướng “ngã”, không chấp tướng “nhân”, không chấp tướng “chúng sinh”, không chấp tướng “thọ mạng”, để tu tập tất cả pháp lành, chắc chắn thành tựu quả vị Bồ Đề Vô Thượng.
HÒA:
Nay con phát nguyện thọ trì ba nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ hai là “nhiếp thiện pháp”; con nguyện từ nay cho đến vô tận đời vị lai: luôn tinh tấn làm các việc lành. (1 lạy)
10. XƯỚNG:
Chúng sinh không số lượng, thệ nguyện đều độ khắp.
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.
Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học.
Quả Phật không gì hơn, thệ nguyện được viên thành.
HÒA:
Nay con phát nguyện thọ trì ba nhóm tịnh giới: Nhóm tịnh giới thứ Ba là “nhiêu ích hữu tình”; con nguyện từ nay cho đến vô tận đời vị lai: cứu độ tất cả chúng sinh. (1 lạy)
11. XƯỚNG:
Tu tập các pháp lành mà bỏ mất tâm bồ đề, đó chính là ma nghiệp.
HÒA:
Nay con phát tâm không vì tự cầu phước báo nhân thiên, Thanh-văn, Duyên-giác, cho đến các bậc Bồ-tát quyền thừa; chỉ y theo tối thượng thừa mà phát tâm bồ đề. Nguyện cùng chúng sinh trong khắp pháp giới, một thời đồng chứng đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. (1 lạy)
12. XƯỚNG:
Cúi đầu dưới đài sen,
Qui y đấng Đại Giác,
Mười hiệu chứng Bồ Đề,
Một vầng trăng tròn đầy.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Thế Tôn với đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, và Phật. (1 lạy)
13. XƯỚNG:
Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Đạo tràng của chúng con nơi đây
Giống như lưới ngọc trời Đế Thích,
Chư Phật mười phương đều ảnh hiện,
Thân con ảnh hiện trước chư Phật,
Cúi đầu thành tâm xin đảnh lễ.
HÒA:
Một lòng kính lạy tất cả chư Phật và vô lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp Trang-nghiêm đời quá khứ. (1 lạy)
14. XƯỚNG:
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỉ đại xả cứu muôn lòai,
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm,
Chúng con chí thành xin đảnh lễ.
Hòa:
Một lòng kính lạy tất cả chư Phật và vô lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp Hiền đời hiện tại. (1 lạy)
15. XƯỚNG:
Xem thế giới như hư không,
Như hoa sen không dính nước,
Tâm thanh tịnh còn hơn thế,
Kính lạy đức Vô Thượng Tôn.
HÒA:
Một lòng kính lạy tất cả chư Phật và vô lượng Bồ Tát, Thánh, Hiền trong vô cùng thế giới khắp mười phương thuộc kiếp Tinh-tú đời vị lai. (1 lạy)
16. XƯỚNG:
Phật dạy: Hạnh nhẫn nhục
Là pháp tu thứ nhất,
Pháp vô vi tột cùng.
Cho nên người xuất gia
Gây khổ não cho người,
Thì không gọi “sa môn”.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Tì Bà Thi. (1 lạy)
17. XƯỚNG:
Ví như người mắt sáng,
Tránh được đường hiểm nguy,
Người có trí trên đời,
Vĩnh viễn không làm ác.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Thi Khí. (1 lạy)
18. XƯỚNG:
Không ghét, không hủy báng,
Thường hành trì giới luật,
Ăn uống nên biết đủ,
Lấy nhàn tịnh làm vui,
Tâm định tĩnh, tinh tấn,
Đó là lời Phật dạy.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Tì Xá Phù. (1 lạy)
19. XƯỚNG:
Như ong hút nhụy hoa,
Chỉ lấy vị bay đi,
Không làm mất sắc hương,
Tì kheo vào làng xóm,
Không bận tâm chuyện người:
Nên làm, không nên làm.
Chỉ xét việc mình làm:
Chính đáng, không chính đáng.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Câu Lưu Tôn. (1 lạy)
20. XƯỚNG:
Tâm ý không buông lung,
Siêng tu học Chánh Pháp,
Trừ bỏ hết ái nhiễm,
Tâm định là niết bàn.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni. (1 lạy)
21. XƯỚNG:
Không làm các điều ác,
Siêng làm các điều lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Đó là lời Phật dạy.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Ca Diếp. (1 lạy)
22. XƯỚNG:
Thân không làm điều ác,
Khéo giữ gìn lời nói,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Cả ba nghiệp trong sạch.
Tu tập được như vậy,
Đại Tiên trong lòai người.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. (1 lạy)
23. XƯỚNG:
Nơi thể tánh chân như,
Pháp hữu vi không thật,
Duyên sinh, nên như huyễn;
Vô vi không sinh diệt,
Cũng không phải thật pháp,
Như hoa đốm hư không.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Tì Lô Giá Na, Pháp Thân thanh tịnh nhiệm mầu, cõi Thường-tịch-quang. (1 lạy)
24. XƯỚNG:
Mặt Phật như trăng rằm,
Như ánh sáng mặt trời,
Chiếu soi khắp mười phương,
Đủ từ bi hỉ xả.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Lô Giá Na, Báo Thân viên mãn, cõi Thật-báo trang-nghiêm. (1 lạy)
25. XƯỚNG:
Tâm Phật khó nghĩ bàn,
Trí và thân cũng vậy,
Vì hóa độ chúng sinh,
Rộng mở các phương tiện.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Hóa Thân vô số lượng, cõi Phương-tiện thánh-cư. (1 lạy)
26. XƯỚNG:
Biết nhân, pháp vô ngã,
Phiền não, sở tri chướng
Thường thanh tịnh vô tướng,
Nên khởi tâm đại bi.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, tùy lọai ứng thân hóa độ, cõi Phàm-thánh đồng-cư. (1 lạy)
27. XƯỚNG:
Khắp trời đất không ai bằng Phật,
Mười phương thế giới cũng không bằng,
Tất cả hiện hữu trong thế gian,
Tất cả đều không sánh bằng Phật.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, đấng Thế Tôn đại từ bi, đầy đủ muôn công đức, đấng Giáo Chủ cõi Ta-bà, đang ngồi đạo tràng hóa độ chúng sinh. (1 lạy)
28. XƯỚNG:
Trăm kiếp tu nhân đã tròn đầy,
Quả ba a-tăng-kì đã mãn,
Trở thành bậc Nhất Sinh Bổ Xứ,
Hiện trú tại cung trời Đâu-suất.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật Di Lặc, sẽ hạ sinh làm Giáo chủ pháp hội Long-hoa. (1 lạy)
29. XƯỚNG:
Thân Phật thanh tịnh như lưu li,
Mặt Phật sáng ngời như trăng rằm,
Phật ở thế gian thường cứu khổ,
Tâm Phật không đâu không từ bi.
HÒA:
Một lòng kính lạy Đức Phật Dược Sư Lưu Li Quang, nơi thế giới Tịnh-lưu-li ở phương Đông, gia hộ chúng sinh tiêu trừ tai nạn, thọ mạng lâu dài. (1 lạy)
30. XƯỚNG:
Không có gì gọi là niết bàn.
Không hề có niết bàn Phật chứng,
Cũng không có Phật chứng niết bàn.
Xa lìa cả năng giác, sở giác,
Dứt bặt hai ý niệm có, không.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đa Bảo Như Lai, thành Phật từ thời quá khứ xa xôi. (1 lạy)
31. XƯỚNG:
Trong cảnh giới tĩnh lặng,
Ý niệm “sinh” không còn,
Không có gì dính bám,
Không đời này, đời sau.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Bảo Thắng Như Lai. (1 lạy)
32. XƯỚNG:
Sắc thân Phật nhiệm mầu,
Thế gian không sánh bằng,
Không đủ lời xưng tán,
Cho nên con đảnh lễ.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Diệu Sắc Thân Như Lai. (1 lạy)
33. XƯỚNG:
Năm uẩn đều không, dứt nghiệp trần,
Tùy duyên ứng hiện trăm ngàn thân.
Trong mộng thấy mộng, chồng chất mộng,
Ngòai thân không thân, chính thật thân.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Quảng Bác Thân Như Lai. (1 lạy)
34. XƯỚNG:
Sắc tướng màu hòang kim,
Tròn đầy như trăng rằm,
Bậc chí tôn ba cõi,
Hàng phục mọi ma chướng,
Trời người đều qui y.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Li Bố Úy Như Lai. (1 lạy)
35. XƯỚNG:
Tín là mẹ công đức,
Nuôi lớn các căn lành,
Thóat khỏi dòng sinh tử,
Chứng nhập đại niết bàn.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Cam Lồ Vương Như Lai. (1 lạy)
36. XƯỚNG:
Cúi đầu kính lạy
Đấng Đại Đạo Sư,
Ở cõi Cực-lạc,
Tiếp dẫn chúng sinh.
Con nay nhất tâm
Phát nguyện vãng sinh.
Xin đức Từ Bi
Xót thương tiếp độ.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức A Di Đà Như Lai. (1 lạy)
37. XƯỚNG:
Phật A Di Đà thân sắc vàng,
Tướng tốt chói sáng không ai bằng,
Lông trắng giữa chặng mày mềm mại,
Uốn lượn dài hơn năm Tu-di,
Mắt xanh biếc trong ngần bốn biển.
Trong hào quang vô số Hóa Phật,
Hóa Bồ Tát cũng nhiều vô biên.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh,
Chín phẩm hoa sen lên bờ giải thoát.
Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
38. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
39. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
40. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
41. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
42. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ sáu: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thiên nhãn thông, thấy suốt vô lượng Phật độ khắp mười phương.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
43. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bảy: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thiên nhĩ thông, nghe được pháp âm của chư Phật khắp mười phương.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
44. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ tám: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có tha tâm thông, biết được tâm niệm của khắp cả chúng sinh.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
45. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ chín: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thần túc thông, có thể đi đến khắp các Phật độ trong mười phương một cách vô ngại.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
46. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không còn khởi niệm tham ái đối với thân sau.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
47. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười một: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc thường xuyên sống trong chánh định, cho đến khi chứng quả tịch diệt.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
48. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười hai: Ánh sáng của Phật A Di Đà sáng soi vô lượng, chiếu khắp mười phương Phật độ không bị chướng ngại.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
49. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười ba: Thọ mạng của đức Phật A Di Đà dài lâu vô lượng, làm lợi ích cho chúng sinh vô tận.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
50. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười bốn: Chúng Thanh-văn ở cõi Cực-lạc nhiều vô số.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
51. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười lăm: Thọ mạng của chúng sinh ở cõi Cực-lạc, ngọai trừ nguyện lực riêng, đều dài lâu vô lượng.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
52. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười sáu: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không nghe một lời bất thiện.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
53. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười bảy: Chư Phật khắp mười phương đều xưng tán danh hiệu “A Di Đà”.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
54. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười tám: Tất cả chúng sinh trong mười phương, hết lòng tin tưởng, muốn vãng sinh về cõi Cực-lạc, chí thành niệm 10 danh hiệu Phật A Di Đà, chắc chắn sẽ được vãng sinh.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
55. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ mười chín: Chúng sinh trong mười phương phát tâm bồ đề, tu các công đức, thành tâm phát nguyện vãng sinh về cõi Cực-lạc, đến phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng Thánh Chúng sẽ hiện ngay trước mặt để tiếp dẫn.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
56. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi: Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, nghĩ nhớ đến Ngài, chí thành đem mọi công đức hồi hướng nguyện sinh về cõi Cực-lạc, chắc chắn sẽ được tọai nguyện.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
57. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi mốt: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều đầy đủ 32 tướng tốt.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
58. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi hai: Chư vị Bồ-tát ở khắp các quốc độ trong mười phương, sau khi sinh về cõi Cực-lạc, ngọai trừ có bản nguyện giáo hóa riêng, tất cả đều đạt đến địa vị “Nhất sinh bổ xứ”.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
59. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi ba: Chư Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều nương Phật lực, chỉ trong khoảng bữa ăn có thể đến cúng dường chư Phật ở các Phật độ trong khắp mười phương.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
60. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi bốn: Chư Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, trong khi cúng dường chư Phật, muốn có bao nhiêu vật phẩm để cúng dường cũng đều có đầy đủ như ý.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
61. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi lăm: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có khả năng diễn nói nhất thiết trí.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
62. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi sáu: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có thân cứng chắc như kim cương, mạnh mẽ như thần Na La Diên.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
63. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi bảy: Tất cả chúng sinh và vạn vật ở cõi Cực-lạc đều nghiêm tịnh vi diệu, hình sắc đặc thù, dù người có thiên nhãn thông cũng không biết rõ ràng danh số.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
64. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi tám: Chư vị Bồ-tát cho đến những người chỉ có chút ít công đức ở cõi Cực-lạc đều có khả năng thấy biết sự cao rộng và sắc sáng vô lượng của cây đạo tràng.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
65. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ hai mươi chín: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều thọ trì phúng tụng kinh pháp mà được trí tuệ biện tài.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
66. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có trí tuệ biện tài vô hạn lượng.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
67. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi mốt: Đất đai ở cõi Cực-lạc trong sạch như gương, có thể soi thấy các Phật độ ở mười phương.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
68. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi hai: Vạn vật ở cõi Cực-lạc đều do vô lượng châu báu và trăm ngàn thứ mùi hương vi diệu làm thành, khiến cho người nghe mùi hương đều tu Phật hạnh.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
69. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi ba: Ánh sáng của đức Phật A Di Đà chiếu soi khắp các thế giới trong mười phương, các chúng sinh chạm được ánh sáng ấy đều cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
70. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi bốn: Chúng sinh khắp thế giới mười phương nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà đều chứng được vô sinh pháp nhẫn và các pháp môn tổng trì sâu xa.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
71. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi lăm: Những người nữ trong mười phương thế giới, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà liền phát tâm bồ đề, thì sau khi mạng chung sẽ không trở lại thọ thân nữ nữa.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
72. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi sáu: Chư Bồ-tát ở mười phương thế giới, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ luôn tu phạm hạnh cho đến khi thành Phật.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
73. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi bảy: Hàng trời người trong khắp mười phương thế giới, khi nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền vui mừng tin tưởng, kính lễ và tu tập hạnh Bồ-tát, thì sẽ được tất cả trời người kính trọng.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
74. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi tám: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc muốn có y phục, ẩm thực, thì liền có như ý.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
75. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ ba mươi chín: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều hưởng được niềm vui giống như các vị tì kheo đã hoàn toàn dứt trừ hết lậu hoặc.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
76. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, nếu muốn thấy vô lượng Phật độ nghiêm tịnh trong khắp mười phương, cứ nhìn vào cây báu thì liền thấy rõ ràng như thấy mặt mình trong gương.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
77. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi mốt: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, thì được các căn đầy đủ, không bị khiếm khuyết, cho đến khi thành Phật.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
78. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi hai: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền được an trú nơi chánh định thanh tịnh giải thoát, trong khoảng một niệm có thể cúng dường vô lượng chư Phật mà không bị mất chánh định.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
79. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi ba: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ được sinh vào gia đình tôn quí.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
80. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi bốn: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền hoan hỉ tu hạnh Bồ-tát, cội gốc công đức đầy đủ.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
81. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi lăm: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền được an trú trong định “phổ đẳng” (thường thấy chư Phật đồng hiện tiền), cho đến khi thành Phật.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
82. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi sáu: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều tùy nguyện mà nghe pháp một cách tự tại.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
83. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi bảy: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền tiến đến bậc bất thối chuyển.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
84. XƯỚNG:
Đại nguyện thứ bốn mươi tám: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền chứng được đệ nhất, đệ nhị và đệ tam pháp nhẫn, cùng các pháp bất thối chuyển.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. (1 lạy)
85. XƯỚNG:
Nếu ai muốn biết rõ
Chư Phật trong ba đời,
Nên quán tánh pháp giới,
Tất cả do tâm tạo.
HÒA:
Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. (1 lạy)
86. XƯỚNG:
Mọi pháp hữu vi trong thế gian
Như chiêm bao, huyễn hóa, bọt nước,
Bóng trong gương, điện chớp, sương mai.
Thời thời nên quán chiếu như thế.
HÒA:
Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. (1 lạy)
87. XƯỚNG:
Phật là đấng phước trí tròn đầy
Thấy rõ các pháp không tự tánh
Hạt giống Phật tùy duyên hiện khởi
Cho nên nói giáo pháp Nhất Thừa.
HÒA:
Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. (1 lạy)
88. XƯỚNG:
Các pháp hữu vi là vô thường,
Là các pháp có sinh có diệt,
Khi sự sinh diệt đã tiêu trừ,
Cảnh tịch diệt niết bàn hiện tiền.
HÒA:
Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Niết Bàn. (1 lạy)
89. XƯỚNG:
Pháp Phật thật cao sâu mầu nhiệm,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp,
Nay con được thấy, nghe, thọ trì,
Nguyện hiểu rõ chân ý của Phật.
HÒA:
Một lòng kính lạy Pháp Bảo khắp pháp giới, hiển bày đủ bốn khoa giáo lí hạnh quả, thể hiện qua mười hai phần giáo, gồm thâu trong ba tạng Kinh Luật Luận, thuộc cả đại thừa và tiểu thừa. (1 lạy)
90. XƯỚNG:
Dung thông hai đế chân và tục,
Dứt hai chướng phiền não, sở tri,
Đọan trừ hai chấp ngã và pháp,
Chứng nhập vào cảnh giới “bất nhị”.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. (1 lạy)
91. XƯỚNG:
Trên lí lẽ chân thật,
Một hạt bụi không dính,
Trong phương tiện độ sinh,
Không bỏ pháp môn nào.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền. (1 lạy)
92. XƯỚNG:
Thần lực Quán Thế Âm,
Không có gì sánh được,
Vô lượng kiếp huân tu,
Cực trang nghiêm thanh tịnh.
Ngàn nơi tiếng kêu cầu,
Ngàn nơi Ngài ứng hiện.
Nơi biển khổ mênh mông,
Thường hiện thân cứu khổ.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm. (1 lạy)
93. XƯỚNG:
Tánh hư không có thể tiêu vong,
Tâm kiên cố không hề lay động.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Lực Đại Thế Chí. (1 lạy)
94. XƯỚNG:
Chúng sinh độ hết mới chứng Bồ Đề,
Địa ngục chưa trống thề không thành Phật.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (1 lạy)
95. XƯỚNG:
Siêng tu đại tinh tấn,
Đốt bỏ xác thân này,
Đem cúng dường Thế Tôn,
Cầu tuệ giác vô thượng.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Dược Vương. (1 lạy)
96. XƯỚNG:
Thiện hữu tri thức
Là nhân duyên lớn,
Giúp cho hành giả
Mau lìa sinh tử.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Dược Thượng. (1 lạy)
97. XƯỚNG:
Đối thế nhân, xin khởi từ tâm.
Ngày đêm an trú nơi Chánh pháp.
Nguyện cho thế giới luôn an ổn,
Phước trí vô biên lợi quần sinh,
Bao nhiêu tội nghiệp đều tiêu trừ,
Dứt hết khổ, về nơi viên tịch.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Nhật Quang Biến Chiếu. (1 lạy)
98. XƯỚNG:
Hoa Tuệ-giác khắp chốn trang nghiêm.
Tùy trụ xứ thời thời an lạc.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Nguyệt Quang Biến Chiếu. (1 lạy)
99. XƯỚNG:
Cúi đầu qui y phép Tô-tất-đế,
Thành tâm đảnh lễ đấng Thất Câu Chi,
Con nay xưng tán đức Đại Chuẩn Đề,
Xin nguyện từ bi thường gia hộ.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Đại Bồ Tát Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Vương. (1 lạy)
100. XƯỚNG:
Kính lạy đức đại bi Quán Âm,
Nguyện lực rộng sâu, thân tốt đẹp,
Ngàn tay trang nghiêm khắp hộ trì,
Ngàn mắt sáng ngời nhìn thế gian,
Trong chân thật nói lời bí mật,
Từ vô vi khởi tâm đại bi,
Đáp ứng đầy đủ mọi kêu cầu,
Gia hộ diệt trừ các tội chướng.
HÒA:
Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. (1 lạy)
101. XƯỚNG:
Bồ-tát như vầng trăng trong mát,
Dạo chơi trong không gian mênh mông,
Chúng sinh sạch cấu tâm thanh tịnh,
Tuệ giác vô thượng liền hiển bày.
HÒA:
Một lòng kính lạy chư vị Đại Bồ Tát khắp pháp giới thanh tịnh rộng lớn như biển cả. (1 lạy)
102. XƯỚNG:
Vạn hữu ở thế gian
Như hoa đốm hư không,
Không hề có sinh, diệt.
Trong trí tuệ chân thật,
Không có hữu và vô.
Với trí tuệ như thế
Mà phát tâm đại bi.
HÒA:
Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Linh-sơn. (1 lạy)
103. XƯỚNG:
Thần lực không lường,
Mật hạnh khó suy,
Uy dũng hơn trời rồng, phá tà hiển chánh,
Vâng phó chúc của Phật, hộ pháp an tăng.
Ngưỡng mong khởi thần thông,
Rủ lòng xin chứng giám.
Kính lạy đức Bồ Tát Hộ Pháp Vi Đà cảm ứng khắp ba châu; Bồ Tát giám trai sứ giả Khẩn Na La; chư vị Thiện Thần bảo hộ giáo pháp và giới luật nơi các chốn già lam; tám bộ chúng trời rồng; cùng tất cả các vị thiện thần gần xa bổn tự.
Cúi xin các ngài, không quên lời thề nguyện của chính mình, thương xót chốn phàm trần, phóng ánh sáng uy nghiêm thầm gia hộ, khiến cho những nơi chánh pháp đang lưu truyền, nội ngọai chướng đều tiêu trừ, chúng tăng hòa hợp, bạn ác ma mị vĩnh viễn tránh xa. Người người ngộ biển tánh Tì Lô, nơi nơi nhập hạnh nguyện Phổ Hiền. Cầu cho đàn na tín thí đều thấm nhuần lợi lạc.
HÒA:
Một lòng kính lạy đức Bồ Tát Hộ Pháp Vi Đà. (1 lạy)
104. XƯỚNG:
Kiều Phạm Ba Đề cúi đầu lạy
Thánh Chúng thanh tịnh đại đức Tăng.
Voi chúa đi rồi, voi con theo,
Đèn trước tắt, đèn sau tiếp nối.
HÒA:
Một lòng kính lạy liệt vị Pháp Sư qua các thời đại, từ xưa đến nay, từ Tây sang Đông, đã từng kết tập, phiên dịch, chú thích, giảng giải Ba Tạng giáo điển. (1 lạy)
105. XƯỚNG:
Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng không đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi trần?
HÒA:
Một lòng kính lạy liệt vị Tổ Sư trải qua các thời đại, từ Tây-trúc đến Việt-nam, đã từng du hóa khắp nơi để truyền giáo và khai sơn phạm vũ. (1 lạy)
106. XƯỚNG:
Thân là cây bồ đề,
Tâm như đài gương sáng,
Nên thường xuyên lau chùi,
Đừng để dính bụi trần.
HÒA:
Một lòng kính lạy chư vị phàm thánh đại đức Tăng-già khắp ba đời mười phương. (1 lạy)
107. XƯỚNG:
Phàm là người xuất gia,
Lập chí thóat ba cõi,
Thân tâm đều khác tục,
Nối thạnh dòng giống Phật,
Nhiếp phục mọi chướng ma,
Báo đền bốn ơn nặng,
Độ chúng sinh ba cõi.
Nếu không được như thế,
Chỉ là giả làm Tăng.
HÒA:
Thay vì Bốn Ơn Nặng, kính lạy Ba Ngôi Báu thường trú trong mười phương. (1 lạy)
108. XƯỚNG:
Công đức lạy Phật rất thù thắng.
Bao nhiêu phước đức xin hồi hướng,
Nguyện cho chúng sinh khắp pháp giới,
Vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang.
HÒA:
Thay vì ơn Chúng Sinh trong khắp pháp giới, kính lạy Ba Ngôi Báu thường trú trong mười phương. (1 lạy)
PHẦN BA
HỒI HƯỚNG (tùy nghi)
Bài Xướng Lễ
CHÚC TÁN THÙ ÂN
(thời kinh khuya)
Tì Kheo Thích Nguyên Tạng
sưu tầm bản chữ Hán
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch ra Việt văn
Khể thủ nhất thiết xuất thế gian
Tam giới tối tôn công đức hải
Trí giả năng thiêu phiền não cấu
Chánh giác ngã kim quy mạng lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, vi trần sát độ trung, quá hiện vị lai, nhứt thiết chư Phật.
Chư Phật chí tôn trong ba cõi
Trí tuệ diệt tận gốc vô minh
Công đức rộng sâu như biển cả
Chúng con đảnh lễ xin qui y.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai nhất thiết Chư Phật.
Khể thủ năng bạt sanh tử hiểm
Phổ kiệt ưu não tham si hải
Phá bỉ trần lao tội nghiệp sơn
Ngã kim quy lễ diệu Pháp bảo.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô tận hư không biến pháp giới, vi trần sát độ trung, quá hiện vị lai, nhứt thiết tôn Pháp.
Pháp bảo vi diệu diệt phiền não
Phá trừ tội chướng như núi cao
Đưa chúng sinh thoát biển sinh tử
Chúng con đảnh lễ xin qui y.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai nhất thiết Tôn Pháp.
Khể thủ nhất thiết Phật xưng tán
Bát chánh vạn hạnh tác trang nghiêm
Vô vi định huệ tiệm viên minh
Ngã kim quy mạng Thánh chúng bảo.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô tận hư không biến pháp giới, vi trần sát độ trung, quá hiện vị lai, nhứt thiết Hiền Thánh Tăng.
Tăng bảo trang nghiêm Phật ngợi khen
Hành trì bát chánh lìa vọng tưởng
Định tuệ viên minh, kiêm muôn hạnh
Chúng con đảnh lễ xin qui y.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện lai nhất thiết Hiền Thánh Tăng.
Thế Tôn sắc tướng như kim sơn
Diệc như thiên nhựt chiếu thế gian
Năng bạt nhứt thiết chư khổ não
Ngã kim khể thủ đại Pháp vương.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Ta Bà Giáo chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thế Tôn sắc tướng như núi vàng
Lại như mặt trời chiếu thế gian
Nhổ sạch gốc rễ mọi khổ não
Chúng con đảnh lễ đấng Pháp Vương.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Chúng đức nghiêm thân phi số lượng
Quang minh biến chiếu quá thập phương
Tam thế Như Lai vô dữ đẳng
Hằng thí chúng sanh đại từ hàng.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Vô lượng công đức trang nghiêm thân
Ánh sáng chiếu soi khắp mười phương
Chư Phật ba đời không thể sánh
Thuyền từ hằng cứu vớt chúng sinh.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây-phương Cực-lạc thế giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Đại sĩ cửu thành đẳng Chánh giác
Thành thục hữu tình cư Đâu Suất
Trú dạ thường chuyển bất thối luân
Long Hoa tam hội độ vô cực.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật
Bồ Tát chứng Đẳng-giác đã lâu
Ngự cung Đâu-suất độ hữu tình
Ngày đêm chuyển bánh xe bất thối
Hội Long-hoa độ chúng hằng sa.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
Tam thế Như Lai chi đạo sư,
Trí nguyện quảng đại nan tư nghì,
Vô biên sát hải vi quốc độ,
Đương lai Phổ Kiến Thiện Thệ Tôn.
Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát.
Thầy của chư Phật khắp ba đời,
Trí nguyện rộng lớn khó dùng lời,
Thế giới mười phương là quốc độ,
Sẽ thành Phổ Kiến Phật tương lai.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát.
Phổ-đà-lạc-già thường nhập định
Tùy duyên phó cảm mị bất châu
Tầm thanh cứu khổ độ quần mê
Thị tắc danh vi Quán Tự Tại.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
Trong núi Phổ-đà thường nhập định
Tùy duyên cứu độ khắp hằng sa
Nghe tiếng kêu cầu liền ứng hiện
Sáng cả hồng danh Quán Thế Âm.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
Bảo quan đảnh Phật nhân đới quả
Quá khứ Chánh Minh thiên nhơn sư
Bi nguyện vận vi thiên thủ nhãn
Chiếu hộ quần sanh bất thất thời
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Phật trên mão báu nhân mang quả
Là Phật Chánh Minh trong quá khứ
Bi nguyện dùng ngàn mắt ngàn tay
Tiếp độ quần sinh không chậm trễ.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Đảnh thượng bảo bình hiện Phật sự
Nhất mao khổng trung kiến thập phương
Cử túc chấn kinh chư quốc độ
Phổ nhiếp tịnh nhơn quy Lạc bang.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Đại Hùng Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát
Bình báu trên đầu hiện Phật sự
Trong một sợi lông thấy mười phương
Cất bước chấn động các quốc độ
Tiếp người tu Tịnh về Lạc-bang.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đại Hùng Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát
Bi nguyện sơ tùng cứu thân khởi
Phân thân biến độ thục nan lương
Địa ngục vị không bất thành Phật
Ngã kim khể thủ đại thệ vương.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
Bi nguyện khởi từ cứu mẫu thân
Phân thân độ khắp khó ai lường
Địa ngục chưa trống không thành Phật
Cúi đầu đảnh lễ Đại Nguyện Vương.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
Đảnh thượng bảo châu thanh quang diệu
Diệt trừ chúng sanh tội như không
Ngã kim khể thủ Sám ma chủ
Tam chướng đốn tiêu phước huệ dung.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Hư Không Tạng Bồ Tát
Ngọc báu trên đầu sáng nhiệm mầu
Diệt trừ tội chướng cho chúng sinh
Cúi đầu đảnh lễ bậc Sám chủ
Ba chướng tiêu, phúc tuệ viên dung.
Chí tâm đảnh lễ: Mam mô Hư Không Tạng Bồ Tát
Đức tướng đoan nghiêm như kim tụ
Đầu đà khổ hạnh tự chung thân
Thân truyền Như Lai chánh pháp nhãn
Kê túc sơn trung đãi Từ Tôn.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Đại Đức Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả
Đức tướng đoan nghiêm sáng như vàng
Suốt một đời khổ hạnh đầu đà
Thế Tôn thân truyền chánh pháp nhãn
Trong núi Kê-túc đợi Từ Tôn.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả
Đắc độ thân tiên thất vương tử
Lăng Nghiêm hội thượng chứng viên thông
Hoằng dương luật giáo Tỳ Ni Tạng
Phật pháp do tư trụ thế long.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Đại Đức Ưu Ba Li Tôn Giả
Được độ trước bảy vị vương tử
Pháp hội Lăng Nghiêm chứng viên thông
Chuyên hành trì hoằng dương Giới Luật
Khiến cho Phật pháp trụ ở đời.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ưu Ba Li Tôn Giả
Đa văn chúng trung xưng đệ nhất
Chứng đạo thân ly tứ oai nghi
Kiết tập Như Lai chánh pháp tạng
Vĩnh tác nhơn thiên độ thế sư.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Nghe nhiều nhớ kĩ nhất tăng đoàn
Chứng đạo tự như bốn oai nghi
Kết tập Tạng Kinh không thiếu sót
Vĩnh viễn làm Thầy độ nhân thiên.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả
Ngã hối nhứt thiết quá
Khuyến trợ chúng đạo đức
Quy mạng lễ chư Phật
Linh đắc vô thượng huệ.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát.
Bao nhiêu lỗi lầm đều sám hối
Tán dương ủng hộ bậc cao đức
Qui mạng lễ mười phương chư Phật
Nguyện đạt được trí tuệ vô thượng.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát
CÁC BÀI KỆ TÁN
Tì Kheo Thích Nguyên Tạng sưu tầm bản chữ Hán
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch ra Việt văn
Hương vân nhi bố
Thánh đức chiêu chương
Bồ đề tâm quảng mạc năng lường
Xúc xứ phóng hào quang
Vi thoại vi tường
Ngưỡng khởi pháp trung vương
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Mây hương thơm bủa khắp
Thánh đức tỏa sáng ngời
Tâm bồ đề rộng lớn
Hào quang chiếu nơi nơi
Điềm lành hiện trước mắt
Kính ngưỡng đấng Pháp Vương
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Tâm nhiên ngũ phận
Phổ biến thập phương
Hương Nghiêm đồng tử ngộ chơn thường
Tỉ quán diệu nan lương
Thoại ái tường quang
Kham hiến pháp trung vương
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Tâm thắp năm phần hương
Biến khắp cả mười phương
Trong khói hương nghi ngút
Đồng tử ngộ chân thường
Mùi vi diệu khó lường
Mây lành sáng an tường
Dâng cúng đấng Pháp Vương
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Lư hương sạ nhiệt
Pháp giới mông huân
Chư Phật hải hội tất diêu văn
Tùy xứ kiết tường vân
Thành ý phương ân
Chư Phật hiện toàn thân
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Lò hương vừa đốt lên
Xông khắp cùng pháp giới
Chư Phật các pháp hội
Gần xa thảy đều nghe
Chốn chốn kết mây lành
Tâm chí thành dâng cúng
Chư Phật hiện toàn thân
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Chiên đàn hải ngạn
Lư nhiệt danh hương
Da Du tử mẫu lưỡng vô ương
Hỏa nội đắc thanh lương
Chí tâm kim tương
Nhất chú biến thập phương
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Hương chiên đàn hải ngạn
Lò đốt ngát mùi thơm
Mẹ con bà Da Du
An toàn không bị nạn
Trong lửa cháy hừng hực
Nghe mát mẻ dị thường
Nay đem lòng chí thành
Một nén thấu mười phương
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Diêu thiên ngọc lộ
Giác hải kim ba
Đại thiên sa giới sái phân đà
Tam muội địch trần kha
Thiểu thủy thành đa
Nhất đích tịnh sơn hà
Nam mô Cam Lồ Vương Bồ Tát
Sương ngọc cõi trời xa
Sóng vàng biển tuệ giác
Từ ba ngàn thế giới
Rải hoa sen trắng ngời
Tam muội rửa trần cấu
Nước ít biến thành nhiều
Một giọt sạch thế gian
Nam mô Cam Lồ Vương Bồ Tát
Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhân thiên
Pháp giới quảng tăng diên
Diệt tôi tiêu khiên
Hỏa diệm hóa hồng liên
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát
Nước sạch đầu cành dương
Rưới khắp đại thiên giới
Nước tự tánh vốn không
Đầy đủ tám công đức
Lợi lạc cả trời người
Rộng vô cùng pháp giới
Tiêu trừ hết tội chướng
Hóa giải mọi oan khiên
Hầm lửa hóa ao sen
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát
Kiết tường hội khởi
Cam lồ môn khai
Cô hồn Phật tử giáng lâm lai
Văn pháp phú hương trai
Vĩnh thoát luân hồi
U ám nhất thời khai
Nam mô Vân Lai Tập Bồ tát
Hội cát tường đã lập
Rộng mở cửa cam lồ
Chư cô hồn phật tử
Xin vân tập đàn tràng
Nghe pháp thọ hương trai
Xa lìa nơi tăm tối
Vĩnh viễn thoát luân hồi
Nam mô Vân Lai Tập Bồ Tát
A Di Đà Phật
Vô thượng y vương
Nguy nguy kim tướng phóng hào quang
Khổ hải tác châu hàng
Cửu phẩm liên bang
Đồng nguyện vãng Tây phương
Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật
Đức Phật A Di Đà
Bậc y vương vô thượng
Sừng sững thân sắc vàng
Phóng hào quang rực rỡ
Đưa người vượt biển khổ
Về chín phẩm hoa sen
Chúng con đồng phát nguyện
Vãng sinh về Tây-phương
Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Phật từ quảng đại
Cảm ứng vô sai,
Tịch quang tam muội biến hà sa
Nguyện bất ly Già da
Giáng phước trai gia
Kim địa dõng liên hoa
Nam mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát
Phật lòng từ rộng lớn
Cảm ứng tâm chân thành
Ánh sáng chiếu vô biên
Không rời cội bồ đề
Ban phước nhà thí chủ
Túi vàng nảy hoa sen
Nam mô Đang Vân Lộ Bồ Tát
Liên trì hải hội
Di Đà Như Lai
Quan Âm Thế Chí tọa liên đài
Tiếp dẫn thượng kim giai
Đại thệ hoằng khai
Phổ nguyện ly trần ai
Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát
Nơi hải hội Liên-trì
Đức Phật A Di Đà
Cùng Quán Âm, Thế Chí
Ngự trên đài hoa sen
Phát thệ nguyện rộng lớn
Tiếp dẫn chúng hữu tình
Nguyện mọi loài chúng sinh
Đồng vãng sinh Cực-lạc
Nam mô Liên Trì Hải Hộ Phật Bồ Tát
Đoan nghi sanh tín
Tuyệt tướng siêu tôn
Đốn vong nhơn pháp giải chơn không
Bát nhã vị trùng trùng
Tứ cú dung thông
Phước đức thán vô cùng
Nam mô Bát nhã Hội thượng Phật Bồ Tát
Đoan nghiêm lòng tin kính
Tướng tốt xưng Thế Tôn
Ngã pháp thảy đều không
Trí bát nhã siêu việt
Bốn câu vẹn dung thông
Phước đức nói không cùng
Nam mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát
Thập nhị dược xoa
Trợ Phật tuyên hoằng
Ngũ sắc thể lũ kết kỳ danh
Tùy nguyện tất viên thành
Oan nghiệp băng thanh
Phước thọ vĩnh khương ninh
Nam mô Dược Sư Hội Thượng Phật Bồ Tát
Mười hai tướng Dược-xoa
Giúp Phật tuyên giáo pháp
Chỉ ngũ sắc gút tên
Mong cầu đều mãn nguyện
Mọi oan nghiệp tiêu trừ
Hưởng phước thọ dài lâu
Nam mô Duọc Sư Hội Thượng Phật Bồ Tát
Trí huệ hoằng thâm đại biện tài,
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai.
Tường quang thước phá thiên sanh bệnh,
Cam lồ năng trừ vạn kiếp tai.
Túy liễu phất khai kim thế giới,
Hồng liên dõng xuất ngọc lâu dài.
Ngã kim khể thủ phần hương tán,
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.
Nam mô Đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát
Trí tuệ rộng sâu đại biện tài
Đứng trên sóng nước tuyệt trần ai
Ánh sáng an tường trừ bệnh khổ
Nước cam lồ rửa sạch nạn tai
Sau rặng liễu cõi vàng rộng mở
Trên hoa sen sừng sững lâu đài
Con cúi đầu dâng hương tán thán
Xin Ngài ứng hiện độ muôn loài
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Địa Tạng thập vương khỉ ai lân
Kết án tiêu danh nạp thiện duyên
Hương linh tu trượng Như Lai giáo
Nguyện bằng Phật lực vãng Tây phương
Nam mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát
Mười vua Địa Tạng khởi lòng thương
Bày án nêu tên kẻ duyên lành
Hương linh nương tựa lời kinh giáo
Nhờ Phật tiếp độ về Tây-phương
Nam mô Siêu Lạc Độ Bố Tát
Lục niên khổ hạnh Thích Ca tôn,
Ca Diếp A Nan vạn lý chơn.
Trung thử giang sơn đăng bỉ ngạn,
Nhứt chi ngũ diệp lợi nhơn thiên.
Nam mô Độ nhơn sư Bồ Tát
Phật Thích Ca khổ hạnh sáu năm
Ca Diếp, A Nan truyền vạn dặm
Non nước này lên đến bờ kia
Một cành năm lá lợi trời người
Nam mô Độ Nhân Sư Bồ Tát
Trầm nhũ chiên đàn giá mạt luân
Kim lô tài nhiệt phún tường vân
Nhân uân biến triệt tam thiên giới
Vi thoại vi tường đạt Thế Tôn
Nam mô Hương cúng dường Bồ Tát
Bột trầm hương vừa đốt
Khói xông áng mây lành
Tỏa ba ngàn thế giới
Cúng dường đức Thế Tôn
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát
Phật thân thanh tịnh tợ lưu ly,
Phật diện do như mãn nguyệt huy.
Phật tại thế gian thường cứu khổ,
Phật tâm vô xứ bất từ bi.
Nam mô Thập phương thường trú Tam bảo
Thân Phật trong sạch như lưu li
Mặt Phật tròn đầy như trăng rằm
Phật trải lòng từ khắp nơi chốn
Cứu khổ muôn loài ở thế gian
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo
Giới hương, định hương dữ huệ hương,
Giải thoát giải thoát tri kiến hương.
Quang minh vân đài biến pháp giới,
Cúng dường thập phương vô thượng tôn.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Hương giới, hương định, cùng hương tuệ
Hương giải thoát, hương biết giải thoát
Đài mây sáng tỏa cùng pháp giới
Cúng dường Chư Phật khắp mười phương
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát
Phật diện do như tịnh mãn nguyệt,
Diệc như thiên nhựt phóng quang minh.
Viên quang phổ chiếu ư thập phương,
Hỷ xả từ bi giai cụ túc.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Mặt Phật như trăng rằm
Như ánh sáng mặt trời
Chiếu soi khắp mười phương
Đủ từ bi hỉ xả
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Phật nhiếp kim liên hạ thứu phong,
Thiện Tài tham lễ giác thành đông.
Liên Hoa Tạng giới phi vô lộ,
Đâu Suất Đà thiên biệt hữu cung.
Nam mô Thập phương thường trú Tam bảo
Phật ngự tòa sen vàng
Hạ giáng đỉnh Linh-sơn
Thiện Tài lễ tham vấn
Thế giới Liên-hoa-tạng
Đường rộng mở thênh thang
Nơi cõi trời Đâu-suất
Bồ-tát có cung riêng
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo
Khể thủ Tây phương an lạc quốc,
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư.
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh,
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Nam mô Liên Trì hội thượng Phật Bồ Tát
Cúi đầu đảnh lễ
Đấng Đại Đạo Sư
Ở nước Cực-lạc
Tiếp dẫn chúng sinh
Con nay phát nguyện
Nguyện được vãng sinh
Xin đức Từ Bi
Xót thương tiếp độ
Nam mô Liên Trì Hội Thượng Phật Bồ Tát
Phật nhiếp kim liên hạ thứu phong,
Pháp khai bảo tạng ly long cung.
Tăng tùng nội uyển biệt thuyền định,
Tam bảo lâm đàn pháp hội đồng.
Nam mô Thập phương thường trú Tam bảo
Phật ngự tòa sen vàng
Hạ giáng đỉnh Linh-sơn
Kho báu Long-cung mở
Pháp bảo được tuyên dương
Tăng-già tâm thường định
Dòng pháp vận nối truyền
Ba Ngôi Báu hiện tiền
Đạo tràng thường nghiêm tịnh
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo
Ngã kim phụng hiến cam lồ vị,
Lương đẳng Tu Di vô quá thượng.
Sắc hương mỹ vị biến hư không,
Duy nguyện từ bi ai nạp thọ.
Nam mô Thuyền Duyệt Tạng Bồ Tát
Con xin dâng cúng vị cam lồ
Dù núi Tu-di cũng không hơn
Mùi thơm, vị ngon khắp hư không
Xin đức Từ Bi thương nạp thọ
Nam mô Thiền Duyệt Tạng Bồ Tát
Bồ Tát liễu đầu cam lồ thủy,
Năng linh nhất đích biến thập phương.
Tinh chuyên cấu uế tận quyên trừ,
Phổ sái pháp diên tất thanh tịnh.
Nam mô Cam lồ vương Bồ Tát
Nước cam lồ đầu nhành dương liễu
Một giọt biến khắp cả mười phương
Bao nhiêu cấu uế đều rửa sạch
Đạo tràng đây thanh tịnh trang nghiêm
Nam mô Cam Lồ Vương Bồ Tát
Lục tự Di Đà vô biệt niệm,
Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương.
Chỉ sáu chữ Di Đà
Không có niệm nào khác
Không phí công lao nhọc
Sát na đến Tây-phương
Bạch ngọc giai tiền văn diệu pháp,
Huỳnh kim điện thượng lễ Như Lai.
Ngồi trước thềm ngọc trắng
Nghe giáo pháp nhiệm mầu
Trong bảo điện hoàng kim
Con đảnh lễ Như Lai
Sơn trung tự hữu thiên niên thọ,
Thế thượng nan lưu bách tuế nhơn.
Ở sâu trong rừng núi
Có cổ thụ ngàn năm
Trong đời sống thế nhân
Khó có người trăm tuổi
Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt,
Vạn lý vô vân vạn lý thiên.
Sông dài ngàn dặm trăng ngàn dặm
Không mây che tức hiện trời xanh
Mật trúc bất phòng lưu thủy quá,
Sơn cao vô ngại bạch vân phi.
Trúc kín không ngăn dòng nước chảy
Núi cao mây trắng vẫn bay qua
Đông phương A Súc Phật,
Nam phương Bảo Tướng Phật,
Tây phương Di Đà Phật,
Bắc phương Thành Tựu Phật,
Trung phương Tỳ Lô Giá Na Phật
Đức Phật A Súc ở phương Đông
Đức Phật Bảo Tướng ở phương Nam
Đức Phật Di Đà ở phương Tây
Đức Phật Thành Tựu ở phương Bắc
Đức Phật Tì Lô Giá Na ở trung ương
Viễn quan sơn hữu sắc,
Cận thính thủy vô thanh.
Xuân khứ hoa du tại,
Nhơn lai điểu bất kinh.
Nhìn xa núi có màu
Nghe gần nước không tiếng
Xuân đi hoa còn đó
Người đến chim không sợ
Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba.
Dục thoát luân hồi khổ,
Tảo cấp niệm Di Đà.
Sông ái dài ngàn dặm
Biển khổ sóng muôn trùng
Muốn thoát vòng sinh tử
Hãy gấp niệm Di Đà
Dương Tử giang tâm thủy,
Mông Sơn đảnh thượng trà.
Hương linh tam ẩm liễu,
Tảo sanh pháp vương gia.
Nước giữa sông Dương-tử
Pha trà đỉnh Mông-sơn
Hương linh uống ba tuần
Sinh vào nhà Pháp vương
Cẩn y tam thừa giáo,
Xướng tụng thất Như Lai.
Hương linh thừa Phật lực,
Thoát hóa bảo liên đài.
Nương giáo pháp ba thừa
Xưng tụng bảy đức Phật
Hương linh nhờ Phật lực
Hóa sinh lên đài sen
Kiến văn như huyễn ế,
Tam giới nhược không hoa.
Văn phục ế căn trừ,
Trần tiêu giác viên tịnh.
Thấy nghe như huyễn mộng
Ba cõi như không hoa
Điều phục tâm tan mộng
Sạch bụi trời trong xanh
Hoa Nghiêm bảo diễn,
Lâu các môn khai.
Chung tiến Triệu Châu trà,
Hương linh quy khứ lai.
Cõi Hoa-nghiêm hiển lộ
Cửa lâu đài rộng mở
Hết tuần trà Triệu-châu
Hương linh về cõi Phật
Sơ chước Tào Khê thủy,
Tam quỳnh Triệu Châu trà.
Nguyện tiềm hinh pháp vị,
Quy khứ pháp vương gia.
Trước rót nước Tào-khê
Sau châm ba tuần trà
Xin thấm nhuần pháp vị
Trở về nhà Pháp vương
Hương tài nhiệt,
Lư phần bảo đỉnh trung,
Chiên đàn trầm dụ chơn kham cúng,
Hương yên liêu nhiễu liên hoa động,
Chư Phật Bồ Tát hạ thiên cung,
Thiên Thai sơn La Hán,
Lai thọ nhơn gian cúng.
Thiên Thai sơn La Hán,
Nạp thọ nhơn gian cúng.
Nam mô Hương cúng dường Bồ Tát
Lư báu trầm hương xông ngát
Cúng dường Chư Phật mười phương
Khói hương quyện động sen vàng
Cúi xin từ bi nạp thọ
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát
Quang minh chính đại
Cảm ứng đạo giao.
Thần tư minh phước nghiệp băng tiêu
Phật nhật vĩnh chiêu chiêu
Lợi ích phong nhiêu
Tán thán quả cao siêu
Ngay thẳng rõ ràng
Cảm ứng suốt thông
Thần thái sáng tươi
Phước tỏ nghiệp tiêu
Mặt trời trí tuệ hằng sáng rỡ
Lợi ích dồi dào quả cao siêu
Tứ hoằng phổ bị
Vạn đức công viên
Cao siêu Thập địa viết Tam hiền
Quả hải nghịch lưu
Tuyền bi nguyện di kiên
Tiếp vật lợi nhơn thiên
Bốn nguyện lớn đầy đủ
Muôn công đức trang nghiêm
Vượt Ba-hiền lên Mười-địa
Ngược dòng đời qua bể khổ
Tâm từ bi kiên cố
Làm lợi ích trời người
SÁM QUI MẠNG
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
Kính lạy chư Phật khắp mười phương,
Tuyên dương Pháp nhiệm mầu thanh tịnh,
Thánh Tăng cả ba thừa bốn quả,
Rủ lòng từ bi xin chứng giám.
Đệ tử chúng con,
Từ đời vô thỉ,
Xa rời chân tánh,
Trôi giạt sông mê,
Xuôi theo sinh tử để nổi chìm,
Đuổi bám sắc thanh mà đắm nhiễm.
Mười triền mười sử
Chứa thành hữu lậu nghiệp nhân,
Sáu căn sáu trần
Gây nên vô biên tội cấu.
Mê man bể khổ,
Lún mãi đường tà.
Chấp chặt ngã nhân,
Bỏ ngay làm quấy.
Bao đời nghiệp chướng,
Chồng chất lỗi lầm.
Ngưỡng mong trên Tam Bảo từ bi,
Chúng con tâm thành xin sám hối.
Cúi mong đức Năng Nhân cứu vớt,
Nhờ bạn lành dìu dắt dẫn đường,
Ra khỏi vực thẳm mê lầm,
Thẳng đến bến bờ giác ngộ.
Đời này vun bồi phước đức,
Huệ mạng un đúc cao dầy,
Kiếp sau trở lại làm người,
Dòng giống minh linh trí tuệ.
Sinh ngay vùng trung châu đại quốc,
Lớn lên được gặp bậc minh sư,
Do tâm chánh tín xuất gia,
Ở tuổi đồng chân vào Đạo,
Sáu căn thông mẫn,
Ba nghiệp thuần hòa,
Không nhiễm chuyện đời,
Thường tu phạm hạnh.
Giữ gìn giới luật,
Không dính nghiệp trần.
Nghiêm cẩn oai nghi,
Không hại sinh vật,
Không gặp tám nạn,
Không thiếu bốn duyên.
Trí tuệ bát nhã hiện tiền,
Tâm bồ đề không thối chuyển.
Tu học Chánh pháp,
Tỏ ngộ Đại thừa,
Mở cửa sáu pháp qua bờ,
Vượt qua a tăng kì kiếp.
Dựng pháp tràng khắp chốn,
Phá lớp lớp lưới nghi,
Dẹp tan hết tà ma,
Sáng ngời ngôi Tam Bảo.
Phụng thờ mười phương chư Phật,
Không mỏi mệt nản lòng.
Tu học tất cả pháp môn,
Nghĩa áo mầu thông suốt.
Dùng phước đức trí tuệ,
Làm lợi ích mọi loài.
Chứng đủ sáu thần thông,
Một đời tròn quả Phật.
Rồi không bỏ lìa pháp giới,
Hiện vào khắp cõi trần lao,
Trải rộng lòng từ như đức Quán Âm,
Theo gương đức Phổ Hiền hành đại nguyện.
Phương này cõi nọ,
Tùy loại theo hình,
Ứng hiện sắc thân,
Tuyên dương diệu pháp.
Địa-ngục Ngạ-quỉ,
Khổ sở triền miên,
Hoặc chiếu ánh sáng tới nơi,
Hoặc hiện phép thần biến hóa.
Những ai thấy hình tướng,
Hoặc nghe đến tên con,
Đều phát tâm bồ đề,
Thoát luân hồi bể khổ.
Những nơi khô cằn, băng giá,
Đều biến thành đất tốt rừng xanh.
Các loài ăn sắt, uống đồng,
Tất cả hóa sinh về Tịnh-độ.
Vạn loại súc sinh ngu muội,
Sát hại nhau do nợ, do oan,
Đều dứt khổ đắng cay,
Hưởng an vui lợi ích.
Gặp buổi lan tràn tật dịch,
Hiện thuốc thang cứu bệnh trầm kha.
Gặp thời nạn đói hoành hành,
Hóa thóc lúa giúp nơi khốn khổ.
Việc lợi ích dù to hay nhỏ,
Đều vì đời cứu tế ân cần.
Nguyện nhiều kiếp kẻ oán người thân,
Cùng hiện tiền bà con quyến thuộc,
Thoát khỏi khổ bốn loài chìm nổi,
Dứt dây ái muôn kiếp buộc ràng.
Cả đến mọi loài,
Đồng thành Phật đạo.
Cõi hư không dù hết,
Nguyện của con không cùng,
Hữu tình và vô tình,
Đồng tròn đầy tuệ giác.
SÁM NGÃ NIỆM
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
Kính lạy Phật! Con từ vô thỉ kiếp,
Mây vô minh che lấp tánh viên minh,
Tạo bao việc ác, bỏ hết việc lành,
Quanh quẩn luân hồi, vào ra sinh tử,
Đổi xác thay hình, biết bao khổ sở!
Nhờ chút duyên lành đời trước, nay được làm người;
May gặp ngọn gió thanh lương, lìa bỏ thói đời,
Cạo râu tóc, mặc ca sa, vào dòng Thích tử.
Nhưng lại buông lung theo đường ác cũ,
Tạo nhiều tội lỗi: phá giới phạm trai,
Sát sinh hại vật không chút bi hoài,
Thịt cá tanh hôi nuôi thân bẩn thỉu,
Lạm dụng của Tam Bảo,
Tham lam lấy của người,
Nghiện rượu, đắm sắc, mê mải chơi bời,
Sống mãi đường tà, lòng không nhàm chán;
Bội nghĩa, vong ân, coi thường sư trưởng,
Hủy báng Kinh Pháp, khinh Phật, mạ Tăng;
Hay đố kị, chèn ép kẻ tài năng,
Dùng lời ngoa, khoe khoang mình cao đức;
Giành giật lợi danh, dối người chân thật,
Hơn thua nhân ngã, tranh cãi thị phi;
Bề ngoài giả dối hiện tướng oai nghi,
Thật tế bên trong ngông cuồng ngạo mạn;
Suy nghĩ lăng nhăng tâm luôn tán loạn,
Ý tà niệm ác cứ mãi loay hoay,
Chuyện người bàn tán phấn khởi hăng say,
Niệm Phật tụng kinh dùng dằng uể oải,
Biếng nhác tu hành, chỉ ham ngủ nghỉ,
Tham lam bỏn sẻn không biết thẹn thùng;
Ruộng hoang mầm mục chẳng có chỗ dùng,
Thây nổi đại dương, trôi không dừng nghỉ.
Bản thân không mảy may phước trí,
Chắc chắn phải chịu khổ ba đường.
Con cúi xin nơi Cực-lạc Tây-phương,
Phật Di Đà cùng Quán Âm, Thế Chí,
Phóng quang uy nghi chiếu soi trần thế,
Cứu con từ vô thỉ kiếp đến nay,
Sáu căn nghiệp chướng sâu dầy,
Sát na diệt hết tội này sạch không;
Nguyện cùng pháp giới đại đồng,
Viên quang thanh tịnh dứt vòng tử sinh.