CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA Lê Sỹ Minh Tùng Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng. Nguyên Ngài là Thái tử nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Phụ hoàng tên là Tịnh Phạn vương Đầu-đà-na (Sudhodana) và Mẫu Hoàng tên là Ma-da (Maya). Họ của Ngài là Kiều-Đáp-Ma (Gautama), được dịch là Cù-đàm và tên Ngài là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha). Truyện kể rằng: Một hôm vào lễ vía Tinh Tú, vua Tịnh Phạn mở tiệc vui chơi trong thành Ca-tỳ-la-vệ. Sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện xong, Hoàng Hậu Ma-da cùng gia đình ra ngoài thành để bố thí thức ăn và quần áo cho dân nghèo. Khi trở về cung an giấc, Hoàng Hậu nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên không trung bay xuống và sau đó lấy ngà mà khai hông bên hữu của bà mà chui vào. Hoàng Hậu bèn đem điều chiêm bao này thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Vừa nghe xong, nhà vua lấy làm lạ bèn cho mời các nhà tiên tri lỗi lạc đến để đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng:”Hoàng Hậu sẽ sanh ra một quý tử có tài đức song toàn”. Nhà vua rất vui mừng vì nghĩ rằng ngôi báu của Ngài từ đây có người truyền nối. Theo tục lệ của Ấn Độ thì Hoàng Hậu phải trở về nhà của cha mẹ là vua A Nậu Thích Ca (AnuShakya) ở nước Câu-ly (Koly) để cha mẹ chăm sóc trước khi sanh nở. Trên nửa đường đi về nhà cha mẹ, Hoàng Hậu cùng đoàn gia nhân tới vườn hoa Lâm tỳ ni (Lumbini) thì bình minh vừa ló dạng. Tương truyền rằng vì thấy vườn hoa tươi đẹp nên Hoàng Hậu Ma-da rảo bước ngắm hoa. Trông thấy nhánh hoa “vô ưu” mới nở vừa thơm vừa đẹp và cành lá sum suê nên Hoàng Hậu bèn lại gần và với tay bên phải để hái hoa thì Thái Tử bỗng đâu từ trong hông phải của bà chun ra. Khi đó bỗng nhiên từ dưới đất mọc lên một đóa hoa sen Thất Bảo lớn như bánh xe mà đỡ cho Ngài. Thái tử vừa giáng sinh thì bước đi bảy bước có bảy đóa sen đỡ chân. Một tay Ngài chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà nói rằng:” Thiên thượng thiên hạ Duy ngã độc tôn Vô lượng sinh tử Ư kim tận hỷ” Có nghĩa là: Trên trời, dưới trời Ta là người duy nhất Kiếp này là kiếp cuối cùng của Ta Vì không còn sinh tử nữa. “Ngã” ở đây là chấp ngã nghĩa là chấp thân, tâm này thật sự là “ Ta” và “Cái Của Ta”. Đức Phật không phủ nhận thân này là ta hay những vật sở hữu mà chúng ta dày công gầy dựng là của ta, nhưng Ngài chỉ nhắc nhở rằng cái Ta hay cái của Ta chỉ là dựa trên quy ước, trên danh nghĩa của cuộc đời thế thôi. Nếu con người chấp cứng vào nó thì đây là những sợi dây vô hình cột chặt con người vào cảnh khổ, không có lối thoát từ kiếp sống này và đến biết bao kiếp sau nữa. Tại sao? Bởi vì khi còn chấp là còn dính mắc, còn bị ràng buộc trong thế gian. Từ chấp ngã mà gốc rễ tham, sân, si mới có cơ hội phát tác. Tùy theo cường độ tham sân si nhiều hay ít, nặng hay nhẹ mà thọ sanh nơi các cõi trời (thiên thượng) hay đọa ở các cõi địa ngục (thiên hạ). Từ đó, câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” có thể hiểu rằng: “Ta từ vô lượng kiếp đến nay, nhiều khi sanh lên các cõi trời, lắm lần đọa vào các địa ngục, đầu dây mối nhợ không do đâu khác hơn là tham, sân, si đẩy đưa đến ngã chấp mà không thấy rõ bản chất “vô ngã, duyên sanh” từ thân, tâm đến hoàn cảnh chung quanh”. Đó là lời khai thị và cũng là lời cảnh cáo ngay từ buổi bình minh của đời Ngài. Trong khi đó, Phật giáo Đại thừa giải thích câu: “Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn” là “Trên trời dưới trời, chỉ có ta là tôn quý nhất”. Nhưng tại sao lại là đấng tôn quý nhất? Bởi vì chữ “Ngã” trong câu này có nghĩa là “Chân Ngã” tức là “Phật tánh”. Vì là Phật tánh cho nên trên trời, dưới đất không có gì quý bằng. Bây giờ, hãy lắng nghe Đức Phật diễn tả lại cuộc hành trình đó trong kinh Pháp Cú câu 154: “Ta đi lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà chưa gặp kẻ làm nhà. Nay ta đã gặp ngươi rồi, ngươi đừng hòng cất nhà thêm được nữa, những đòn tay, những cột kèo, những rui mè... của ngươi đã bị mục rã cả rồi...” . Kẻ làm nhà ở đây là tham lam ái dục, là độc đầu tiên trong tam độc tham, sân, si. Nhà là tấm thân do ngũ uẩn giả hợp. Cột kèo... là những phiền não nhiễm ô. Mục rã rồi nghĩa là Đức Phật đã chinh phục, đã vượt lên trên, đã đứng ngoài sự chi phối của chúng. Nói rõ hơn là Ngài đã thành tựu tuệ giác siêu việt nên không còn bị nghiệp lực đẩy đưa đây đó, lên xuống trong ba cõi sáu đường. Do vậy Ngài tuyên bố câu: “Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ” nghĩa là vì chưa tìm ra nguyên nhân, nên trải qua vô số kiếp ta phải chịu sanh tử luân hồi. Nay đã thấy rõ nguyên nhân và nhất là đã có phương pháp diệt trừ thì sanh tử luân hồi không còn chi phối ta được nữa. Vì vậy muốn liễu sanh thoát tử thì bắt buộc phải thực chứng chân lý “Vô Ngã”. Tuy nhiên, kinh điển Nguyên thủy Pali không hề nói đến việc Thái tử sinh ra từ hông phải của Hoàng hậu Ma-da. Trong Trường Bộ Kinh Tập 1, Kinh Đại Bổn 14 có câu:”Này các Tỳ kheo! Pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát Tất Đạt Đa từ bụng mẹ sanh ra, chư thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là như vậy”. Như thế theo kinh tạng Nguyên thủy, sự đản sanh của Đức Phật là một con người bình thường, Hoàng hậu Ma-da cũng hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đến ngày khai hoa nở nhụy, Thái tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi đứa trẻ khác trên thế gian này. Đây là ngày mồng tám tháng tư (624 năm trước Tây lịch). Thái Tử được đặt tên là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha) và cũng theo tục lệ của Ấn Độ thì người con phải lấy họ mẹ là Thích Ca. Hoàng Hậu Ma-da tạ thế sau khi sanh Thái tử được bảy ngày. Mặc dầu chết sớm, nhưng Hoàng Hậu rất vui mừng vì đã sanh ra được một quý nhơn và bà nghĩ rằng mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý đó cũng như đã rửa sạch những nghiệp báo trên đời này. Vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho em gái của Hoàng hậu là bà Ma-ha-Bà-xà-ba (Mahaprajapati) nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn. Ngày đản sanh Thái tử, khắp nơi trong thành Ca-tỳ-la-vệ đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa kết trái, trên không thì chim chóc múa ca và hào quang chiếu sáng cả mười phương. Đức vua cha vui mừng khôn xiết và Ngài cho mời các vị tiên tri đến xem tướng cho Thái tử. Có vị đạo sĩ nổi tiếng tên là A Tư Đà (Asita) lúc đó đang tu trên núi Tuyết sơn, được chư Thiên mách bảo, bèn xuống núi đến cung vua để chào mừng và xem tướng cho Thái tử. Gặp Thái tử, đạo sĩ A Tư Đà bỗng nhiên chấp tay vái chào với thái độ hết sức cung kính. Đạo sĩ tuy cười mà vẻ mặt thoáng buồn. Ông nói là rất vui mừng vì :“Thái Tử có 32 tướng tốt xuất hiện nên sau này sẽ thành một vị Thánh”, nhưng ông buồn vì ông tuổi đã quá cao, ắt phải qua đời nên không có cơ hội được trực tiếp giáo huấn bởi vị Thánh nầy để được giải thoát. Nghe xong nhà vua không được vui cho lắm vì Ngài chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế mà nhà vua muốn đổi số mệnh cho con mình nên đặt tên cho Thái tử là Tất-Đạt-Đa, theo tiếng Phạn có nghĩa là kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ. Chức vị mà nhà vua muốn ám chỉ ở đây là ngôi vua, nhưng nhà vua đâu có ngờ rằng chức vị sau nầy của con Ngài chính là chức vị Phật. Khi Thái Tử lên bảy tuổi, nhà vua cho mời tất cả những vị thầy giỏi nhất trong nước để chỉ dạy cho Ngài. Thái tử làu thông các môn văn học và ngôn ngữ học. Ngài tiếp tục chuyển qua môn công kỹ nghệ học, rồi đến Y học. Sau đó Ngài còn hấp thụ cả về Luận lý học cũng như Đạo học. Riêng về Đạo học, Thái tử được dạy về 4 sách của các Thánh Vệ Đà (Veda). Đây là những sách nói về các Thánh của Bà La Môn. Kinh Phật nói rằng chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã làu thông tất cả 5 môn học và 4 sách Vệ Đà trên. Đến năm 13 tuổi, Thái tử bắt đầu học võ thuật. Nhờ có sức khỏe phi thường, Thái tử học môn gì cũng giỏi. Đặc biệt là môn bắn cung, trong một cuộc hội thi, Thái tử đã bắn một mũi tên xuyên qua 7 lớp trống đồng, trong khi những người giỏi nhất khác chỉ bắn xuyên được ba lớp trống đồng mà thôi. Chẳng bao lâu Thái tử đã trở thành một vị văn võ song toàn khó một ai sánh kip. Song song với sự phát triển về tài năng, đức độ của Ngài cũng phát triển một cách vô cùng nhanh chóng và sâu rộng. Tình thương của Ngài đối với mọi người và mọi vật bao la cao cả. Nhưng có một điều lạ là từ khi sanh ra cho đến khôn lớn, Ngài chưa lần nào được dạo chơi ngoài thành cả. ĐỜI LÀ BỂ KHỔ Một ngày xuân nọ, Thái tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Mặc dầu mới nhìn cảnh mát mẻ của mùa xuân với nào là hoa quả tươi thắm, muôn chim ca hót trên cành. Đây là một cảnh thái bình và an lạc, nhưng trong tâm hồn của Thái tử cảm thấy bồn chồn và xao động vì Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật thì nhận thấy rằng cỏi đời không đẹp đẻ an vui như khi mới nhìn qua. Bởi vì dưới ánh nắng thiêu đốt kia, người nông phu và trâu bò phải làm việc hết sức cực nhọc để đổi lấy bát cơm và nắm cỏ. Khi Ngài nhìn qua khu rừng kế bên, thì thấy người thợ săn đang rình trong bụi rặm để nhắm bắn những con chim đang líu lo trên cành mà chính người thợ săn không biết là con cọp đang rình để chụp lấy ông ta. Đây là một cảnh tương tàn tương sát. Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng mọi thủ đoạn để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Từ đó Ngài nhận thấy rõ ràng sự sanh sống là khổ. Một hôm khác, Thái tử xin vua cha được đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Khi ra đến cửa đông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, chống gậy bước từng bước nặng nề như người muốn ngã. Đến cửa nam, Thái tử thấy một người bịnh hoạn đang than khóc, rên siết đau đớn vô cùng. Qua đến cửa tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm ngay giữa đường, ruồi nhặng bu quanh và thi thể sình lên trông rất ghê tởm. Rồi một buổi nọ Ngài ra cửa bắc thì gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tỉnh và thản nhiên như người vô sự đi qua đường. Ngài vội vã đến chào và hỏi về lợi ích của sự tu hành. Vị sa môn đáp lại rằng:”Tôi tu hành là quyết dứt bỏ mọi sự ràng buộc của cuộc đời, để cầu cho mình khỏi khổ và được chánh giác để phổ độ chúng sanh đều được giải thoát như mình”. Khi về lại hoàng cung, Thái tử nghĩ lại những cảnh: khổ, già, bệnh, chết cùng với cái ấn tượng tương tàn tương sát trong cuộc sống. Ngài ngẫm nghĩ lời giải đáp của vị tu sĩ nọ đã làm cho Ngài vui mừng khôn xiết. Lời người tu sĩ kia chính là ánh sáng mặt trời đã phá tan những đám mây âm u trong tâm khảm của Ngài bấy lâu nay. Thấy con mình buồn bã, vua Tịnh Phạn truyền dựng lên một cung điện nguy nga tráng lệ và bày đủ trò đàn ca múa hát để cho Thái tử được vui. Thêm vào đó, vua cha còn cưới cho Ngài một người vợ tuyệt thế giai nhân, đó là công chúa Da Du Đà La (Yosodhara). Thái tử lập gia thất và sau đó có một người con trai tên là La Hầu La (Rahula). Nhìn con Ngài nói:”Một trở ngại đã được sanh, một ràng buộc đã xảy ra”. Tuy sống trong lâu đài tráng lệ, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, quyền uy danh vọng, nhưng Thái tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nổi băn khoăn. Ngài cho rằng đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân chật, mà là cảnh giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ. Ngài quyết chí phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật và cao đẹp hơn. Sau cùng Ngài xin vua cha cho mình được xuất gia, nhưng vua Tịnh Phạn từ chối lời thỉnh cầu của Ngài. Không còn cách nào khác hơn, Thái tử yêu cầu vua cha bốn điều, nếu nhà vua giải quyết được thì Ngài sẽ bỏ ý định đi tu để ở lại lo chăn dân trị nước. Bốn điều đó là làm sao cho:
Bốn điều này làm cho vua cha vô cùng bối rối và không thể nào giải quyết được. Từ khi biết con mình có ý định xuất gia, vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ và cố tìm cách để cản ngăn. Nhưng một khi Thái tử đã quyết thì không có sức mạnh nào có thể ngăn cản được ý định của Ngài. XUẤT GIA TÌM ĐẠO Một đêm khuya, thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ đã ngủ say sau một cuộc yến tiệc linh đình, Thái tử quyết chí ra đi. Ngài vội vàng đánh thức tên giữ ngựa Xa-nặc (Channa) dậy để thắng cương con ngựa Kiền Trắc (Kantaka) của Ngài. Trước khi ra đi, Thái tử đi dọc theo hành lang nội cung, đến trước phòng công chúa Da Du Đà La và người con trai đang ngủ say. Thái tử hé cửa nhìn vào, lòng Ngài xót xa cho người vợ trẻ và đứa con trai còn nhỏ dại của mình. Nhưng đối với sự đau khổ của nhân loại thì lòng thương xót của Ngài còn da diết hơn. Sau đó, hai thầy trò cùng nhau trốn ra khỏi thành vào đêm mồng tám tháng hai. Lúc đó Ngài được 19 tuổi. Thái tử ra đi là Ngài chấp nhận từ bỏ tất cả. Ngài đã để lại phụ vương, ngai vàng, vợ đẹp con xinh và cuộc sống hạnh phúc của một hoàng tử. Sự hy sinh của Ngài không phải là sự từ bỏ của một người già, đau ốm hay của một người nghèo khó, bệnh tật đã ngán ngẫm cuộc đời, mà đây chính là sự hy sinh từ bỏ của một vị hoàng tử đang tuổi thanh xuân và đang sống trong quyền quý giàu sang. Quả thật đó là một sự từ bỏ, hy sinh vĩ đại vô tiền khoáng hậu trong lịch sử của nhân loại. Khi vào đến rừng sâu, Ngài tìm đến bờ sông Anomà. Nơi đây Ngài cắt tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Xa nặc đem về. Liền sau đó, Thái tử đổi y phục quý báu của Ngài cho người thợ săn để lấy một chiếc y màu vàng. Bây giờ Thái tử một mình ra đi với bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ và bắt đầu cuộc sống không nhà của người xuất gia cầu đạo. Khi thì Ngài ngồi dưới bóng cây, khi thì Ngài nằm nghĩ qua đêm trong một hang đá. Mặc dầu đi chân không và đầu để trần, Ngài vẫn đi bình thản giữa nắng nóng ban ngày cũng như trong những đêm sương lạnh mà tất cả mọi năng lực cũng như ý chí của Ngài đều dồn về với một lý tưởng cao cả là cố tìm cho được một chân lý tối thượng, lý lẽ của sự sống chết và con đường dẫn tới giải thoát để đạt đến cõi Niết bàn bất tử. Ban đầu, Thái tử đã tìm tới thọ giáo với hai đạo sư danh tiếng nhất ở Ấn Độ thời bấy giờ là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Cả hai vị đều tu theo phép Du già và chứng được những cấp thiền định cao nhất. Ngài Alara chứng được cấp thiền Vô sở hữu xứ còn ngài Uddaka thì chứng được cấp thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đây là những cấp thiền thuộc về vô sắc giới cao nhất mà các tu sĩ Du già có thể đạt được thời bấy giờ. Đối với Thái tử, chỉ một thời gian ngắn là Ngài đã đạt được hai cấp thiền nói trên. Nhưng rồi Ngài nhận thấy đạo lý và lối tu hành của họ cũng không có gì siêu thoát vì Ngài nghĩ rằng bên cạnh thiền định xuất thần đó phải còn một cái gì khác cần thiết cho sự tìm lối giải thoát của Ngài. Vì băn khoăn như thế nên Ngài chọn phương pháp tu khổ hạnh cực đoan may ra Ngài có thể tìm thấy ánh sáng của chân đạo. Ngài tìm đến một nơi có tên là Uruvela. Tại đây có một làng nhỏ mà Ngài có thể đi khất thực hàng ngày. Cảnh vật chung quanh đây thì đẹp đẽ và yên lặng rất thích hợp cho thiền định của Ngài. Cùng đến nơi đây với Thái tử còn có năm nhà tu khác là các ông Kiều Trần Như (Kondana), Ác Bê, Thập Lực, Ma Ha Nam và Bạc Đề. Họ đi theo và tôn kính Ngài như là đấng Đạo sư của họ và họ hy vọng rằng khi Ngài chứng được chân lý bằng cách hành xác thì Ngài sẽ truyền lại chân lý đó cho họ. Lối tu nầy đòi hỏi người tu phải sống một cách kham khổ từ nhịn ăn uống đến dãi nắng dầm sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn. Ngài đã sống sáu năm trong chổ hoang dã, ghê sợ, trong những bãi tha ma hay những nơi dơ bẩn. Ngài từ chối tắm giặt và không mặc áo quần, tệ hại hơn nữa Ngài còn dầm mình trong nắng hạ ban ngày, và chịu lạnh buốt trong những bụi cây của những đêm đông. Ngài không cần dùng nhiều thực phẩm, cố gắng nhịn đói, ngày chỉ ăn một hạt mè, dần dần cho đến khi cái thân đẹp đẽ, vốn là thân Đế vương, mà giờ đây teo rút lại chỉ còn da bọc xương. Bởi vì Ngài nghĩ rằng nếu muốn đạt đến chổ Giác ngộ tối thượng thì mình phải can đảm từ bỏ những gì bên ngoài đã làm cho mình vướng bận cũng như sự thỏa mãn của thân thể. Một hôm vì quá kiệt sức, Ngài ngã quỵ bên dòng sông Ni Liên (Neranjara) và khi tỉnh dậy Ngài mới tỉnh ngộ mà nhận thấy rằng lối tu nầy chỉ hành hạ thân xác mà không giải thoát được gì. Ngài nghĩ rằng những rối răm và những căn nguyên của sự đau khổ không phải là từ bên ngoài mà chính là khả năng để từ bỏ những dục vọng từ trong tâm. Vì nhận thức như vậy, Ngài quyết định chọn một con đường mới để đi tìm sự giải thoát và Ngài gọi nó là con đường trung đạo. Dựa theo con đường trung đạo nầy, Ngài đã dùng Giới, Định, Tuệ để tiêu diệt những ô nhiễm ở trong tâm thức và sau cùng trừ hết các căn bản bất thiện tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Khi Ngài quyết định như thế, năm nhà tu khổ hạnh trước đây theo Ngài đã từ bỏ Ngài và gọi Ngài là người bỏ cuộc vì không tiếp tục tu hành theo như trước. Ngài nhận thấy rằng sức mạnh của cơ thể là một điều rất cần thiết cho thiền định nên Ngài liền xuống sông Ni Liên tắm rửa và bắt đầu trì khai khuất thực. Mặc dù tấm thân tứ đại là vô thường, nhưng Ngài vẫn cần nó như là chiếc thuyền để đưa Ngài đến bên kia bến bờ Giác ngộ. Sau khi Ngài thọ bát cháo sữa do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sức khỏe của Ngài lần hồi khôi phục. Rồi Ngài đi đến dưới gốc cây Tát-bạt-la (Pippala: sau nầy được gọi là cây Bồ-đề, có nghĩa là cây Giác ngộ), Ngài ngồi tỉnh tọa dưới cây Bồ-đề trên một nắm cỏ khô, tham thiền và thề rằng: “Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy”. THÀNH ĐẠO Thái tử ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ-đề suốt 49 ngày đêm, và trong 49 ngày đêm đó, Ngài đã không ngừng chiến đấu với bọn Ma-vương. Ma vương ở đây không chỉ giản dị như là những bọn quỷ sứ, răng nanh, sừng nhọn, hoặc là đầu trâu, mặt ngựa, đến bao vây để cố tìm mọi cách hãm hại Ngài, mà Ma vương ở đây chính là: Phiền não ma, Ngũ uẩn ma, Pháp hành ma, Tứ diệt ma, và Chư thiên ma. Vậy ảnh hưỡng của nó như thế nào? 1)Phiền não ma: Đức Phật đã giải thích phiền não ma trong một đoạn kinh sau đây: “Này Ma vương, dục lạc là ma quán thứ nhất, hai là bất mãn, ba là đói khát, bốn là ái dục, năm là uể oải, buồn ngủ, sáu là sợ hãi, bảy là hoài nghi, tám là phỉ báng và cố chấp, chín là danh lợi, và mười là tự cao, tự đại, kênh kiệu. Này Ma vương, hùng binh của ngươi là thế, chúng luôn luôn thường trụ trong con người xấu xa đê tiện, kẻ hèn yếu thì thất bại, nhưng người nào hạnh phúc được chứng sẽ đạt được chân hạnh phúc. Ta thà chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại”. Vì đã biết rõ đối thủ của mình như thế nào, nên với sự kiên tâm và thủ chí, Ngài đã khắc phục được phiền não ma với tâm nguyện chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ. Chiến thắng phiền não ma là một chiến thắng từ trong nội tâm và vì thế sự chiến thắng này sẽ chứng tỏ lối tu hành khổ hạnh khi xưa là lầm đường, lạc hướng. 2)Ngũ uẩn ma: Trong chúng ta ai ai cũng có một cái gọi là cái Ta. Cái Ta chính là sự tạo thành bởi ngũ uẩn, mà ngũ uẩn thì gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì năm món nầy quay cuồng biến chuyển không ngừng trong ta, lúc thì sanh, lúc thì diệt, lúc thì ẩn, lúc thì hiện. Cũng vì sự biến đổi nầy mà đã phát sinh ra không biết bao nhiêu là vọng tưởng trong tâm của chúng ta, hay nói một cách khác là ngũ uẩn chính là vọng tưởng về bản ngã. Do đó, chúng ta có thể nói bản ngã là vọng huyển, vô tưởng, hay ảo giác. Khi đã nhận thấy rõ sự nguy hiểm của cái bản ngã nầy, thì Đức Phật phải phá cho bằng được cái Ta của sự vô thường, có tan, có hợp để đạt đến sự an vui thanh tịnh. 3)Pháp hành ma: Ma chướng nầy có ý ám chỉ những hành động tạo Nghiệp của Thân, Khẩu, Ý. Những Nghiệp thiện ác này phát xuất từ phiền não và cũng chính nó đã đưa sự đau khổ càng lúc càng tăng và như thế thì kiếp luân hồi sẽ xoay vần bất diệt. Bởi thế Đức Phật dạy rằng: “Vì bị chi phối bởi tham lam, sân hận, si mê mà Nghiệp hình thành, đó là căn nguyên của mọi đau khổ. Đoạn diệt được tham, sân, si tức là hủy diệt động lực hình thành của nghiệp và mọi đau khổ sẽ chấm dứt”. 4)Tứ diệt ma: Trong thân tứ đại của chúng ta, luật vô thường đóng một vai trò quan trọng, bởi vì chúng ta có sanh tất có tử. Nhưng cứ mỗi một giây, một phút chúng ta đang chết dần chết mòn chứ đâu phải đợi đến khi chúng ta xuôi tay nhắm mắt mới gọi là chết. Thật vậy, cứ một phút trôi qua, thì chúng ta già đi một tí, nhưng vì nó biến đổi quá nhanh nên chúng ta không nhận thấy mà thôi. Khi nào chúng ta còn vô minh, ái dục, phiền não và ô nhiễm, thì chúng ta còn bị định luật sinh tử chi phối. 5)Chư thiên ma: Đây là loại ma quán duy nhất từ bên ngoài còn bốn loại ma kể trên đều là nội ma cả. Chư thiên ma nầy thì không đáng ngại bằng các nội ma ở trong tâm, do đó Đức Phật lại dạy rằng:”Dù chiến thắng vạn quân ở chiến trường không bằng chiến thắng chính mình, vì đó là chiến thắng cao thượng nhất”. Những chư thiên ma nầy xuất phát từ những vị Trời, những vị quỷ thần trong cãnh giới A-tu-là, dạ xoa. Đôi khi chúng phá phách, và cũng đôi khi chúng phục tòng. Chỉ có nhũng bậc tu hành ở những nơi thanh vắng, hoặc người kém đức có thể bị chúng đe dọa, nhưng đối với những bậc đức độ cao dầy, với ý chí sắt đá không những không khiếp nhược trước bọn ma quỷ này mà họ còn đem lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình để hóa độ chúng trở về với chánh đạo. Sau cùng, nhờ năng lực an trụ của tham thiền nhập định, như một bình nước đã được lắng trong không còn chút bợn nhơ, Ngài cảm thấy tâm hồn thật là thư thái và sáng suốt lạ thường. Thế rồi, với tâm vắng lặng, ổn định và trong sáng như pha lê, Ngài lần lượt chứng được tam minh: 1)Túc Mệnh Minh: Vào canh hai, Ngài chứng được Túc Mệnh Minh (Pubbe Nivasanusita nana). Chính minh nầy đã cho Ngài thấy rõ tất cả được quãng đời quá khứ của mình trong tam giới. Theo thứ tự, Ngài biết được trước đây Ngài là ai, tên gì, sống ở đâu. Từ đời sống hiện tại này, ký ức Ngài không còn bị hạn chế bởi luật sinh tử nữa. Ngài bắt đầu nhận ra kiếp trước của Ngài là một thiền nhân, tên là Setaketu, đến đời sống trên trái đất này, nhưng trước đó một kiếp thì Ngài là Thái tử Vesantara. Rồi trở lui lại ba đời, bốn, mười, hai mươi, một trăm, một ngàn, một trăm ngàn. Và cứ thế, vô số kiếp mở ra trước sự quan sát của Ngài. 2)Thiên Nhãn Minh: Vào lúc nữa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh (Catupapata nana). Minh nầy giúp Ngài biết về việc sinh và tử của chúng sinh dựa trên cái nghiệp (Karma) mà chính họ đã tạo ra. Do đó Ngài cũng nhận ra rằng tùy theo các hành động thiện hay bất thiện của chúng sinh mà họ sẽ sinh vào đời sau như thế nào. Cái màng nhện rối răm về những tương quan của quá khứ, hiện tại, và tương lai đã trở nên quá rõ ràng và Ngài đã thấy chúng sinh luân hồi tùy theo những hành động thiện hoặc bất thiện của họ. Sự thấy biết của Ngài như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng. Đức Phật thấy rằng con người chết rồi không phải là hết mà phải theo nghiệp để thọ sanh trong Lục đạo Luân hồi. 3)Lậu Tận Minh: Và sau cùng đến canh tư, Ngài chứng được Lậu tận minh (Asavakkaya nana). Lậu là rơi rớt, tận là chấm dứt, là hết. Do đó lậu tận minh là biết tường tận để không còn rơi rớt vào trong lục đạo luân hồi. Đức Phật đã thấy nguyên nhân nào chúng sinh có sanh tử và phương cách nào chấm dứt sự sanh tử để không còn rơi rớt, trầm luân trong sáu nẻo luân hồi. Con người không còn sanh tử tức là vĩnh viễn không còn khổ đau. Khi đã hiểu rỏ căn nguyên gốc rễ thì Ngài nói rằng: “Đây là khổ, là phiền não, là ô nhiễm. Đây là nguyên nhân đau khổ, phiền não và ô nhiễm. Đây là sự tận diệt mọi khổ đau, ô nhiễm và chính đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau tức là Niết bàn”. Đây chính là chân lý Tứ Diệu đế. Thế thì Thái tử Tất Đạt Đa chứng tứ thiền, đắc tam minh trở thành Phật chớ không hề có Bát nhã. Mãi 600 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, luận sư Long Thọ mới giới thiệu tư tưởng Bát Nhã và 400 năm sau đó, luận sư Vô Trước và em là sư Thế Thân mới giới thiệu Duy thức mà về sau ngài Huyền Trang thỉnh về Trung Quốc và dịch sang Hán tự như Bát Nhã Tâm Kinh, Thành Duy thức luận, Du Già Sư Địa luận… Thế rồi lúc bình minh vừa ló dạng, bầu trời thật đẹp và trong sáng, chim muôn líu lo trên cành, thật là một bồng lai tại thế. Bởi vì từ đây nhân loại có được một đấng giác ngộ, người mà đã dám hy sinh, từ bỏ tiền tài danh vọng để đổi lấy cuộc sống tu hành khắc khổ, cố tâm tìm đạo để cứu giúp chúng sinh còn đang lặn hụp trong vòng sinh tử trầm luân. Vì sự giác ngộ đó, mà nhân loại đã gọi Ngài là bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác. Kể từ đây, Thái tử Tất-Đạt-Đa không còn nữa mà trở thành Đức “Thích Ca Mâu-ni Phật” (Shakyamuni Buddha). v Thích Ca có nghĩa là Từ bi. v Mâu-ni có nghĩa là Tịch mặc.
Ngài thành đạo vào ngày mùng tám tháng chạp vào lúc sao mai mọc. Lúc đó Ngài vừa 30 tuổi. HÓA ĐỘ CHÚNG SANH Đức Phật Thích Ca vì lòng từ bi vô bờ vô bến đối với chúng sanh mà xuất gia tìm đạo, bởi thế cho nên sau khi giác ngộ, Ngài nghĩ ngay đến sứ mạng cao cả, đó là:”Thay thế chư Phật đời trước mà tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người”. Sứ mạng nầy Ngài biết trước không phải là một việc dễ dàng vì cái đạo của Ngài thì cao thâm huyền diệu trong khi chúng sanh căn cơ lại không đều, và từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê lầm lạc do đó khó có thể nhận hiểu ngay ý nghĩa cao thâm của giáo lý Ngài. Chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp đã quen sống trong bóng tối của si mê do đó khi Ngài đem ánh sáng của trí tuệ đến cho họ thì chắc chắn họ sẽ bị choáng mắt. Nhưng Ngài hiểu rằng mặc dù sống trong tăm tối, nhưng mỗi chúng sanh ví như hoa sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn luôn luôn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Đó là ý chí và lòng cương quyết của Ngài phải cố gắng thực hiện để hoàn thành trách nhiệm của mình. Với trí tuệ sáng suốt và lòng từ bi vô bờ bến cộng với tinh thần bình đẳng và một ý chí dủng mãnh, Đức Phật đã hoàn thành sứ mạng của mình một cách viên mãn. TẠO LẬP TĂNG ĐOÀN Sứ mạng cao cả Đức Phật muốn thực hiện là phải hóa độ và kết nạp đệ tử. Những người đệ tử đầu tiên này phải có kiến thức để thấu hiểu giáo lý của Ngài rồi sau đó mới nới rộng đến tất cả mọi người. Ngài thiết lập Tỳ kheo (nam phái) trước rồi Tỳ kheo ni (nữ phái) sau. Trước hết, Ngài muốn đem giáo lý ấy truyền cho hai vị thiền sư Alara Kalama và Uddaka Ramaputta đã dạy cho Ngài thiền vô sắc lúc ban đầu. Ngài Alara chứng được cấp thiền Vô sở hữu xứ còn ngài Uddaka thì chứng được cấp thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đức Phật dạy rằng: “Này chư Hiền, Ta suy nghĩ như sau: “Ở đây, Tỳ-kheo vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: ‘Không có sự vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ”. Này chư Hiền, đây gọi là Vô sở hữu xứ”. Ở trong tầng thiền định Vô sở hữu xứ này, hành giả sẽ thấy rằng không những không có người nào mà cũng không có vật gì mà ta có thể nắm bắt hay níu giữ được. Phi tưởng phi phi tưởng xứ nghĩa là không tưởng, nhưng không phải không có tưởng bởi vì những tâm sở như thọ, xúc vẫn còn dưới dạng cực kỳ vi tế cho nên không thể nói là không có tưởng vì nó còn dưới dạng dư tàn vậy. Việc thăng tiến từ một tầng thiền chứng vô sắc này đến một tầng thiền chứng vô sắc khác diễn ra bằng sự thay đổi đối tượng của định, chứ không phải bằng sự diệt hay thay thế các phần tử cấu thành của chúng. Cả bốn tầng thiền sắc giới và vô sắc giới đều có cùng nhóm các tâm sở căn bản và hai thiền chi, đó là bất khổ, bất lạc thọ. Đây là những cấp thiền thuộc về vô sắc giới cao nhất mà các tu sĩ Du già có thể đạt được thời bấy giờ. Theo kinh Thánh Cầu trang 379, Đức Phật đã nói cùng các Tỳ kheo rằng: “Này các Tỳ kheo! Rồi Ta tự suy nghĩ: Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh Pháp này?” Rồi này các Tỳ kheo, Ta lại nghĩ: “Nay có Uddaka Ramaputta là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Uddaka Ramaputta, vị này sẽ mau hiểu Chánh Pháp này”. Rồi Chư Thiên đến nói với Ta như sau: “Bạch Thế Tôn! Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua”. Này các Tỳ kheo! Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe Pháp này, Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu”. Này các Tỳ kheo! Rồi Ta suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh Pháp này?” Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Nhóm năm Tỳ kheo này đã hầu hạ Ta khi Ta còn nỗ lực tinh cần, nhóm ấy thật giúp ích nhiều. Vậy, Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho nhóm năm Tỳ kheo”. Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Nay nhóm năm Tỳ kheo ở tại đâu?” Này các Tỳ kheo! Với Thiên Nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy nhóm năm Tỳ kheo hiện ở Barasina, tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các Tỳ kheo! Sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, Ta lên đường đi đến Baranasi”. Như lời nguyện xưa là “Ai thành đạo trước thì tìm độ cho nhau” cho nên Đức Phật liền tìm đến vườn Lộc uyển (Deer Park) để thuyết pháp cho năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia. Đó là các ông: Kiều Trần Như, Ác Bê, Thập Lực, Ma Ha Nam, và Bạc Đề. Đức Phật trên đường đến vườn Nai bằng bước chân thanh thoát xuất trần với dáng vẻ ngời ngời Trí Tuệ và bằng ánh nhìn trong sáng Từ Bi qua chiếc áo rách nhiều năm tháng phất phơ trong gió sớm, mưa chiều. Ngài thong dong bước với bình bát trong đôi tay vàng óng ả, với mái đầu tóc xoắn điểm phong sương. Bài thuyết pháp đầu tiên, Đức Phật nói về chân lý Tứ Diệu Đế mà đầu đề bài kinh là Dhamacakkappavattana, có nghĩa là “Chuyển bánh xe Pháp”. Trong bài kinh nầy, Đức Phật mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên theo hai cực đoan: cực đoan thứ nhất là đam mê thú vui nhục dục thế gian, thực ra đó chỉ là những cái vui tầm thường, nhất thời và ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh. Còn cực đoan thứ hai là khổ hạnh, ép xác chỉ làm mệt mỏi tinh thần và mê mờ trí tuệ. Vì thế cả hai đều có hại và vô ích. Con đường mà Đức Phật muốn nói ở đây chính là con đường trung đạo dẫn tới cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và sau cùng sẽ được giải thoát. Con đường giải thoát nầy chính là Bát Chánh Đạo. Đó là: 1)Chánh kiến: Thấy biết chân chánh nghĩa là không cộng ngã kiến vào. 2)Chánh tư duy: Suy nghĩ chân chánh, khách quan và không suy nghĩ tà kiến. 3)Chánh ngữ: Nói năng chân chánh nghĩa là không nói dối, không nói ác, không nói chia rẽ và không nói lời vô nghĩa. 4)Chánh nghiệp: Hành động chân chánh nghĩa là không được sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm và không uống rượu. 5)Chánh mạng: Sinh sống bằng nghề lương thiện, không lợi mình hại người. Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng đưa con người trở về sống với đạo đức nhân bản và đây là những bước căn bản tối cần thiết để giúp người tu đi vào thiền định. Mục đích năm phần đầu của Bát Chánh Đạo dạy con người giữ giới, sống đời lương thiện khiến cho cuộc sống của họ trong thế giới này sẽ có hạnh phúc, an vui, tự tại và chắc chắn sẽ không còn lo lắng, buồn phiền nữa. 6)Chánh tinh tấn: Siêng năng, cần mẫn làm lành tránh dữ. 7)Chánh niệm: Chánh niệm là biết rất rõ mọi biến hành của thân và tâm. Ngược lại người không sống trong tỉnh thức chánh niệm thì ăn không biết mình ăn, mặc không biết mình đang mặc, thở không biết mình đang thở. Chánh niệm là trạng thái trước khi biểu tượng hình thành và nó vượt ra ngoài mọi lý luận của ý thức. Chánh niệm phản chiếu những gì đang xảy ra ngay trong sát na hiện tại và không có chút thiên vị vì vượt ra ngoài tầng ý thức phân biệt. Có hai loại thiền trong Phật giáo, thứ nhất là thiền quán tức là trí tuệ hay còn gọi là thiền Tứ niệm Xứ (thiền Vipassana). Đó phương pháp thiền để theo dõi mọi sự biến hành của thân, thọ, tâm, pháp. 8)Chánh định: Giai đoạn sau cùng là nhập vào thiền định mà tứ thiền là phương pháp duy nhất để ứng dụng. Đắc tứ thiền, chứng tam minh là có giải thoát trở thành A la hán. Đây là lối giải thích cho người bình thường để có một cái nhìn đơn giản trong cuộc sống thế tục. Tuy nhiên, cao hơn nữa, trong Kinh Đại Niệm Xứ, Đức Phật đã giải thích Bát Thánh Đạo cho những ai muốn đi trên con đường giải thoát giác ngộ như sau: 1)Này các Tỳ kheo, thế nào là Chánh tri kiến? Này các Tỷ kheo, tri kiến về Khổ, tri kiến về Khổ tập, tri kiến về Khổ diệt, tri kiến về Khổ diệt đạo. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Chánh tri kiến. 2)Này các Tỳ kheo, thế nào là Chánh tư duy? Tư duy về ly dục, tư duy về vô sân, tư duy về bất hại. Này các tỳ kheo, như vậy gọi là Chánh tư duy. 3)Này các Tỳ kheo thế nào là Chánh ngữ? Tự chế không nói láo, tự chế không nói hai lưỡi, tự chế không ác khẩu, tự chế không nói lời phù phiếm. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Chánh ngữ. 4)Này các Tỳ kheo, thế nào là Chánh nghiệp? Tự chế không sát sanh, tự chế không trộm cướp, tự chế không tà dâm. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Chánh nghiệp. 5)Này các Tỳ kheo, thế nào là Chánh mạng? Này các Tỳ kheo, ở đây vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Chánh mạng. 6)Này các Tỳ kheo, và thế nào là Chánh tinh tấn? Này các Tỳ kheo, ở đây Tỳ kheo, đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với các ác, bất thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn trừ diệt, vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn khiến cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với các thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không cho băng hoại, khiến cho tăng trưởng, phát triển, viên mãn. Vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Chánh tinh tấn. 7)Này các Tỳ kheo, thế nào là Chánh niệm? Này các Tỳ kheo, ở đây vị Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; quán cảm thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; quán tâm trên các tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Chánh niệm. 8)Này các Tỳ kheo, thế nào là Chánh định? Này các Tỳ kheo, ở đây Tỳ kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỳ kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỳ kheo ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tỳ kheo ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Chánh định. Dựa theo Kinh Trung Bộ (bài kinh số 10) thì Pháp Tứ Niệm Xứ thường được hiểu là “Con đường duy nhất “ để tiến đến giải thoát giác ngộ, nhưng thật ra “Con đường duy nhất” đã được Đức Phật nhắc đến không phải là Tứ Niệm Xứ mà chính là Bát Chánh Đạo. Trong kinh Pháp Cú (273-274), Đức Phật dạy rằng: Trong tất cả các con đường Con Đường Tám Chánh là thù thắng nhất Đây là con đường duy nhất Không có con đường nào khác Để đi đến tri kiến thanh tịnh Vì thế con đường duy nhất để đi đến giải thoát giác ngộ là Bát Chánh Đạo mà Tứ Niệm Xứ với bốn nền tảng của Chánh niệm chỉ là một phần của con đường đó. Trong Phật giáo, thiền tuệ (thiền quán) tức là thiền minh sát gồm có ba thành tố căn bản là chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh kiến. Trước hết chánh kiến giúp hành giả luôn sống trong tỉnh giác, còn chánh tinh tấn và chánh niệm làm nên tảng và chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh định có trách nhiệm hổ trợ. Bát chánh đạo là một tổ hợp cho nên hành giả muốn có kết quả thì phải thực hành hoàn mỹ toàn bộ tám nhánh bởi vì mỗi nhánh tương quan và hổ trợ cho các nhánh khác, bất khả phân ly. Thí dụ muốn thực hành thiền thì tâm phải an mà muốn có tâm an thì hành giả phải sống cuộc đời đạo đức nhân bản tức là phải biết ly dục, ly bất thiện pháp. Từ thiền định đó, hành giả quay về nhận thức về cuộc sống rõ ràng hơn, tự mình thấu biết thế nào là vô thường, khổ và vô ngã cho nên cuộc sống sẽ thăng hoa hơn và nhờ thế hành giả mới có thể đi sâu vào thiền định được. Trong Phật giáo, ba con rắn độc hại đối với con người là tham, sân, si mà trong đó sân hận là con rắn nguy hiểm nhất. Tại sao? Bởi vì “Nhất niệm sân tâm khởi, bách chướng vạn môn khai” nghĩa là khi có một tâm niệm sân hận, tức giận khởi lên mà con người nếu không tự kiềm chế, không tự khắc phục thì biết bao trăm ngàn chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó. Vì thế để đối trị với tham, sân, si Đức Phật đưa ra Giới, Định, Tuệ. Nếu chúng sinh giữ giới trong sạch thì tham sẽ hết. Nếu có chánh định, tâm an ổn, thanh thản bình yên thì chắc chắn sân sẽ biến mất. Sự tiêu diệt lòng sân hận biến cuộc sống trở thành bình yên, nhẹ nhàng và thanh thoát hơn. Do vậy, tâm an thì thế giới an, tâm bình thì thế giới mới bình cho nên người có chánh định sẽ vui vẻ và phát triển tâm từ, bi, hỷ, xả đối với tất cả mọi người chung quanh. Nếu hành giả không có chánh định thì tuy có thực hành chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn và ngay cả chánh niệm thì sự thực hành đó cũng chỉ là bề ngoài chớ chưa phải đi sâu vào sự tu tập. Nói cách khác, chỉ khi nào đi sâu vào thiền định thì lúc đó hành giả mới thực sự cảm nhận được bản tâm của mình. Nói cách khác không có một chúng sinh nào chứng ngộ Niết bàn mà không thực hành rốt ráo Bát Chánh Đạo nghĩa là nếu bỏ sót một chi nào của Bát Chánh Đạo thì không bao giờ có giải thoát. Nếu thật sự có, với trí tuệ của vị Phật toàn giác, Đức Phật đã dạy Thất Thánh Đạo hay Lục Thánh Đạo, nhưng tuyệt đối chỉ có Bát Thánh Đạo. Ngày nay, với trí tuệ phàm nhân, con người có thể thêm bớt, sửa đổi đạo lộ giải thoát và cho đạo lộ “hiện đại” đó cũng dẫn đến Niết bàn. Thậm chí, họ còn cho đại lộ “hiện đại” đó rất dễ tu tập và nhanh chóng chứng đắc Niết bàn nữa là khác. Thật ra Niết bàn “hiện đại” ấy không dính dấp gì tới sự đoạn diệt khổ đau, hay chấm dứt sinh tử luân hồi cả. Như vậy, con người không thể chấm dứt tử sanh luân hồi nếu không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Giới Học mà trong đó Thiền Định (Tứ thiền và Tứ Không định) và Thiền Tuệ (thiền Tứ Niệm Xứ) là hai nền tảng đưa hành giả đến chỗ giải thoát. Có người lý luận rằng sống trong cuộc đời chỉ cần có chánh niệm, không cần tham thiền nhập định, nghĩa là người đó lúc nào cũng biết mọi biến hành xảy ra chung quanh là đủ? Thật ra nếu không thực hành chánh định nghĩa là không đi sâu vào định thì tính sân vẫn còn, tuy có chánh niệm tức là biết những việc đang xảy ra, nhưng một khi có việc bất trắc xảy đến thì làm sao có thể ngăn được lòng sân của mình nổi dậy? Nếu có chánh niệm mà không có giới thì làm sao ngăn được lòng tham một khi ái dục nổi lên? Vì thế chánh niệm tự nó không đủ mà cần phải có chánh định thì việc hành trì mới được hoàn mãn. Nói cách khác chánh niệm không thể đưa người tu đến chỗ giải thoát mà phải cần đến chánh định tức là bốn tầng thiền của sắc giới và vô sắc giới. Vì thế nếu không có chánh định thì không bao giờ có giác ngộ. Nhưng muốn có định thì phải có giới và từ định trí tuệ sẽ phát sinh nghĩa là Giới năng sinh Định và Định năng sinh Huệ. Tóm lại, giới, định, tuệ là ba giềng mối luôn gắn liền với nhau, bất khả phân ly nghĩa là hành giả phải có giới thì mới có định và sau đó trí tuệ sẽ phát sinh. Ngược lại người phá giới thì không bao giờ có chánh định, nếu có thì chỉ có tà định, và trí tuệ giải thoát không phát sinh cho nên họ sống trong mê lầm của dục lạc, luôn tranh chấp lợi danh cũng như Đề-Bà-Đạt-Đa ngày xưa. Do đó nếu cho rằng chỉ có chánh niệm là đủ thì đây là đủ trong cuộc sống bình thường của người bình thường chớ không phải cuộc sống của người giải thoát giác ngộ. Tóm lại con đường đưa đến giải thoát là không còn tham, không còn sân và không còn si. 1)Muốn không còn tham thì hành giả phải giữ tròn giới hạnh nghĩa là phải thực hành đứng đắn chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Đó là không được sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu và không vọng ngữ nghĩa là không nói dối, không nói ác, không nói chia rẽ và không nói lời vô nghĩa. 2)Muốn không còn sân, hành giả phải thực hành chánh tinh tấn, chánh niệm và dĩ nhiên thành tố chính là chánh định. Muốn chinh phục, kiểm soát được nội tâm thì thiền định là phương pháp phát huy tinh thần hiệu nghiệm nhất mà theo đó hành giả chú tâm vào một đối tượng hay quán hơi thở (tầm và tứ) cho đến khi tâm an trú và không lay động bởi ý tưởng hay cảnh vật bên ngoài. 3)Sau cùng muốn không còn si thì hành giả thực hành rốt ráo chánh kiến và chánh tư duy bởi vì trí tuệ phát sinh thì si mê (vô minh) sẽ bị diệt cũng như có ánh sáng thì màn đêm biến mất. Đây chính là tiến trình tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ đưa người tu thẳng đến chỗ giải thoát và ra khỏi sinh tử đau khổ luân hồi. Sau đó, Đức Phật thuyết pháp cho họ bài pháp thứ hai với tựa đề “Anttlakkana Sutta”. Đây là nói về chân lý vô ngã (không có cái Ta). Trong đó, Đức Phật đã khẳng định rằng: “Tất cả mọi hiện tượng trong thế gian này đều không ngừng tác tạo. Vì là do nhân duyên, nhân này quả nọ, mà thành chớ không có một vật thể nào tự chúng có được nên tất cả mọi hiện tượng đó không có thực thể, không có tự tánh tức là Vô Ngã”. Con người chúng ta cũng thế, không có cái gì gọi là Cái Tôi hay Cái Của Tôi tức là Vô Ngã. Đức Phật gọi Cái Tôi chỉ là một ảo giác do tâm thức biến hiện. Sự sai lầm là con người luôn đồng hóa ngũ uẩn (thân, tâm) là Tôi cho nên họ luôn bám chặt vào nó như là một cá thể vững bền. Nói một cách tổng quát, thân thể con người gồm có hai phần là thân xác và tâm linh. Phần thân xác có hình dáng nên gọi là sắc uẩn và phần tâm linh gồm có thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Tuy nhiên, trong kinh Nikayà, ngũ uẩn thường được gọi là “ngũ thủ uẩn” nghĩa là năm đối tượng của sự chấp thủ, của tâm tham ái. Vì thế ngũ uẩn là nguyên nhân của biết bao nỗi khổ niềm đau mà con người gánh chịu trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Ngược lại đối với người giác ngộ thì ngũ uẩn lại là phương tiện giúp họ giải thoát. Vì vậy, Phật và ta không hai, không khác, không thể tìm Phật ngoài tấm thân ngũ uẩn này được. Sự bám vúi vào “Cái Tôi” chính là nguyên nhân đem lại biết bao nỗi khổ đau trong kiếp sống này và mãi mãi về sau. Bởi vì: “Chư Pháp tùng bổn lai, Thường tự tịch diệt tướng” nghĩa là tất cả các pháp từ xưa đến nay, tánh chúng thường vắng lặng, không hạnh phúc và cũng chẳng có khổ đau. Vì thế khi nói khổ đau hay hạnh phúc là có sự hiện diện của bản ngã trong đó nghĩa là tôi khổ hay tôi hạnh phúc rồi. Thí dụ cành hoa tự nó không đẹp, không xấu, không thơm, không thúi cho nên người biết đạo thì nhìn cành hoa là cành hoa thì tâm an lạc. Ngược lại, nếu cho cành hoa là đẹp thì trong tâm đã có sự so sánh, phân biệt. Tại vì mình cho nó đẹp, mình nghĩ nó đẹp…tức là có tự ngã. Thế thì đau khổ là không được như ý mình muốn còn hạnh phúc là thỏa mãn được ý muốn của mình. Nói cách khác thỏa mãn được Cái Tôi thì gọi là hạnh phúc, ngược lại không thỏa mãn được Cái Tôi thì gọi là đau khổ chớ trên thế gian này không có cái gì là khổ đau hay hạnh phúc cả. Do đó khi không còn sống với bản ngã thì người đó trở về sống với thực tánh pháp thì gọi là giải thoát thế thôi. Vì tầm quan trọng của ngũ uẩn, chính ngài Xá Lợi Phất dạy rằng: ”Người đã đắc Quả Nhập Lưu phải gia công chuyên cần quán niệm cũng ngũ uẩn ấy một cách đầy đủ, và tự mình chứng nghiệm rằng năm uẩn là vô thường, khổ, vô ngã. Kết quả là thế nào? -- Vị ấy sẽ tiến đạt thêm lên một tầng, thành tựu Đạo và Quả Nhất Lai (Tư Đà Hàm). Rồi vị Thánh Nhất Lai hành thiền về đề mục gì? -- Cũng lại ngũ thủ uẩn ấy nữa. Và do công phu hành thiền nầy vị ấy đắc Quả Bất Lai (A Na Hàm). Rồi vị A Na Hàm hành thiền về đề mục gì? -- Cũng ngũ thủ uẩn. Đến đây vị ấy đắc Quả A La Hán. Và vị A La Hán hành thiền về đề mục gì? -- Cũng ngũ thủ uẩn. Điều nầy cho thấy rằng năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức luôn luôn là đề mục quán niệm. Cho đến khi đã đắc Quả A La Hán rồi cũng vẫn quán niệm ngũ thủ uẩn”. Năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu đều trở thành A la Hán và họ là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Sự kiện lịch sử này diễn ra vào một ngày trăng rằm vừa đúng hai tháng sau ngày Đức Phật thành đạo. Gần Benares, có người con trai của nhà triệu phú tên là Da Xá (Yasa). Mặc dầu sống trong nhung lụa nhưng ông ta lại chán cảnh sống thế gian tầm thường vô vị. Ông tìm đến Đức Phật và được Ngài thuyết giảng về hạnh Bố thí, về nếp sống đạo đức, về các cõi trời, về nguy hại của dục lạc thế gian và sau cùng là về hạnh phúc của nếp sống Thánh thiện, lòng từ bi hỷ xả và không tham cầu ái dục. Kế đến, Đức Phật thuyết giảng cho ông về chân lý Tứ Diệu Đế để tận diệt mọi nỗi khổ đau ngõ hầu đạt đến Niết bàn. Đức Phật đã thuyết pháp liên tiếp trong 3 tháng cho tất cả mọi người trong gia đình của Da Xá. Toàn bộ gia đình 55 người đều qui y theo Phật. Bấy giờ, Đức Phật có sáu mươi đệ tử đều là A La Hán, Ngài dạy họ phải giữ đúng giới luật và sau đó thọ ký cho họ đi truyền đạo khắp nơi. Đức Phật dạy rằng:“Hỡi các Tỳ kheo, Ta đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc của thế gian và xuất thế gian. Các người cũng vậy, cũng đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian”. Khi thành lập Tăng đoàn, Đức Phật gọi tất cả người xuất gia là “Tỳ khưu” (Bhikkhu) tức là khất sĩ. Khất sĩ không nhất thiết chỉ là người khất thực mà phải là người thấy được sự nguy hiểm của tham ái trong luân hồi. Khất sĩ là người thật sự buông bỏ vì thế từ Đức Phật đến 1,250 vị A la hán khác đều là khất sĩ và họ chỉ có duy nhất tam y nhất bát. Cuộc sống của người giác ngộ rất đơn giản, thanh thản và được thể hiện bằng: Nhất bát thiên gia phạn Cô thân vạn lý du Kỳ vi sanh tử sự Giáo hóa độ xuân thu Nghĩa là: Một bát cơm ngàn nhà Thân chơi muôn dặm xa Mắt xanh xem trần thế Mây trắng hỏi đường qua. Đức Phật lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, với 60 người học trò vừa chứng được Thánh quả A la hán, đã tổ chức thành một tăng đoàn những tu sĩ khuất thực. Họ không nhà ở cố định, không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và bình bát để xin ăn. Họ thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và cuộc sống thánh hạnh bằng cách tự mình nêu gương sáng về cuộc sống đó. Họ chỉ có hai điều là lòng Từ Bi và Trí Tuệ. Nhưng với hai thứ vũ khí nầy, họ đã chinh phục biết bao con tim và khối óc trên đường hành đạo. Sau khi chia tay với những đệ tử đầu tiên nầy, Đức Phật đi về phía Nam gần vùng Uruvela. Nơi đây có ba vị tu khổ hạnh là ba anh em ông Ma-ha Ca-Diếp (Uruvela Kassapa), Nadi Kassapa và Gaya Kassapa. Ông Ca-Diếp thờ thần lửa và tự cho mình đã chứng quả A la hán. Ba anh em ông ta đều là những đạo sĩ có danh vọng lớn ở xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) nầy. Đức Phật đến gặp ông lần đầu tiên và xin được phép ngủ qua đêm. Ông nầy có thờ một con rắn thiên rất độc. Ông Ca-Diếp tưởng rằng Đức Phật thế nào cũng bị con rắn thiên nầy cắn chết, nào ngờ chính con rắn lại bị Đức Phật hàng phục bằng sức thần thông của Ngài. Cả ba anh em ông Ca Diếp hết sức ngạc nhiên và họ đem toàn thể 500 đệ tử xin qui y theo Phật. Gần thành Vương Xá (Rajagaha), tại Upatisa có một thanh niên rất thông minh tên là Xá Lợi Phất (Sariputta). Gia đình ông thuộc loại giàu có và danh tiếng nhất làng. Tuy sống trong giàu sang quyền quý, nhưng ông cảm thấy cuộc sống trống rỗng và vô vị. Ông có người bạn thân là Mục Kiền Liên (Moggalana) ở vùng Kokita thường xuyên đi khắp nơi để tìm thầy học đạo. Nghe danh Đức Phật đang thuyết pháp tại tu viện Veluvana, hai vị liền tìm vào yết kiến. Đức Phật thâu nhận hai ông vào tăng đoàn với câu nói đơn giản:”Etha Bhikkhave !” nghĩa là “Hãy đến đây! Các Tỳ Kheo”. Mười lăm ngày sau đó, Xá Lợi Phất chứng quả A la hán và Mục Kiền Liên thì chứng sau một tuần. Đức Phật triệu tập Tăng chúng lại và tuyên bố hai ngài là hai vị thượng thủ của Tăng đoàn. Sau đó Đức Phật về lại thành Ca-tỳ-la-vệ để thăm lại phụ vương và gia đình. Mặc dầu Ngài chỉ ở lại có bảy ngày, nhưng Ngài đã cảm hóa tất cả những người trong dòng họ Thích, và ai ai cũng muốn xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan Đà, A Nan Da, A nâu Lâu Đà, La hầu La (con của Phật). Khi về thăm quê hương và gia đình xong, Đức Phật cùng chư đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo. Mặc dù Đức Phật đã cảm hóa cả gia đình để họ noi gương Ngài mà xuất gia, tu học, để rồi được giải thoát cũng như Ngài, nhưng lúc bây giờ trong tăng đoàn của Ngài chưa hề có ni cô, bởi vì Ngài nghĩ rằng thu nhập ni cô có thể tạo ra sự hiểu lầm cho chúng sanh vì con gái họ hơặc vợ họ một khi đã quy y theo Ngài thì gia đình họ có thể tạo nên sự bất ổn và dĩ nhiên họ sẽ gây rắc rối cho tăng đoàn, cho dù Ngài lúc nào cũng quan niệm và chủ trương nam nữ bình đẳng. Hiểu rõ tâm trạng đó, bà kế mẫu Ma-Ha-Ba-Xa-Ba kết hợp một nhóm mệnh phụ phu nhân khoảng 50 người trong đó có cả Công chúa Da Du Đà La. Bà yêu cầu mọi người cạo đầu, từ bỏ những áo quần cao sang lòe loẹt, vứt bỏ hết những nữ trang và thay vào đó bằng những chiếc áo cà sa. Họ đi bộ từ kinh thành Ca-tỳ-la-vệ đến chỗ Đức Phật đang truyền đạo (Versali), đoạn đường dài trên trăm dặm với thiện tâm được Phật thâu nhập vào Tăng đoàn. Đoàn người đi tới đâu thì khất thực tới đó và cuộc hành trình đầy thử thách nầy của họ phải mất 15 ngày mới đến được Versali. Khi họ đến nơi, chính Tôn giả A Nan không khỏi bàng hoàng xúc động khi thấy hai bàn chân của họ đều sưng lên và chảy máu trông rất thảm thiết. Đức Phật đưa ra 8 điều kiện (Bát kỉnh pháp) trước khi cho phép họ gia nhập Tăng đoàn và tất cả đều chấp nhận 8 điều kiện của Đức Thế Tôn. Làm sao Đức Phật có thể chối từ lời thỉnh cầu của họ cho được bởi vì họ đã chứng minh cho Ngài thấy là họ, cũng như Ngài khi xưa, có thể lìa xa cung vàng điện ngọc, giàu sang phú quý, để chấp nhận một cuộc sống đơn giản, thanh nhàn, có cơ hội học hỏi từ Đức Thế Tôn và tìm đường giải thoát cho bản thân họ. Đây là những ni cô đầu tiên trong tăng đoàn của Đức Phật. Mặc dầu chấp nhận như vậy, nhưng Đức Phật vẫn than thở với Đại đức A Nan rằng:”Chánh pháp của Ta có thể duy trì một ngàn năm, nhưng vì phụ nữ được phép xuất gia, cuộc sống Thánh của các đệ tử Ta sẽ không duy trì lâu dài và từ nay Chánh pháp cao cả của Ta chỉ còn tồn tại 500 năm nữa mà thôi”. Có thể nói Đức Phật là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã cho thành lập một Ni đoàn với đầy đủ giới luật và uy nghi. Riêng Công chúa Da Du Đà La (đồng tuổi với Đức Phật) xuất gia không bao lâu thì chứng được quả A la hán và bà ta là người giỏi phép thần thông nhất trong giới Tỳ kheo ni. Công chúa nhập diệt năm 78 tuổi. Còn La Hầu La (con trai Phật) thì được giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ. Chính Đức Phật đích thân giảng cho La Hầu La kinh Ambalatthika Rahulovada Sutta, trong đó Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của tánh trung trực, của sự phản tỉnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh. Sau khi nghe kinh Cula Rahulavada, ngài La Hầu La chứng được quả A-La-Hán. Ngài qua đời trước Đức Phật. Tôn giả A Nan là anh em cô cậu với Đức Phật. Ông là con của Amitodana, em vua Tịnh Phạn. Vì ngày ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ nên được đặt tên là Khánh Hỷ (A Nan). A Nan xuất gia theo Phật lúc còn trẻ cùng với bảy vị vương tử khác và ông là người luôn luôn ở bên cạnh Đức Phật (thị giả) trong suốt 25 năm trời cho đến khi Đức Phật nhập diệt. Đức Phật tán thán ông là người học rộng uyên bác, có trí nhớ tốt, tính kiên định, săn sóc chu đáo và ứng xử tốt. Tôn giả là người duy nhất có thể nhớ tất cả những bài kinh mà trước đây Đức Phật đã thuyết giảng cho nên trong những lần kếp tập kinh điển đầu tiên, Tôn giả A Nan là người tụng thuật lại kinh tạng trong khi đó, Tôn giả Ưu bà ly tụng thuật lại Luật tạng. Mãi một thời gian lâu sau khi Đức Phật nhập diệt thì ông mới chứng được quả A la hán. Ngài nhập diệt vào năm 120 tuổi. Một thời gian sau, khi nghe tin vua Tịnh Phạn bị đau nặng sắp băng hà, Đức Phật vội vã về thăm cha lần cuối. Thấy phụ vương buồn rầu trên giường bệnh, Ngài giảng giải về lẽ vô thường, nguồn căn của nổi khổ và luật vô ngã cho vua cha nghe. Nghe xong, nhà vua liền dứt hết phiền não, gương mặt bổng vui tươi rồi băng hà một cách êm ái. AN CƯ KIẾT HẠ VÀ NHỮNG TỊNH XÁ Ở Ấn Độ thì mùa mưa thường xảy ra giữa tháng 7 và tháng 11. Trong khoảng thời gian nầy Đức Phật không đi thuyết pháp từ nơi nầy đền nơi khác mà Ngài cùng chư Tăng tề tựu trong các tu viện để thuyết pháp và tham thiền. Thời gian nầy được gọi là mùa an cư kiết hạ. Đây chính là thời gian mà chư Tăng có cơ hội học hỏi từ Đức Chí Tôn trong suốt 49 năm hành đạo của Ngài. Bao nhiêu bộ kinh hay nhất đã được giảng dạy trong lúc nầy. Khi mùa mưa dứt thì chính Đức Phật cùng tất cả chư Tăng lên đường đi khắp mọi nơi trong nước Ấn độ và Tây Tạng để hoằng dương đạo pháp và họ chỉ trở lại đây vào mùa mưa năm tới mà thôi. 1)Tịnh xá Kỳ Viên (Jatavana): Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika) tên thật là Tu Đạt Đa là đại thần của vua Ba-Tư-Nặc và là vị thí chủ lớn nhất ủng hộ Đức Phật và Tăng chúng. Ông là một người trí tuệ sáng suốt, học hành cao siêu, nhà cửa giàu sang, lòng dạ nhơn đức, thường hay cứu giúp kẻ nghèo hèn cơ khổ, kẻ mồ côi mồ cút nên ai cũng kính mến và ngợi khen mà đặt cho ông danh hiệu là “Cấp Cô Độc”. Truyện kể rằng, vì quá quý mến Đức Phật, ông bèn bạch Phật rằng:”Xin Đức Thế Tôn mở lòng từ bi, dời gót sen đến nước Xá Vệ là chỗ xứ sở của con đặng nhờ Ngài truyền pháp chơn chánh để mà dìu dắt chúng sanh ra khỏi đường mê lối vọng. Xin Ngài chuẩn lời thỉnh thì con trở về lập nhà tịnh xá liền”. Phật nhận lời và sai ông Xá Lợi Phất đi trước với ông Tu Đạt Đa đến nước Xá Vệ mà lựa một chỗ đất cao ráo để cất nhà Tịnh xá. Hai ông đi tìm khắp nơi mà chưa được chỗ nào xứng đáng. Sau cùng họ gặp được một miếng đất rộng rãi, cao ráo và mát mẻ, có cây cổ thọ, có suối cam tuyền, cảnh trí thanh tịch, phong quang đẹp đẻ, đáng là một chỗ danh thắng dà lam. Ông Tu Đạt Đa hỏi thăm mới biết miếng đất ấy là vườn của Thái tử Kỳ Đà (Jeta), nên ông đến để bày tỏ lòng sở nguyện của mình. Thái tử Kỳ Đà trả lời rằng:”Như khanh muốn mua vườn của ta thì về chở vàng đến lót khắp cả trên mặt đất, rồi ta sẽ bán cho”. Ông Tu Đạt Đa nghe nói như vậy thì hết sức vui mừng, tức thì trở về sai người chở vàng đến mà trải lót trong nữa ngày thì đầy, chỉ còn mấy chỗ có cây choán, thì không thể trải được mà thôi. Thấy ông đang tư lự suy nghĩ thì Thái tử Kỳ Đà bèn hỏi:”Nếu khanh thấy giá quá cao thì thôi, chớ ta không ép. Vì muốn chìu lòng khanh, ta mới hứa bán, chớ ta là con vua thì đâu có cần tiền mà phải bán vườn”. Ông bèn tâu:”Tâu Điện Hạ! Chẳng phải tôi có lòng nghĩ sự mắc rẽ, mà tôi đang suy tính không biết sai người về lấy vàng trong cái kho nào nữa mà chở đến trải cho đầy những chỗ đất chưa lót vàng đó, chớ không phải tôi tiếc của đâu! Cúi xin Điện Hạ hoan hỉ”. Thái tử nghe nói thì tự nghĩ :”Thật rất ít người trọng đạo mà khinh tài như ông nầy; vì phần nhiều trong nhân gian ai ai cũng muốn tiền bạc sung túc để tiêu xài cho sung sướng, chớ ai lại đem của ra mà mong cầu lấy phước quả về sau như ông nầy”. Thái tử bèn nói với ông Tu Đạt Đa:”Khanh đã có lòng tác phước, ta há không dạ làm lành! Thôi! Bây giờ nếu chỗ đất nào đã trải vàng rồi thì thuộc về phần của khanh, còn mấy chỗ có trồng cây mà không thể trải vàng được tức là của ta, thì ta cũng nguyện dâng cúng luôn cho Phật”. Từ đó công viên có tên là :”Cấp cô độc viên Kỳ đà thụ” hay Tịnh xá Kỳ Viên. Đức Phật đã giảng nhiều kinh và lưu lại 19 mùa mưa tại Tịnh xá nầy. Khi thuyết pháp cho ông Trưởng giả Cấp Cô Độc về hạnh Bố thí của người Phật tử tại gia thì Đức Phật dạy rằng:”Sự cúng dường cho Phật cùng chư Tăng là công đức rất lớn. Nhưng công đức lớn hơn là phải quy y và thọ trì giới. Nhưng công đức lớn nhất là người Phật tử tại gia cần phải phát triển trí tuệ để thấy được chân tướng của sự vật và hiểu được tánh vô thường, vô ngã của sự vật để được giải thoát, tự tại”. Khi ông Cấp Cô Độc lâm bịnh nặng, ông mời Tôn giả Xá lợi Phất đến giảng kinh tại nhà. Sau đó, ông qua đời và sanh lên cõi Trời Đầu Suất (Tushita). 2)Tịnh xá Rajakarama: Cũng tại kinh thành Savathi của xứ Kosala nầy, ngoài Trưởng giả Cấp Cô Độc thì vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cũng là một thí chủ lớn của Đức Phật cùng chư Tăng. Để tỏ lòng kính mến Đức Phật, nhà vua cho xây tu viện Rajakarama để cúng dường cho Phật trong mùa an cư kiết hạ. Trong cuộc chiến tranh giữa hai nước Kosala và Ma Kiệt Đà mà nhà vua của nước Ma Kiệt Đà là A Xà Thế cũng chính là cháu của nhà vua Ba Tư Nặc. Khi nghe tin vua Ba Tư Nặc thua trận, Đức Phật dạy rằng: “Thắng trận sinh thù oán Bại trận nếm khổ đau Ai bỏ thắng bỏ bại Tịch tịnh hưởng an lạc”. 3)Tịnh xá Pubbarama: Trong kinh thành Savathi, còn có nữ thí chủ tên là Visakha. Bà xuất thân trong gia đình triệu phú và lấy chồng cũng là triệu phú. Khi bà lên 7 tuổi thì bà may mắn gặp được Đức Phật tại nơi sinh quán của bà, từ đó bà rất kính phục Đức Phật. Biết Đức Phật thường thuyết giảng tại kinh thành Savathi, bà nguyện xây Tịnh xá Pubbarama để cúng dường cho Phật. Chính Đức Phật cùng chư Tăng đả trải qua 6 mùa kiết hạ tại Tịnh xá nầy. Bà Visakha là nữ thí chủ lớn nhất của Đức Phật và Tăng chúng cũng như ông Trưởng giả Cấp Cô Độc là nam thí chủ lớn nhất. 4)Tịnh xá Trúc Lâm: Vua Tân Bà Xa La (Bimbisara) của nước Ma kiệt Đà, có kinh đô là thành Vương Xá, từng gặp Đức Phật khi Ngài mới xuất gia và yêu cầu Đức Phật trở lại thăm vua sau khi Phật thành đạo. Khi Đức Phật đến, nhà vua cho xây cất Tịnh xá Trúc Lâm để cúng dường cho Đức Phật. Đức Phật đã trải qua 6 mùa an cư kiết hạ tại nơi đây. Bà vợ thứ của vua là Khema sau nầy cũng xuất gia cùng bà kế mẫu của Phật để lãnh đạo Ni chúng. Còn con vua Tân Bà Xa La là A Xà Thế (Ajatasattu) sau nầy cướp ngôi và giết vua cha. Đó là do nghiệp quá khứ của nhà vua quá nặng nề, nhưng nhờ công đức mà ông đã tạo dựng nhà vua vẫn được sanh lên cõi trời Lummaharajika với cái tên là thiên chủ Janavasabba. Cũng nên nói thêm là vua A Xà Thế sau khi cùng Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) âm mưu giết Phật không thành, biết ăn năn hối lỗi, xin Phật cho quy y và trở thành Phật tử tại gia hàng đầu của Đức Phật. Nhưng bởi do nghiệp quá khứ nặng nề, cho nên đến lượt ông, ông cũng bị con ông giết và cướp ngôi. 5)Tịnh xá vườn xoài: Kỹ nữ nổi danh tài sắc Ambapali của thành phố Versali là người mà một thời là ái thiếp của vua Tân Bà Xa la của xứ Ma Kiệt Đà. Ambapali sinh cho vua Tân Bà Xa la một người con. Người con nầy được sinh ra từ những đam mê trụy lạc của một quân vương và một kỹ nữ. Nhưng, đó sẽ là một đóa sen từ bùn lầy tanh hôi mà vươn lên với hương sắc thuần tịnh. Họ đặt tên cho đứa bé là Vimala, có nghĩa là không ô nhiễm, hay sẽ dứt sạch ô nhiễm. Quả nhiên, về sau Vimala xuất gia theo Phật rồi chứng đắc quả A La Hán. Trên đường đến Câu Thi Na trước khi Đức Phật nhập diệt thì Ngài có dừng lại Vesali và nghĩ tại vườn xoài của Ambapali. Được tin, Ambapali đến chào Đức Phật và trân trọng mời Đức Phật cùng chư Tăng ở lại dùng tiệc trai. Sau đó bà kính tặng Đức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tịnh xá. Sau nầy, Ambapali cũng xuất gia và chứng quả A la Hán. PHÁP NẠN Mặc dù Phật giáo dựa trên căn bản từ bi và trí tuệ, nhưng trong suốt cuộc đời hành đạo, Đức Phật cũng gặp biết bao nhiêu điều cay đắng phát sinh từ lòng đố kỵ của ngoại đạo, tà giáo và lòng ganh ghét của con người. A)Âm mưu hại Phật của Đề Bà Đạt Đa: Đề Bà Đạt Đa không ai xa lạ mà chính là anh em chú bác của Đức Phật. Ông là con của Bạch Phạn Vương (Amitodana) là em của vua Tịnh Phạn. Thưở nhỏ, ông cùng Thái tử Tất Đạt Đa học tập, vì tài năng không xuất sắc nên tuy thường tranh tài với Thái tử nhưng không thắng được nên ôm lòng căm hận. Sau khi thành đạo, Đức Phật về lại cung thành Ca Tỳ La Vệ thăm lại gia đình và cảm hóa và khuyến khích những người trong dòng họ Thích Ca xuất gia tu đạo. Khi nhân duyên đã đến, Đề Bà cùng em ruột là A Nan và năm vị vương tử khác là A Na Luật, Kiếp Tân Na, Bà Sa, Bạt Đề, Nan Đề đồng lén bỏ nhà xuất gia theo Phật. Trong khoảng 12 năm đầu, ông siêng năng tu hành, nhưng không đạt được Thánh quả nên thối tâm sinh lòng muốn học thần thông để được lợi dưỡng và thích khoe những điều kỳ lạ để lòe người. Tuy là anh em ruột, nhưng tánh tình mỗi người mỗi khác. A Nan thì hiền hòa nhân hậu còn Đề Bà thì nham hiểm, tính toán và không an phận thủ thường. Chính Đức phật đã nhiều lần khuyên ông nên hoàn tục làm cư sĩ chớ không nên ở trong Tăng đoàn để gây thêm nghiệp chướng, nhưng ông không nghe. Vì ham thích sự kỳ bí nên ông ta yêu cầu Phật dạy về pháp môn thần thông, nhưng Phật bảo ông trước hết phải lo tu tập cho thân tâm thanh tịnh mà đừng tham cầu phép lạ. Lý do là thần thông và phép lạ không đủ tiêu biểu cho đức hạnh. Sau khi nghe Phật từ chối, ông rất tức giận bèn đến nài nỉ hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Các vị nầy thừa biết tánh hung ác của ông nên đều từ chối. Ngược lại các vị chỉ dạy cho ông tu quán đạo lý khổ, pháp vô thường và vô ngã mà thôi. Do đó, Đề Bà Đạt Đa ôm lòng phản nghịch. Ông nghĩ rằng nếu không tiêu diệt Đức Phật thì ông ta không thể tự do tung hoành và thề rằng Đức Phật là kẻ thù không đội trời chung. Sau đó, Đề Bà dẫn 500 đồ chúng thoát ly tăng đoàn, tự xưng là Đại sư, lập ra 5 tà pháp, cho đó là con đường phạm hạnh dẫn đến Niết bàn: 1)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni suốt đời đi khất thực chớ không được vào nhà thí chủ thọ trai. Đức Phật bát bỏ bởi vì ngày xưa có những vị trưởng giả hay vua chúa thường thỉnh Phật và chư tăng vào cung để cúng dường và nghe pháp. 2)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni phải mặc y phấn tảo tức là chỉ mặc y lượm được ở nghĩa địa đem giặt sạch để may y chớ không được nhận y cúng dường từ thí chủ. Đức Phật không chấp nhận mà cho phép Tăng Ni được nhận tối đa là 3 y. 3)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni không được ăn thịt, cá. Đức Phật cũng không chấp thuận bởi vì Tăng chúng đi khất thực ngày một bửa nếu thí chủ cúng dường vật thực gì thì cứ ăn, không có chọn lựa. Vào thời Đức Phật còn tại thế, chính Đức Phật và Tăng đoàn không có ăn chay cho nên Phật giáo Nguyên thủy gọi lối ăn chay của Phật giáo Đại thừa là đệ tử của Đề Bà. Vì thế trong 227 giới Tỳ kheo của Nguyên thủy hay ngay cả 250 giới của Đại thừa không hề có giới ăn chay. Đệ tử Phật sau giờ Ngọ không ăn, còn pháp của Đề Bà thì ăn giờ nào cũng được. Phật cho ăn thịt, cá nếu mình không thấy, không nghe, không biết, không bảo ai giết và không tự mình giết con vật đó cho mình ăn. Đó là tịnh nhục tức là được ăn thịt, cá đã chết. Từ khi hình ảnh Bồ Tát xuất hiện trong kinh điển Đại thừa thì họ chủ trương và áp dụng lối thực hành của Ấn Độ giáo mà ăn chay là một biểu tượng của lòng từ bi. Ấn Độ giáo lý luận rằng Bồ Tát sao lại nở ăn thịt chúng sinh cho nên ngày nay người tu theo Ấn Độ giáo chẳng những không ăn thịt cá mà họ còn không ăn uống những thức ăn gì làm bằng bơ, sửa nữa. Vegetarian tức là người không ăn thịt, cá. Còn vegan là người không ăn thịt, cá, bơ, sửa. Đối với 5 giới của người Phật tử tại gia là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu chớ Đức Phật không dạy giới ăn chay. Ngay cả bát quan trai giới nghĩa là ngoài năm giới ở trên còn thêm 3 giới khác là không được nằm giường nệm êm ấm, không được trang điểm, phấn son hay nghe âm nhạc và sau cùng giới tà dâm đổi thành giới dâm dục. Tám giới này cũng không hề có giới ăn chay. Trước hết dựa theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy trong kinh luật Đức Phật có dạy cho Đại Đức Upali và bà Gotami tám điều như sau : 1/Giáo Pháp nào hành theo dứt được tình dục. 2/Thoát khỏi thống khổ 3/Xa Lìa phiền não 4/Trở nên thiểu dục 5/Thành người tri túc 6/Đức Thanh Tịnh 7/Có sự tinh-tấn 8/Thành người dị dưỡng (dễ nuôi có chi ăn nấy, ăn gì cũng được không cố chấp). Thế thì dựa theo tư tưởng ở câu này nếu người tu kén chọn vật thực cho dù chay, mặn cũng đều không đúng lời dạy của Phật. Thêm nữa, trong Tứ Thanh Tịnh Giới có đoạn quán tưởng về vật thực như sau: “Vật thực này thật là một nguyên chất, tạo thành ra tùy theo món vật dụng, dầu cho ta là người dùng nó, nó cũng chỉ là một nguyên chất, không có sanh mạng, không phải là chúng sanh, có trạng thái không không”. Vì vậy người tu Phật không chấp vào thức ăn, không màn đến đồ ăn cho dù nó là chay hay mặn bởi vì ăn để sống cho nên phải xem thức ăn chỉ là một nguyên chất, không có sinh mạng, không phải là chúng sinh, có trạng thái không không. Tóm lại, dựa theo như ghi chép trong kinh tạng Pali, Đức Phật không cấm sử dụng thịt, kể cả cho các vị tăng ni nữa. Đức Phật đã dứt khoát bác bỏ lời đề nghị của Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) bắt buộc chư tăng ni phải "ăn chay trường". Bây giờ dựa theo quan niệm của Phật giáo Đại thừa, trong Kinh Lăng Già, Kinh Đại Bát Niết Bàn hay Kinh Phạm Võng có nói rõ là không nên ăn thịt. Kinh Lăng Già dạy rằng: "Bồ Tát nên nhận rõ rằng tất cả thịt đều từ thân bất tịnh, được kết hợp bởi máu mủ bất tịnh đỏ trắng hòa hợp của cha mẹ. Vậy nên, nhận rõ sự bất tịnh của thịt, Bồ Tát không nên ăn thịt”. Trong khi đó, Kinh Phạm Võng dạy thêm: “Đệ tử Phật không được cố ý ăn thịt. Họ không nên ăn thịt bất cứ chúng sinh nào. Người ăn thịt phá hủy cái nhân đại từ bi, đứt đoạn hạt giống Phật Tánh và khiến [thú vật] và chúng sinh [siêu nhiên] tránh xa họ. Những người đó phạm vô số tội”. Kinh Lăng Già (Lankavatara Sutra) mặc dầu đã ghi lại những lời của Đức Phật dạy tại đảo Tích lan (Sri Lanka), nhưng các học giả ngày nay đều cho rằng kinh này được biên soạn rất trễ vào những năm 359-400 sau Tây lịch. Ngay cả thiền sư D.T Suzuki, một thiền sư nổi tiếng của Thiền tông Nhật bản (trong cuốn "The Lankavatara Sutra - A Mahayana Text", 1931) cũng đồng ý rằng bộ kinh này không phải là những lời do chính Đức Phật nói ra, nhưng được biên soạn về sau bởi các tác giả vô danh, những luận sư nổi tiếng thời bấy giờ dựa theo triết lý của Đại thừa. Thêm nữa, Phật giáo Đại thừa Trung Hoa không dựa theo giới luật Nguyên thủy mà dựa vào kinh Phạm Võng, một kinh được xem như là tác phẩm riêng của người Trung Quốc (Mizuno). Do vậy, nếu ăn chay được là tốt, nhưng đối với người tu Phật thì không thấy, không nghe, không biết, không bảo ai giết và không tự mình giết con vật đó cho mình ăn thì không phạm Giới do chính Đức Phật dạy. Nếu thật sự ăn chay có giải thoát thì người Bà la môn vào thời Đức Phật đã giải thoát hết đâu cần đến đạo Phật, nhưng con đường giải thoát duy nhất vẫn là Bát Chánh Đạo vì thế từ Bà la môn cho đến tất cả mọi người trên thế gian này nếu không thực hành đứng đắn Bát chánh đạo thì không bao giờ trở thành Thánh nhân hay có giải thoát được. Đó là: 1.Sơ quả Tu-đà-hoàn (Sotàpatti): vị Thánh Nhập lưu này có khả năng nhổ tận gốc hai căn bản phiền não là tà kiến và hoài nghi (nghi ngờ Phật pháp) và ba kiết sử là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ (chấp trước các tín điều mù quáng). Vì đã diệt hết các phiền não thô cho nên vị Thánh Nhập lưu sẽ không làm bất kỳ hành động xấu ác nào và dĩ nhiên các ngài sẽ không bao giờ tái sinh trong các cõi khổ. 2.Nhị quả Tư-đà-hàm (Sakadàgàmi): Vị Thánh này không nhổ tận gốc rễ bất kỳ phiền não nào, nhưng có khả năng làm giảm sức mạnh của các phiền não còn lại nghĩa là làm giảm nhẹ dục ái và sân hận. Vị Thánh Nhất lai sẽ chỉ bị tái sinh trong cõi dục một lần nữa mà thôi nên gọi là Nhất lai. 3.Tam quả A-na-hàm (Anàgàmi): Vị Thánh bất lai tiếp tục nhổ tận gốc rễ một phiền não nữa là sân và hai kiết sử là ái dục và sân hận. Vị Thánh này sẽ không bị tái sinh trong cõi dục và chỉ tái sinh trong cõi Phạm Thiên. 4.Tứ quả A-la-hán (Arahanta): Thánh giả A la hán đã nhổ tận gốc rễ tất cả các phiền não và kiết sử còn lại cho nên tâm của các ngài hoàn toàn thanh tịnh, các lậu hoặc đã bị tận diệt và các ngài chỉ phải mang thân xác lần cuối cùng. Các gánh nặng đã được đặt xuống, đã đạt được mục tiêu và đã tận diệt Hữu kiết sử cho nên các vị A la hán có được chánh giải thoát với trí tuệ tối thắng vá xứng đáng nhất cho thế gian và thiên chúng cúng dường. Có người nói rằng sau khi đắc quả A lán hán, vị ấy tiếp tục tiến tu để trở thành Duyên giác, Bích Chi Phật hay trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác? Hay A la hán chỉ là Hóa Thành (nửa chừng) còn phải tu để đến Bảo Sở mới thực sự thành Phật như Kinh Pháp Hoa đã nói? Cả hai đều không đúng. Tại sao? -Thứ nhất Thập Nhị Nhân Duyên (Twelve Conditional Factors) không phải dành cho những ai muốn tu để thành Duyên Giác, Bích Chi Phật mà là giáo lý cốt lõi của đạo Phật để giải thích con người từ đâu mà có và là pháp tu để có giải thoát. Thập Nhị Nhân Duyên là thuyết Duyên Khởi bắt đầu từ vô minh mà duyên sinh ra 11 duyên khởi khác. Từ Vô Minh phát sinh ra Hành, rồi từ Hành phát sinh ra Thức nghĩa là tùy thuộc nơi Nghiệp thiện hay bất thiện quá khứ, Thức được tạo điều kiện để phát sinh trong kiếp hiện tại. Nói cách khác Vô Minh và Hành trong kiếp quá khứ cùng hợp lại tạo điều kiện cho Thức trong kiếp hiện tại phát sinh. Sau đó do nghiệp lực, Thức kết hợp với tinh cha huyết mẹ tạo thành một hình hài nhỏ như đầu mũi kim trong bụng người mẹ nên gọi là Danh Sắc. Sau đó hài nhi phát triển thành một con người có đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý để cảm nhận mọi cảm xúc của cuộc đời nên gọi là Lục Căn. Do sự cảm Xúc từ ngoại duyên (cuộc đời: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nó cảm Thọ được khổ, vui của cuộc đời. Từ đó lòng tham Ái nổi dậy. Một khi trạng thái luyến ái, bám vào thì nó phải nắm chặt lấy đối tượng nên gọi là Thủ. Cũng do nơi Thủ mà con người phải làm nô lệ cho khát vọng của mình mà nhắm mắt chạy theo dục lạc. Tùy thuộc cường độ chấp Thủ mà nghiệp phát sinh, đó là Hữu để đưa con người đi tái Sanh. Nhưng dựa theo luật vô thường của tạo hóa, hễ có Sanh là có Lão (già, bệnh) và sau cùng là Tử (chết). Cứ thế mà con người quay cuồng trong sinh tử triền miên, không có lối thoát. Thế thì phải sống như thế nào? Đức Phật dạy rằng: "Chúng sanh gặt hái bông trái như thế nào? Tùy theo hột giống đã gieo. Người làm điều thiện sẽ gặp thiện, Hành ác, gặp ác. Hãy gieo hột giống tốt và gia công vun bồi cây, Sẽ được hưởng trái lành". (Samyutta 1, trg. 227 - The Kindred Sayings I, trg. 293) Dựa theo lời dạy của Đức Phật ở trên, không thể có một nguyện lực nào ở bên ngoài có thể ban bố phước lành, hay giáng họa cho ai được mà chính Ta là người duy nhất tạo hạnh phúc hay khổ đau cho chính Ta mà thôi. Tóm lại, do Vô Minh tạo duyên, Hành mới phát sinh. Do Hành tạo duyên, Thức mới phát sinh…Vì thế nếu diệt được vô minh là có giải thoát, không còn sinh tử khổ đau. Muốn diệt vô minh thì Đức Phật dạy tu theo thiền tuệ, thiền minh sát Vipassanà với 16 tuệ minh sát mà tuệ thứ nhất là tuệ phân tích Danh Sắc (ngũ uẩn). -Thứ nhì, đạo lộ “giải thoát” ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế là trở thành Thánh giả A la hán, chớ tuyệt đối không có Duyên Giác, Bồ Tát, không vào Kim Cang Định hay Bạch Tịnh Thức gì hết. Tại sao? Khi Đức Phật còn tại thế, chưa hề có Mật tông nên không có Kinh Kim Cương và Đại Nhật hay Phật Kim Cang Tát Đỏa (Phật tổ Mật tông Tây tạng). Triết gia Long Thọ chỉ xuất hiện khoảng 600 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn với tư tưởng Bát Nhã…Thêm nữa, một khi đã đắc Thánh quả A la hán, vị ấy đã chấm dứt vòng sanh tử, tử sanh và sẽ nhập Niết Bàn. Thánh giả A la hán đã hoàn toàn trong sạch, không còn mảy may ô nhiễm nào để thanh lọc, tất cả mọi lậu hoặc đã được diệt trừ tận cội rễ. Vì thế, các ngài không còn Giới, Định hay Tuệ nào nữa cần phải trau dồi cho được hoàn hảo. Do vậy khi đắc quả A-la-hán rồi thì tất cả phiền não, các lậu hoặc đều bị loại trừ và vị A-la-hán hoàn toàn thoát khỏi mọi khổ đau. Khi đạt được trạng thái hoàn toàn giải thoát, vị A-la-hán sẽ nhìn lại tâm mình và thấy rằng: “Ta không còn phải tái sinh nữa, ta đã hoàn thành xong Bát Chánh Đạo, những gì cần làm ta đã làm rồi, và không có gì ta cần làm để giải thoát nữa”. Vì tầm quan trọng của Bát Chánh Đạo cho nên lời sau cùng của Đức Phật đã nói cho Tu-Bạt-Đà-La, người đệ tử sau cùng, trước khi Ngài nhập diệt rằng: “Không thể có được bậc Thánh trong bất cứ một tôn giáo nào nếu không có Bát Chánh Đạo. Nầy Tu-Bạt-Đà-La, trong giáo lý nào có Bát chánh đạo thì tất có hàng Thánh nhân. Ở đây, trong giáo lý của Như Lai lại có con đường Bát Chánh, tất nhiên phải có các bậc Thánh mà trong giáo lý khác không thể có được. Nếu các đệ tử sống chân chánh thì thế gian không thiếu Thánh nhân”. 4)Chư Tăng Ni chỉ được ở trong rừng chớ không được vào thành thị, xóm làng. Đức Phật cũng không chấp thuận vì đạo Phật là đạo tùy duyên, không cố chấp. Ai muốn vào rừng thanh vắng để tu cũng được mà người nào muốn vào phố thị để hóa duyên thì Phật cũng không cấm. 5)Chư Tăng Ni chỉ được ngủ ở dưới gốc cây. Đức Phật cũng không chịu bởi vì nếu chư tăng muốn ngủ dưới gốc cây cũng được hoặc ngủ ở trong tịnh xá cũng được, tùy duyên chớ Phật không ép chế. Đề Bà vọng lập 5 pháp như thế để mê hoặc đại chúng, lấy phi pháp làm chánh pháp, cho pháp là phi pháp, lấy phi pháp làm luật, cho luật là phi luật nên gọi là Tà pháp. Tại thành Vương Xá, Đề Bà thành lập giáo đoàn riêng rẽ độc lập chống lại Đức Phật. Với sự đãi ngộ của vua A Xà Thế, con vua Tân Bà Xa La, thế lực của Đề Bà dần dần rộng lớn. Về sau, Đề Bà xúi giục Thái tử A Xà Thế giết cha để đoạt ngôi. Rồi ông dựa vào uy quyền của vua A Xà Thế mà mưu toan lãnh đạo Tăng đoàn. Đề Bà muốn hãm hại Đức Phật nên sai 500 người xô đá và dùng khí giới để giết Phật, nhưng chỉ có một mảnh đá nhỏ văng ra làm trúng chân Phật chảy máu. Một lần nữa, thừa lúc Phật vào thành Vương Xá, Đề Bà cho thả voi điên để sát hại Phật, nhưng vừa gặp Phật voi liền quy phục nên việc cũng không thành. Ác tâm của Đề Bà không dừng ở đây, ông ta còn đánh đập Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc đến chết. Sau đó, Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyến dụ đồ chúng của Đề Bà trở lại với Tăng đoàn của Đức Phật. Ngay cả vua A Xà Thế cũng được Đức Phật giáo hóa bèn sám hối quy y và về sau nhà vua là một đại thí chú cho Phật giáo. Tâm cùng trí quẩn, Đề Bà nhét chất độc vào trong mười móng tay của mình, định thừa dịp lễ lạy để cào vào hai bàn chân mà hại Phật, nhưng chân Đức Phật lúc đó cứng như đá nên không bị chất độc hãm hại. Ngược lại, 10 ngón tay của Đề Bà bị xây xát khiến chất độc ngấm vào máu, chết tức thì. Khi nói về Đề Bà Đạt Đa, Đức Phật dạy rằng:”Vì ông ta bị chinh phục bởi các ác pháp, cho nên phải đọa địa ngục, tức là bị chinh phục bởi lợi dưỡng, danh vọng, dục vọng xấu và tà kiến”. B)Tướng cướp Angulimala: Tại xứ Kosala, có một tướng cướp khét tiếng hung ác tên là Angulimala. Cha của ông vốn là một quan chức trong triều vua xứ Kosala. Thủa thiếu niên, ông học rất giỏi và rất được các bạn cùng lớp thương yêu. Trong lớp học của ông có vài người ghen tỵ ông nên họ vu cáo với thầy giáo. Vị thầy nầy bắt đầu thù ghét và muốn giết ông bằng cách bắt ông trả học phí bằng 1000 ngón tay phải của con người. Ông rất khổ tâm nhưng phải vâng lời thầy. Ông vào trong rừng Jalini ở Kosala và bắt đầu giết người để có đủ số ngón tay cần thiết. Ban đầu, ông treo các ngón tay người trên cây, nhưng vì các ngón tay bị quạ mổ ăn, cho nên ông xâu ngón tay người lại thành vòng để đeo nơi cổ. Khi ông đã thu thập được 999 ngón thì Đức Phật xuất hiện. Ông rất mừng vì sắp đủ số ngón tay cần thiết để nộp cho thầy giáo ác độc. Thấy Đức Phật, ông liền rút gươm và chạy đuổi theo Phật. Vì Phật dùng phép thần thông nên ông càng đuổi thì càng không bắt kịp được Phật, mặc dầu Phật vẫn đi khoan thai từ từ. Cuối cùng, mồ hôi dầm dề và mệt lã, ông dừng lại và gọi :”Này Tu sĩ, hãy dừng chân”. Đức Phật nói từ tốn:”Mặc dầu ta đang đi, nhưng ta đã dừng chân. Còn nhà ngươi đã dừng chân hay chưa?”. Ông không hiểu ý của Phật bởi vì Đức phật đang đi mà lại nói đã dừng chân. Còn ông thì đã dừng chân mà Phật bảo là hãy dừng chân. Thấy ông thắc mắc, Phật dạy:“Đúng là ta đã dừng mãi mãi bởi vì Ta không bao giờ ta dùng bạo lực đối với chúng sinh. Còn nhà ngươi, hãy dừng tay chớ giết hại đồng loại. Vì vậy mà Ta nói rằng, Ta đã dừng và bảo ngươi cũng hãy dừng tay”. Nghiệp thiện ngày xưa tác động vào tư tưởng của ông khiến ông vứt gươm xuống đất, quỳ xuống và xin quy y theo Phật. Phật chỉ nói một câu đơn giản:”Ehi Bikkhu” (Hãy đến! Tỳ kheo). Dựa trên hai thí dụ trên thì Đức Phật chính là một ông lương y đại tài vì Ngài tùy theo hoàn cảnh mà hóa độ chứ nhất thiết không theo một đường lối cố định nào. Ngài có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài cho dù là kẻ thân, người thù, người thông minh hay kẻ đần độn, kẻ giàu sang hay là người nghèo khổ. PHÁT HUY TINH THẦN BÌNH ĐẲNG Ngoài lòng từ bi vô bờ bến, tinh thần bình đẳng là một đức tính cao quý khác mà Đức Phật đã phát huy ngay từ khi còn thơ ấu. Đối với Ngài thì không có sự khác nhau giữa người nghèo với kẻ sang hoặc người thông minh với kẻ chậm tiến. Nhắc lại thời bấy giờ trong xã hội Ấn Độ, sự phân chia giai cấp được coi là rất thịnh hành. Bất cứ nơi nào cũng có mấy chục giai cấp khác nhau từ hạ tiện đến giàu sang. Người hạ tiện thì không được phép giao du với cấp cao hơn và ngược lại kẻ giàu sang thì càng không muốn gần gủi kẻ khốn cùng. Điển hình là khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn độ, người nầy sợ làm ô uế cho Ngài, Đức Phật dạy rằng:”Không có giai cấp, vì mọi người trong máu đều đỏ như nhau và trong nước mắt của ai cũng mặn cả”. Nhưng đặc biệt nhất là lời tuyên ngôn của Đức Phật rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Phật giáo là tôn giáo duy nhất trên thế giới từ ngàn xưa cho tới ngày nay, cách cửa giải thoát lúc nào cũng mở rộng cho tất cả mọi người không phân biệt nam, nữ; da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ, từ thiên tử đến chí dân, ai ai cũng đều có cơ hội thực hành và trở thành Phật giống y như Phật. Bằng chứng là vào thời Đức Phật còn tại thế đã có 1,250 vị A la hán chớ đâu phải chỉ riêng có Đức Phật. A la hán (vô sanh) là quả tối thượng của Phật giáo và chính Đức Phật cũng là vị A la hán bởi vì Đức Phật là người chứng thánh quả A la hán đầu tiên dưới cội Bồ đề và là vị thầy của tất cả các vị A la hán cho nên danh vị Phật chỉ dành riêng cho Ngài chớ tuyệt đối không có Hóa thành hay Bảo sở như Kinh Pháp Hoa đã nói. Ngay cả trong giáo hội của Ngài, Ngài đã thu nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Chẳng hạn như ông Ưu Bà Ly, một người thuộc giai cấp hạ tiện, làm nghề thợ cạo, nhưng sau đó trở thành một đệ tử rất nổi tiếng về phương diện giới luật của Phật giáo. Sự thâu nhận nầy đã làm cho một số vua chúa bất mãn. Điển hình là vua Ba Tư Nặc đã bạch Phật rằng:”Ngài thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng tông đồ như vậy, không sợ rằng đá sỏi lẫn lộn với châu ngọc làm mất giá trị của chúng Tăng sao? Đức Phật dạy rằng:”Người hèn hạ mà biết Phật tâm Bồ đề, xuất gia tu hành, chứng được Thánh quả, thì quý báu vô cùng, chẳng khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho”. ĐỨC PHẬT NHẬP DIỆT Trong cuộc đời hành đạo 49 năm của Đức Phật, Ngài đã không ngần ngại đi khắp mọi nơi từ đông qua tây, từ bắc xuống nam, hết nước nầy đến nước khác để hoằng dương đạo pháp. Hễ nơi nào có bước chân Ngài đến là ánh đạo vàng bừng tỏa huy hoàng. Hạt giống từ bi được Ngài tinh tấn gieo khắp các nơi ở Ấn Độ. Ngài đã được mọi người từ nghèo đến giàu, từ vua chúa đến thứ dân, từ thiện nam đến tín nữ, từ già đến trẻ đều vui vẻ được tắm gội trong ánh sáng trí tuệ và nước từ bi do Ngài tưới xuống. Bất cứ ở đâu có ánh đạo vàng đến thì tà giáo và ngoại đạo phải tránh xa, tan biến như những làn mây, như những bóng tối trước ánh bình minh đang lên. Khi giác hạnh của Phật viên mãn thì Ngài đã 80 tuổi. Cũng giống như mọi người trên thế gian nầy, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi. Mặc dầu biết trước ba tháng trước ngày nhập diệt, Ngài vẫn không nghĩ ngơi mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo. Một ngày kia, Đức Phật nói với Đại đức A Nan rằng: “Đạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay Ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc (thiện nam), Ưu-bà-di (tín nữ). Nhiều đệ tử có thể thay Ta chuyển xe pháp, và Đạo Ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ Ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình Ta, theo luật Vô thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở Pháp, nay xe cũng vừa mòn mà Pháp cũng đã lan khắp các nơi, vậy Ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy nầy nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa Ta sẽ nhập diệt”. Một ngày nọ trên đường đi thuyết pháp, Ngài gặp một người làm nghề thợ rèn tên là Thuần Đà (Cunda) mời Ngài về nhà để cúng dường. Trong sách “Cuộc Đời Đức Phật” của tác giả A.F Herold diễn tả lại bửa ăn cuối cùng của Đức Phật như sau: -Bạch Thế Tôn! Ngày mai, xin mời Ngài hoan hỷ đến nhà con trọ trai. Đức Thế Tôn nhận lời. Ngày hôm sau, Thuần Đà dọn thịt heo và các món cao lương khác để đãi khách quý. Đức Thế Tôn và đồ chúng ngồi vào bàn, nhìn thấy thịt heo, Ngài chỉ tay nói: -Thuần Đà, chỉ có Ta là dùng được món này. Đệ tử của Ta sẽ dùng các thứ khác. Sau khi dùng bửa, Đức Phật nói thêm: -Hãy chôn sâu xuống đất những gì Ta còn chừa lại, chỉ có Ta là dùng được món này. Đức Phật từ giả lên đường. Đồ chúng lại theo Ngài. Đức Thế Tôn và đồ chúng đi cách Ba-va được một đoạn ngắn thì Ngài càm thấy mệt và nhuốm bệnh. A Nan tỏ lời than trách Thuần Đà, nhưng Đức Phật dạy rằng: -Này A Nan, đừng giận chú thợ rèn Thuần Đà. Nhờ cúng dường Ta thức ăn mà chú ấy sẽ được nhiều phước báu to lớn. Trong tất cả các bửa cúng dường ngọ trai cho Ta, có hai bửa đáng được ca ngợi nhất: một là của Sujata và hai là của Thuần Đà. Lúc đó, Đức Phật cảm thấy trong người đau đớn vô cùng vì Ngài đã nhiễm bịnh ly huyết rất trầm trọng. Mặc dầu cơn đau đang hành hạ thân thể, nhưng Ngài vẫn cố gắng đi bộ khoảng 9 cây số để đến cho kỳ được Câu Thi Na (Kusinagara). Vì đoạn đường đi quá xa và cơn đau hành hạ nên Ngài phải dừng chân nghĩ tới 25 lần. Lý do mà Ngài phải đến Kusinagara là vì ba điều kiện: 1)Ngài muốn thuyết pháp một lần chót cho chúng tăng để sống một cuộc đời đạo hạnh. Đức Phật dạy rằng:”Này ! Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi ! Các người hãy lấy Pháp của Ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của Ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các ngươi!” Rồi Phật lại dạy tiếp:”Này! Các ngươi đừng vì dục vọng mà quên lời Ta dặn. Mọi vật ở đời đều không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có đạo Ta là quý báu. Chỉ có chân lý của đạo Ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tấn lên để giải thoát, hởi các người rất thân yêu của Ta”. Sau đó Ngài khuyên tất cả đệ tử phải lấy giới luật làm thầy. 2)Ngài muốn thâu nhận người đệ tử sau cùng tên là Tu Bạt Đà La (Subhadda) bởi vì ngoài Đức Phật ra không còn ai có thể cảm hóa nổi ông ta. 3)Ngài muốn nhục thân Xá Lợi chia thành 8 phần cho 8 vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ. Sau khi dặn dò cặn kẻ xong, Ngài tắm rữa lần cuối cùng trên dòng sông Kakuttha, rồi bảo ông A Nan làm chiếc giường cho Ngài nghĩ. Đầu Ngài hướng về phía bắc và Ngài nằm nghiêng giữa hai cây Long Thọ. Ngài lặng lẽ nhập định, tuần tự trải qua các cấp thiền từ thấp tới cao, rồi từ cao tới thấp và cuối cùng chủ động để nhập diệt. Lúc bấy giờ là nhằm nữa đêm ngày rằm tháng hai âm lịch. Rừng cây Long Thọ (Sal-trees) tuôn hoa đỏ thắm phủ lên thân Ngài. Đức Phật thọ 80 tuổi. Ngài mất vào năm 544 trước Tây lịch. Các vị đệ tử tẩm liệm xác Ngài vào kim quan và họ đợi 7 ngày sau khi ngài Ca Diếp trở về từ chuyến đi truyền đạo. Họ bắt đầu làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu) cho Đức Phật và đúng như lời dạy của Phật, họ đem nhục thân Xá lợi chia thành 8 phần cho 8 vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ. Đó là các nước Magadha, Vesàli, Kapilavatthu, Allakappa, Ramagma, Vethadipa, Pàvà và Kusinagarà (Câu Thi Na). Tất cả các nơi đều xây tháp để tôn thờ Xá Lợi Phật. Có một điều khá tế nhị là sau khi Đức Phật nhập diệt, Ngài đại đệ tử Ca Diếp đã triệu tập 500 vị đại A la hán để cùng nhau kết tập pháp thân Xá lợi của Phật. Đó là Kinh Tạng và Luật Tạng mà không quan tâm, để mặc cho đệ tử phàm phu tranh nhau lấy nhục thân Xá Lợi của Phật. Vậy chúng ta có thể thấy, nhục thân Xá Lợi chỉ có kẻ phàm phu mới quan trọng, còn bậc Thánh lại không quan tâm bởi vì đối với họ giải thoát sinh tử mới là điều tối thượng. Đức Phật đã đem ánh đạo vàng đến cho nhân loại, nhưng cuộc đời của Ngài có thể tóm gọn một cách giản dị như sau:
Đời sống hằng ngày của Đức Phật được chia ra làm sáu thời: Sáng, Trưa, Chiều, Đầu hôm, Giữa đêm và Cuối đêm. 1)Buổi sáng, Đức Phật thuyết pháp độ người hữu duyên cho đến gần trưa thì Ngài đi khất thực hoặc đi chứng trai do người thỉnh. Ngài thọ trai vào lúc giữa trưa (giờ ngọ). 2)Buổi trưa, sau khi thọ trai, Đức Phật nghỉ ngơi giây lát. Sau đó, Ngài thuyết pháp cho các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. 3)Buổi chiều, Đức Phật giảng dạy cho các thiện nam, tín nữ (Phật tử tại gia). 4)Đầu hôm, thời gian này đặc biệt dành riêng để giải đáp các khúc mắc của các Tỳ kheo. 5)Giữa đêm, Đức Phật tọa thiền nói pháp cho Chư Thiên và Phi Nhơn. 6)Cuối đêm, Đức Phật hành thiền và ngủ khoảng vài giờ. Rồi Thiền hành. Cuộc đời Đức Phật rất giản dị, Ngài đi chân đất không giày dép, đầu trần không mũ nón và đặc biệt nhất là mặc áo rách quanh năm. Đây là hình ảnh sống động, trung thực của người giải thoát, không dính mắc thế trần. Đức Phật là một con người giác ngộ siêu việt, nhưng Ngài có một đời sống rất đơn giản, bình dị và gần gũi với tất cả mọi chúng sinh. Ngài đã đem ánh đạo vàng đến với nhân loại để giúp họ thoát khỏi màn vô minh hắc ám và tìm thấy ánh sáng của chân đạo. TAM TẠNG KINH Từ khi Đức Phật thành đạo, Ngài chỉ thuyết giảng giáo pháp bằng kim khẩu và mãi trên 200 năm sau khi Ngài nhập Niết bàn với 3 lần kết tập, giáo pháp vẫn còn giữ được tính chất nguyên thủy của đạo Phật. Thời kỳ nguyên thủy kéo dài đến hơn 600 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, rồi lần lượt xuất hiện các vị luận sư uyên bác của Đại thừa bắt đầu là ngài Mã Minh, rồi tới ngài Long Thọ và sau cùng là ngài Vô Trước và em là sư Thế Thân. Thời kỳ này kéo dài từ 600 đến 1000 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn. Phật giáo Đại thừa được chia làm hai trường phái triết học chính là phái Trung Luận của triết gia Long Thọ và phái Du già của sư Vô Trước. Tại Ấn Độ, những kinh điển liên quan đến Đại thừa hoàn toàn bị thất lạc, có lẽ do sự tàn phá hũy diệt tất cả những tu viện lớn của đạo quân Hồi giáo vào thế kỷ thứ 12. Ngày nay chỉ còn những bản dịch sang Hoa ngữ, Nhật ngữ và Tạng ngữ vẫn còn được lưu giữ. Vào năm 1833, ông Brian Houghton Hodgson được cử làm đặc sứ tại Kàthamandu ở Nepal cho đến năm 1843. Trong thời gian ở tại Nepal, ông phát hiện được 381 cuốn kinh Phật bằng Phạn văn nguyên bản. Điều đặc biệt là kinh Phật bằng tiếng Phạn rất khác với kinh điển tiếng Pali và kinh tiếng Phạn này lại rất giống với các bộ kinh Phật giáo tại các nước Trung Hoa, Nhật Bản và Tây Tạng. Trong số những Phạn kinh có bộ Trung Luận (Madhyamaka Sàtra) của Long Thọ và bản chú thích Minh Cú Luận (Prasannapadà) của Nguyệt Xứng (Candrakìrti). Phái Trung Quán được thành lập bởi ngài Long Thọ vào những năm 150 sau dương lịch. Ngài được xem là một trong những kỳ tài vào thời đại đó của xứ Ấn Độ. Chính tư tưởng Trung Quán là xương sống cho Phật giáo Đại thừa khi truyền sang Trung Hoa và cũng là yếu chỉ cho Phật giáo Mật tông Tây Tạng. Triết lý Trung Quán Luận là một học thuyết biện luận đưa đến sự hoài nghi tất cả mọi hiện sinh và cho rằng tất cả mọi sự vật đều là giả tạo vì chúng không có tự tánh, không có chủ thể. Vì thế con đường giải thoát là phải buông bỏ hết cho đến khi chỉ còn lại cái tánh không tuyệt đối thì lúc ấy giải thoát sẽ được đạt đến. Trên căn bản, học thuyết Bát Nhã của Long Thọ đặt trong tâm vào hai chân lý tục đế và chân đế. Long Thọ cho rằng mặc dù chân lý có hai cấp bậc (chân-tục), nhưng chỉ có thực thể mới là chân lý tối thượng. Đó là cảnh giới bất sinh bất diệt, không bao giờ thay đổi, luôn luôn là “cái tự bao giờ đã là” và dĩ nhiên trong đó không còn sự khác biệt giữa sanh tử và Niết bàn, hay phiền não và Bồ-đề. Trong Trung Luận, chúng ta có thể thấy rõ rằng Chân lý Tánh Không của Long Thọ được áp dụng rộng rãi qua biện chứng pháp về “Bát Không”. Đó là “không sinh, không diệt, không thường, không đoạn, không đồng, không dị, không lai, không khứ”. Giáo lý nhị đế (tục đế, chân đế) thật ra cũng chẳng xa lạ gì đối với Phật giáo Nguyên thủy. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài không bao giờ nói về nhị đế hay Bát Nhã, nhưng trong Tứ Thánh Đế đã ngầm chứa nhị đế rồi. Tục đế là nói về thế giới hữu vi, hữu hình, hữu sanh, hữu diệt trong khi đó chân đế là diễn tả về tánh không tối thượng tức là chơn không. Đức Phật giảng giải Tứ Diệu Đế mà trong đó Tập đế (nguyên nhân khổ), Khổ đế (các loại khổ) và Đạo đế (con đường diệt khổ) là nói về Tục đế và Diệt đế tức là giải thoát Niết bàn tức là Chân đế của Long Thọ vậy. Ở đây tánh không tối thượng của Long Thọ tức là Niết bàn của Đức Phật. Tuy tư tưởng Du Già đã bắt đầu hình thành vào thời Long Thọ, nhưng mãi đến mấy thế kỷ sau triết lý này mới được phát huy đến mức tận cùng bởi luận sư Vô Trước và người em là sư Thế Thân. Phái Du Già tin vào chủ nghĩa “duy tâm siêu hình” mà theo đó tâm thức sáng tạo ra đối tượng của nó nhờ vào những năng lực tiềm ẩn nội tại. Thế Thân lý luận rằng tất cả vạn hữu trong thế giới hữu vi này mà con người biết được, trong thực tế đều chỉ là cấu trúc của tâm thức bởi vì những vật thể đó cũng chỉ là sự thông giải do tâm trí của con người đặt ra. Dưới mắt các học giả Tây phương, Du Già là một triết học mang tính duy tâm chủ nghĩa (idealism) vì nó lấy sự thông giải tâm thần các kinh nghiệm của con người làm điểm phát xuất. Nói cách khác, tâm thức tự nó hiện hữu mà không cần có bất cứ đối tượng nào. Dựa theo Vô Trước, sự giải thoát chỉ có thể thực hiện được khi nào con người có thể tạo ra được một nhận thức thuần túy nghĩa là chỉ thuần có tâm thức và không lệ thuộc vào phạm trù đối đãi của nhị nguyên. Chẳng những Vô Trước là nhà biện luận xuất sắc, sư có người em là Thế Thân tài trí cũng không kém. Công trình chính của Thế Thân là hệ thống hóa tư tưởng Du Già hành tông của sư huynh Vô Trước thành Duy thức tông và là tác giả cuốn Duy thức tam thập tụng mà một trong những công dụng là giải thích những khúc ẩn trong bát thức tâm vương, đặc biệt là Mạt-na thức và A-lại-da thức. Ngài Huyền Trang đến Ấn Độ tu học vào thế kỷ thứ 7 tại tu viện Na Lan Đà đã chú giải bộ Duy Thức Tam thập tụng của sư Thế Thân và khi về lại Trung quốc đã dịch lại là Thành duy thức luận. Tuy Duy thức là tác phẩm của Vô Trước, Thế Thân nhưng họ đã trích dẫn một phần về sự biến hành của tâm trong bộ luận Vi Diệu Pháp của Phật giáo Nguyên thủy và từ đó khai triển thêm Mạt na thức và A lại da thức để trở thành Bát thức tâm vương. Dựa theo tư tưởng Trung Quán của Long Thọ và Du Già của Vô trước thì chúng ta đang sống trong cái thế giới đa dạng và phong phú với những hóa tướng, tập tục và truyền thống cho nên nó đã thối thúc con người đi tìm sự bí mật về chân tướng của sự vật, cái thực tại tuyệt đối (Ultimate Reality)(Phật giáo Mật tông Tây tạng thường gọi). Họ khẳng định rằng cái thực tại này chính là ở ngay trong những hóa tướng này. Trong khi Phật giáo Nguyên thủy chỉ chú trọng vào Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) và chân lý Vô Ngã, phái Du Già (Duy Thức) của Vô Trước chú trọng đến tam tánh (viên thành Phật tánh, y tha khởi tánh, biến kế sở chấp tánh) thì Trung Quán tông của Long Thọ đưa ra những lý luận rất sâu sắc về Nhị Đế (Tục Đế, Chân Đế). Tóm lại, phái Du Già chú trọng về mặt tâm lý và tin rằng cái tuyệt đối nếu đứng về phương diện thực dụng thì có thể được diễn tả như là tâm, ý hay thức. Do đó, lý thuyết của Du Già là một thứ chủ nghĩa duy tâm siêu hình. Hai trường phái Trung quán và Du già rõ ràng là hoàn toàn khác biệt nhau về con đường cũng như cứu cánh giải thoát cho nên sự tranh cải giữa hai tư tưởng thường hay xảy ra. Đối với những người tin theo phái Trung luận thì cho rằng giáo lý của phái Du Già có vẽ như là một sự sai lầm, quá ảo tưởng nên không thể hiểu được. Trong khi đó, phái Du Già xem giáo lý Trung luận chỉ là điểm khởi đầu, nhưng đã đi chênh lệch đường hướng chân lý và cốt tủy bí truyền của Phật giáo. Long Thọ phát triển những giáo lý thâm diệu của “tánh không” dựa vào căn bản trí của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, trong khi đó Vô Trước và Thế Thân đi theo con đường “Duy thức” của Bồ Tát Di Lặc. Hai tư tưởng căn bản trí và duy thức được mô phỏng rất rõ ràng trong Kinh Pháp Hoa. Hai trường phái Trung quán và Duy thức rõ ràng có những mâu thuẩn về tư tưởng triết học. Trường phái này đua nhau tranh chấp, cải vả vì không chấp nhận lý luận hay tư tưởng của trường phái khác. Đến khoảng 1100 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, Tổ Bồ Đề Đạt Ma xuất hiện ở Trung Hoa và đưa ra tuyên ngôn đanh thép rằng: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Tại sao? Bởi vì ngài đã quá chán ngán với bao tranh cải, biện chứng, kinh này giáo nọ và không còn tin vào văn tự hay những luận giải bóng bẩy cao siêu ấy của các luận sư Đại thừa nữa. Văn chương, chữ nghĩa, luận giải đã cải vả nhau cả ngàn năm rồi mà cũng chẳng tới đâu. Kết quả, lịch sử Phật giáo Đại thừa truyền vào Trung Hoa và Tây tạng bắt đầu từ những thế kỷ thứ 6, thứ 7 ảnh hưởng đến cách áp dụng và thực hành cũng khác nhau. Trong khi Phật giáo Mật tông Tây tạng chỉ hành trì dựa vào Trung Quán và Duy thức thì ở Trung Hoa, Thiền tông dựa theo tư tưởng của Tổ Bồ Đề Đạt Ma được phổ biến sâu rộng và đạt đến đỉnh cao nhất vào thời Lục Tổ Huệ Năng. Phải nhận định thật rõ ràng (Without a doubt) rằng Phật giáo Đại thừa là Phật giáo phát triển cho nên từ ngày Đại thừa xuất hiện cho tới ngày nay phát hiện rất nhiều luồng tư tưởng của chư Tổ, nhưng tựu trung chỉ có ba luồng triết học chính: một là Trung Quán (Bát Nhã) của Long Thọ, hai là Duy thức của Vô Trước, Thế Thân và sau cùng là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Giáo lý Nguyên thủy của Đức Phật chỉ có hai chân lý là Tứ Diệu Đế và Vô Ngã. Chân lý là sự thật, đúng ở bất cứ không gian và thời gian nào, đúng ở ngay cả trong cái thế giới tương đối, tục đế này và bất ai cũng có thể áp dụng nó để có một kết quả giống nhau. Ngược lại, luận giải của chư Tổ thì đúng với trường phái này mà lại không thích hợp đối với trường phái khác cho nên các trường phái luôn cải vả với nhau là như vậy. Có người lý luận rằng lời Phật thuyết là kinh, còn lời chư Tổ là luận. Đó là Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh; Trung Quán Luận và Đại Trí Độ Luận của Long Thọ; Đại Thừa Nhiếp Luận Tông, A Tỳ Đạt Ma Tập Luận, Du Già Sư Địa Luận của Vô Trước ngay cả tác phẩm của Tổ Bồ-đề Đạt Ma là Tuyệt Quán Luận (Đạt Ma Tổ Sư Luận). Nhưng Bát Nhã Tâm Kinh do Long Thọ viết và Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng thì tại sao không gọi là luận mà lại gọi là kinh? Hiện nay, Phật giáo Nguyên thủy có đủ Ngũ Bộ Kinh Nikayas bằng tiếng Pali là: 1)Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) gồm 36 phẩm trong 3 phần. 2)Trung Bộ Kinh (Majjhima) gồm 153 phẩm. 3)Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) gồm 56 chương xếp theo từng loại chủ đề. 4)Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara) các phẩm đánh số theo thứ tự các con số. 5)Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) gồm 15 kinh trong đó có kinh Pháp Cú và các bài kệ của tăng ni đã đạt thánh quả A la hán. Các kinh này phát xuất từ nhiều bộ phái trước khi Nguyên thủy bị phân hóa, dù phần lớn vẫn được xem là Nguyên thủy. Phật giáo vào thời Nguyên Thủy chỉ có Kinh tạng và Luật tạng và truyền thống đó vẫn được lưu giữ sau hai lần kết tập kinh điển đầu tiên. Cho tới lần kết tập kinh điển lần thứ ba khoảng 250 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt thì Vi Diệu Pháp mới được giới thiệu và được xem như là luận tạng đầu tiên và sau đó có Thanh Tịnh Đạo. Cũng xin nhắc lại, vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài giảng dạy rải rác khắp mọi nơi ở Ấn Độ cho nên về sau chư Thánh tăng đem gom góp lại những bài pháp thoại đó và chú giải thêm nên gọi là Vi Diệu Pháp. Mặc dầu Vi Diệu Pháp được gọi là luận, nhưng đây là những lời dạy của Đức Phật. Trong khi đó, luận bên Phật giáo Đại thừa là những lời dạy, kiến giải của chư Tổ ở những thế hệ về sau chẳng hạn như Đạt Ma Tổ Sư Luận của Tổ Bồ Đề Đạt Ma…Mãi về sau ngài Vô Trước, Thế Thân chuyển một phần của Vi Diệu Pháp để thành lập riêng một hệ tư tưởng mới cho Phật giáo Đại thừa. Đó là Duy thức luận (Thành Duy thức). Nói chung các bộ kinh thuộc hệ Nguyên Thủy nói về Chân lý Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên chứa đựng trong ngũ bộ kinh Nikayas. Còn các bộ luật của Phật giáo Nguyên Thủy từ xưa đã có 5 bộ: Tứ Phần của Đàm-vô-đức, luật Thập tụng của Tát-bà-đa, luật Ngũ Phần của Di-sa-tắc-bộ, luật Giải Thoát của Ca-Diếp-di và luật Ma-ha-tăng-kì của Ma-ha-tăng-kì. Bây giờ, viết bằng tiếng Phạn (Sanskrit) có kinh tương đương với Ngũ Bộ Kinh Nikayas là kinh A Hàm (Agamas), được biên tập khoảng 5 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt. Sau đó kinh A Hàm được dịch sang chữ Hán. Agamas có nghĩa là truyền thừa. Nguyên bản tiếng Phạn đã mất dấu tích vì bị đạo quân Hồi giáo hũy diệt. Nhưng các bản dịch chữ Hán, chữ Nhật, chữ Tây Tạng vẫn còn. 1)Trường A Hàm (Dirgha-Agama) (30 kinh) tương đương với Trường Bộ Kinh (Pali). 2)Trung A Hàm (Madhyamagama) gồm 222 kinh, tương đương với Trung Bộ Kinh. 3)Tạp A Hàm (Samyuktagama) gồm 1361 kinh, tương đương với Tương Ưng Bộ Kinh. 4)Tăng Nhất A Hàm (Ekottarragama) gồm 481 kinh tương đương với Tăng Chi Bộ Kinh. 5)Ksudraka-Agama tương đương với Tiểu Bộ Kinh. Trong khi đó, kinh điển Phật giáo Đại thừa có rất nhiều, nhưng đại để cũng thuộc về năm loại chính sau đây: 1)Bát Nhã (Prajnaparamita – Perfection of Wisdom) gồm trên 600 quyển mà Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra) là cốt tủy và kinh Kim Cang là kinh rút gọn lại. Học giả Tây phương gọi Bát Nhã là The Mother of all Mothers. 2)Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka-Flower Ornament) có ba bộ lớn mà một bản có tên là Gandavyuha (World Array Sutra). 3)Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti Sutra) nhấn mạnh vai trò của cư sĩ Bồ-tát Duy Ma Cật. 4)Kinh Đại Niết Bàn (Nirvara-Parinivara) diễn tả lại những ngày cuối cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập diệt. 5)Kinh Pháp Hoa (Sadharma pundarila – The Lotus Sutra), Kinh Lăng Già (Lankavatara) và Kinh A Di Đà hay Vô Lượng Thọ (Sukhavati –vyuha). Mặc dù kinh điển chỉ được thực hiện bằng chữ viết lần đầu tiên sau lần kết tập kinh điển lần thứ tư khoảng năm 70 trước công nguyên nghĩa là gần trên 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Tuy thế mức độ khả tín của Ngũ Bộ Kinh Nikayas (Pali) tương đối khá cao có thể nói trên 95% cho dù trong quá trình truyền miệng qua nhiều thế hệ thì thế nào cũng có chuyện sai lạc ít nhiều, tam sao thất bản là chuyện thường. Trong khi đó, mức độ khả tín của kinh điển Đại thừa trầm trọng hơn nhiều. Vì sự tiêu hoại những tu viện lớn ở Ấn Độ bởi người Hồi giáo nên kinh điển Đại thừa bản gốc không còn dấu tích ở Ấn Độ mà chỉ có các bản dịch ở Tây Tạng hay ở Trung Hoa. Ngay cả giới luật cũng sai khác rất nhiều bởi vì lúc khởi nguyên, đoàn thể tăng già Đại thừa chưa được thành lập nên chưa có giới luật. Về sau, khi các đoàn thể tăng già được thành lập như ở tu viện Nalanda, Vikramasila, giới luật mới dần dần được thiết lập. Dựa theo học giả Mizuno, kinh Bát Nhã tương truyền là do sư Long Thọ chế biến từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên rồi sau đó những kinh điển khác như Pháp Hoa cũng lần lượt ra đời. Ở Ấn Độ sự tranh chấp giữa Nguyên thủy và Đại thừa có phần quyết liệt vì Nguyên thủy cho rằng Đại thừa đem những tư tưởng tín ngưỡng, thờ đa thần của Ấn Độ giáo vào để phá hoại giáo pháp chính thống của Đức Phật vốn không hề có tín ngưỡng. Nhắc lại, một nguyên nhân lớn lót đường cho sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ là Ấn Độ giáo (Hindu là hậu thân của đạo Bà la môn) đã thần thánh hóa Đức Phật và họ còn đưa ra một số thần và nữ thần Ấn Độ giáo vào làm các vị thần Phật giáo dưới dạng những Bồ-tát làm cho Phật giáo không còn khác biệt với các thần thánh của Ấn Độ giáo. Chính điều này đã xóa tan sự khác biệt giữa hai tôn giáo và họ chứng minh rằng Phật giáo chỉ là một tông phái của Ấn Độ giáo. Nhưng ở Trung Hoa, đoàn thể tăng già lại chấp nhận kinh điển Đại thừa như phản ảnh lời dạy chân thật của Đức Phật mà không hề có nghi vấn dựa theo tiến trình phát triển lịch sử. Phật giáo Đại thừa Trung quốc không dựa theo giới luật Nguyên thủy mà dựa vào kinh Phạm Võng, một kinh được xem như là tác phẩm của Trung Hoa. Mizuno viết tiếp:” Ở Trung Hoa có một số tăng như Huệ Tạo, T’an Le và Seng Yuan chỉ trích những kinh Bát Nhã, kinh Pháp Hoa và kinh Đại Bát Niết Bàn nhưng các sư này bị bịt miệng ngay, không cho phép nói lên sự thật”. Nhắc lại, Bản Khai Nguyên Thích Giáo Lục do ngài Trí Thăng biên soạn năm 730 sau công nguyên là bản mục lục ghi lại tất cả rất chi tiết những kinh được dịch từ nguyên bản tiếng Phạn sang chữ Hán là 1076 kinh. Trong đó có đến 392 là kinh giả và 14 kinh khác có nguồn gốc đáng nghi ngờ. Như thế số kinh giả và không đáng tin cậy đã chiếm đến một phần ba. Nếu con số nêu trên là đúng thì kinh điển Đại thừa thật sự có vấn đề. Để có một ý tưởng rõ ràng về chân hay giả, hãy quay về nghe lại những lời Đức Phật dạy trong kinh Kalama rằng: "Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành". Do đó muốn tự mình nhận biết kinh nào phát xuất từ kim khẩu, kinh nào do người sau sáng chế thì chỉ có một con đường duy nhất là nghiên cứu đọc kỹ lại Ngũ Bộ Kinh NiKayas (hoặc toàn bộ Kinh A Hàm) rồi so sánh với những kinh điển Đại thừa. Nếu giáo lý nào không có trong Ngũ Bộ Kinh thì phần đó được chư Tổ thêm vào ở những thế hệ về sau. Mặc dù chư Tổ có những kiến giải rất thâm sâu về thế giới siêu hình về vũ trụ, nhưng kiến giải của chư Tổ không thể nào so sánh với trí tuệ Chánh Biến Tri của Đức Phật được. Bằng chứng là cần trải qua nhiều thế kỷ và nhiều thế hệ, những tư tưởng về thế giới siêu hình Như Lai tạng và A lại da thức mới được hoàn chỉnh. Tuy vậy cho đến ngày nay những tư tưởng này vẫn chưa đồng nhất về lý thuyết cũng như cách hành trì. Ngược lại chân lý cứu khổ do Đức Phật nói ra cách nay trên 2500 năm lúc nào cũng đúng, ở đâu cũng đúng, bất cứ ai cũng có thể áp dụng được, không có gì huyền bí cả. Giáo lý Đức Phật là đơn giản, không phức tạp, dễ áp dụng, nhưng thực hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không dễ đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly những thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly những tham vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện…Nói chung, hành giả phải viễn ly cho hết những dục vọng tham-sân-si, tẩy sạch hết tập khí ngã mạn. Càng viễn ly thì con người càng gần với an lạc thanh tịnh Niết bàn. Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì Ngài thấy biết như thế, nếu Đức Phật là đấng thần linh thì Ngài chì cần niệm “Úm ba di bát nhị hồng” rồi phảy cái phất trần thì thế gian làm gì còn đau khổ. Biết đời là bể khổ, con người lặn hụp trong biển trầm luân, nhưng chính Ngài không thể hóa giải nỗi khổ của chúng sinh mà mỗi người phải tự mình giải thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau mà giáo lý Đức Phật chính là tấm hải đồ giúp chúng sinh đến được bờ an lạc. Trong lịch sử của Phật giáo liên quan đến kinh điển cho hậu thế, chúng ta thấy có những lần đại hội như sau: 1)Thời kỳ kết nạp thứ nhất: Đức Phật vừa mới nhập diệt, một số phàm tăng như Subhada đã có những thái độ và lời bất kính:” "Này các bạn! Tại sao các vị thương tiếc nhiều đến Đức Phật làm chi, Ngài đã viên tịch rồi thì chúng ta về sau sống thoải mái hơn lúc trước nhiều, không còn nghe những lời khuyên răn trách cứ nữa: 'Hãy như thế này, hãy như thế kia ...'. Kể từ hôm nay chúng ta muốn làm gì thì làm, không còn bị ràng buộc bởi các giới luật, vì Đức Phật đã viên tịch rồi". Tôn giả Ca Diếp nghe qua rất xót xa và lo ngại cho tiền đồ của Phật giáo. Với tư cách là đệ nhất “Hạnh đầu đà” , Tôn giả Ca Diếp cùng các ngài Kiều Trần Như, Phú Lâu Na, A Na Luật…không muốn đạo pháp mai một về sau nên đứng ra triệu tập một đại hội gồm 500 vị A la hán ở thành Vương Xá ba tháng sau khi Đức Phật nhập Niết bàn với sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A la hán chỉ trừ tôn giả A Nan. Lúc đó, tôn giả A Nan đang ở tại thành Tỳ Xá Ly, ngày đêm thường thuyết pháp cho tứ chúng. Mọi người lui tới nghe pháp đông đúc chẳng khác gì lúc Phật còn tại thế. Lúc ấy cũng tại đây, có một Tỳ kheo người xứ Bạt Kỳ đang ngồi thiền trên lầu, vì không khí ồn ào không thể tham thiền nhập định, bèn quán chiếu xem A Nan đã giác ngộ hay chưa, thì thấy rằng A Nan còn ở địa vị hữu học, liền đến chỗ A Nan, đọc lên bài kệ: "Ngồi dưới cây chỗ vắng, Tâm hướng đến Niết bàn. Thiền định, chớ phóng dật, Nói nhiều có ích chi?" A Nan nghe vị Tỳ kheo ấy đọc kệ như vậy, lại biết việc ngài Ca Diếp không cho mình tham dự đại hội kết tập kinh điển, nên đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm tinh tấn siêng năng đi kinh hành, mong cầu được giải thoát, nhưng vẫn chưa đạt được. Đến lúc nửa đêm, thân thể mệt mỏi tột cùng, tôn giả bèn có ý định nằm nghỉ một chút nên liền nghiêng đầu xuống gối. Nhưng khi đầu vừa chấm gối thì bỗng dưng dứt hết lậu hoặc, có giải thoát. Tôn giả Ca Diếp chọn thành Vương Xá làm nơi kết tập tại vì ở đây có đầy đủ các phương tiện và thực phẩm. Bấy giờ, 500 vị A La Hán liền đến thành Vương Xá. Họ chọn thạch động Satttapanna trên núi Vebhara trong thành Vương Xá (Rajagaha) làm địa điểm kết tập. Sau đó chư Thánh hiền Tăng cùng nhau kéo đến thành Rajagaha và yêu cầu vua A xà Thế giúp đở bằng cách cho nới rộng 18 Tăng đường cho chư vị kết tập có chỗ nghỉ ngơi. Thế rồi, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả Ưu Ba Ly kết tập luật tạng, và được đại chúng chấp thuận. Ca Diếp bắt đầu hỏi Ưu Ba Ly: Giới nào Phật chế trước nhất, chế tại đâu, người nào sai phạm, phạm về tội gì.... Ư Ba Ly trình bày rằng: Phật chế giới dâm trước nhất, do Tu Đề Na (Sudinna) vi phạm đầu tiên... Một người hỏi, một người đáp và cuối cùng hỏi lại đại chúng, đại chúng cũng hoàn toàn đồng ý với sự trình bày của tôn giả Ưu Ba Ly. Công việc này kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất, gồm đủ cả giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và được đặt tên là Bát thập tụng luật (Bộ luật được đọc đến 80 lần). Sau đó, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan kết tập kinh tạng và cũng được đại chúng đồng ý. Tôn giả A Nan lần lượt kết tập các kinh sau đây: Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng Kỳ Đà, Sa môn quả, Phạm Động và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư thiên và nhân loại. Những kinh dài kết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm. Những kinh trung bình kết tập thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. Ngoài ra, tập hợp các kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng. 2)Thời kỳ kết tập thứ hai: Khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, có nhóm tỳ kheo (phàm tăng) ỏ thành Vajji thường xuyên nhận cúng dường bằng vàng bạc, châu báu từ chư thiện nam tín nữ. Khi đó, có một vị Thánh Tăng tên là Yassa từ Kosambi đến đây chứng kiến được nên liền triệu tập một đại hội để khiển trách các Tỳ kheo đó. Họ tập họp 60 vị A la hán và suy tôn ngài Revata, một bậc thánh tứ quả làu thông Phật ngôn làm chủ tọa. Nhóm Tỳ kheo ở thành Vesali không hành trì 10 điều học do Đức Phật ban hành cho nên các vị Thánh Tăng tuyệt đối cấm các vị Tỳ kheo đó không được hành động sai lầm nữa. Đó là không được giữ muối riêng, không được ăn trái giờ, không được ăn nhiều lần trong một ngày, không được uống rượu, không cất giữ vàng bạc cho cá nhân… 3)Thời kỳ kết tập thứ ba: xảy ra sau khi Đức Phật nhập Niết bàn 218 năm (325 năm trước Tây lịch), Hoàng Đế A Dục triệu tập hơn 1000 vị Đại trưởng lão tại thành Hoa Thị (Pataliputra) dưới quyền chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Tứ Đế Tu (Moggaputta Tissa). Lý do kết tập là vì các ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ Tăng đoàn làm cho Tăng chúng bất hòa và Phật pháp trở nên hổn loạn. Sau 9 tháng làm việc, hội nghị đã hoàn thành công tác kết tập kinh điển và còn chỉnh đốn Tăng giới, bài trừ những hàng Tu sĩ phạm trai, phá giới, vô kỷ luật. 4)Thời kỳ kết tập lần thứ tư: Khoảng 400 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, vua Cà Ni Sắc Ca (Kaniska) đã triệu tập 500 vị Hiền Thánh Tăng (A la hán) họp tại thành Ca Thấp Di La để kết tập Kinh điển dưới quyền chủ tọa của hai ngài Hiếp Tôn Giả và Thế Hữu (Vasumitra). Vua Ca Nị Sắc Ca sai thợ đúc đồng đỏ thành lá mỏng để chép lại ba bộ luận: 1)Bộ luận “Ưu Ba Đề Xá” gồm 10 vạn bài tụng dùng để giải thích Kinh tạng. 2)Bộ luận “Tì Nại Da Tì Bà Sa” cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích Luật tạng. 3)Bộ luận “A Tì Đạt Ma Tì Bà Sa” cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích Luận tạng. Như vậy ba bộ luận gồm 30 vạn bài tụng và có 9,600,000 lời giải thích đầy đủ ba tạng giáo điển. Sau khi hoàn tất, nhà vua sai đem cất vào trong hang đá, xây tháp lên trên để cúng dường, không cho ai mang ra khỏi lãnh thổ. Nếu ai muốn học tập nó thì phải đến đó mà đọc. Tóm lại, ba kỳ kết tập đầu chưa cần đến sự biên chép, nghĩa là chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ nào là của Đức Phật đã nói ra, hay xét cho những ý nghĩa nào là đúng với chánh pháp. Cho đến kỳ kết tập thứ tư thì mới dùng đến văn tự để biên chép thành sách vở. Trong sự biên chép nầy, chư tăng chia làm hai phái: phái nam thì ghi bằng văn Pali, còn phái bắc thì chép lại bằng văn Phạn. Ngoài bốn lần kết tập kinh điển ở trên của Phật giáo Nguyên thủy, dần theo thời gian cũng có thêm vài lần nữa tổ chức tại Miến Điện vào năm 1871 cho lần kết tập lần thứ 5 và năm 1954 cho lần kết tập lần thứ sáu. Trong khi đó, Phật giáo Đại thừa chỉ có một lần kết tập kinh điển tại A Phú Hản vào khoảng 500 năm sau khi Phật nhập Niết bàn để kếp tập toàn vẹn lại bốn bộ A Hàm: 1)Trường A Hàm (Dirgha-Agama) (30 kinh) tương đương với Trường Bộ Kinh (Pali). 2)Trung A Hàm (Madhyamagama) gồm 222 kinh, tương đương với Trung Bộ Kinh. 3)Tạp A Hàm (Samyuktagama) gồm 1361 kinh, tương đương với Tương Ưng Bộ Kinh. 4)Tăng Nhất A Hàm (Ekottarragama) gồm 481 kinh tương đương với Tăng Chi Bộ Kinh. Sau đó, tất cả các kinh điển khác như Kinh A Di Đà, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Địa Tạng…đều do chư Tổ viết về sau và không có một kỳ kết tập nào để duyệt qua hay chấp thuận, ngay cả không có một đại hội của chư Tăng nào để đồng thuận rằng tất cả những kinh điển đó là do những lời giảng của Đức Phật. Nhắc lại, mỗi lần kếp tập kinh điển thì trong đại hội phải có ít nhất từ 500 cho đến 1000 vị Thánh tăng hay trưởng lão để kiểm nhiệm từng câu, từng bài giảng và thời gian làm việc có thể kéo dài từ một năm cho đến vài năm mới hoàn tất. LỜI TÁN THÁN ĐỨC PHẬT Cuối cùng chúng tôi xin trích dẫn lời ca ngợi Đức Phật của học giả H. G. Wells như sau: “Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là con người giản dị, có lòng nhiệt thành, một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống thực, một con người như mọi người, chứ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyện hoang đường. Ngài cũng ban cho nhân loại lời khuyên bảo có tánh cách phổ thông, nhiều quan niệm tân tiến và đạo đức của thế hệ tân thời đều tương hợp với giáo lý ấy”. Đại Đức Sri Radhakrishman thì nói rằng: “Nơi Đức Phật Thích Ca chúng ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người Đông phương, và ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ một vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng lên một hệ thống tôn giáo vô cùng thâm cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới, Ngài còn là kết tinh của người thiện trí. Đứng về phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và tinh thần minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử”. Thêm nữa, chính thủ tướng Nehru tuyên bố rằng: “Nếu bất kỳ vấn đề nào phải được xem xét, thì vấn đề ấy phải được xem xét một cách hài hòa an lạc và dân chủ như phương pháp mà Đức Phật đã dạy”. Và ông nói thêm:”Có lẽ không thời điểm nào trong lịch sử của nhân loại mà thông điệp về hòa bình của Ngài lại cần thiết hơn cho nhân loại đang khổ đau và điên cuồng như thế giới hiện nay”. Ngay cả học giả Hồi giáo Abdul Atahiya nói rằng:” Đức Phật không phải là tài sản riêng cho giới Phật tử. Ngài là tài sản của toàn thể nhân loại. Giáo pháp của Ngài dành cho tất cả mọi người. Mọi tôn giáo, được ra đời sau Đức Phật, đã mượn nhiều ý tưởng hay đẹp từ Đức Phật”. Nhà đại văn hào Aldous Huxley nói rằng:”Duy nhất trong tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, Phật giáo tiến hành trên con đường của mình mà không gây sát hại, hành hạ, cấm đoán, kiểm duyệt hoặc tìm tòi soi bói”. Chính Gandhi tán thán Đức Phật:”Bằng đức hy sinh rộng lớn của Ngài, và bằng phẩm hạnh thanh tịnh vô nhiễm của đời Ngài, Ngài đã ghi tạc lên trên Ấn Độ giáo những dấu vết không bao giờ phai mờ, và đối với bậc thầy vĩ đại ấy, Ấn Độ giáo còn mang một mối nợ phải được tri ân muôn đời”. Ngay cả nhà bác học Albert Einstein cũng nói:”Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của hoàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học.Tôn giáo ấy phải bao quát cả hai phương diện tự nhiên và siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó. Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo cũng không cần từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khỏi khoa học”. Một triết gia người Úc là Schopenhauer phát biểu rằng:”Phật giáo là một tôn giáo cao cả nhất và là một trong những tia sáng vĩ đại nhất không chỉ riêng cho Châu Á mà cho khắp toàn cầu”. Và sau đây chúng ta hãy nghe tiến sĩ Edward Conze nói về Phật giáo:”Tất cả mọi người sống ở Á Châu đều có thể hãnh diện về một tôn giáo không những có trước tôn giáo Tây phương cả hơn 500 năm mà còn có thể bành trướng và duy trì mà không cần dùng đến bạo lực và không hề bị oen ố bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo và thánh chiến”. Sau cùng Tiến sĩ Oldenburg, một học giả người Đức phát biểu rằng:”Không phải chính Đức Phật đã giải thoát con người, nhưng Ngài dạy họ tự giải thoát cho chính mình bởi sự thức tỉnh của những lời dạy phát sinh từ ánh sáng trí tuệ của chính họ”.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật |