Huyền Thoại Bồ Đề Đạt Ma

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 12418)

BẠT 
HUYỀN THOẠI BỒ ĐỀ ĐẠT MA

"Thiếu Thất cửu niên vô nhất ngữ"

Huệ Trung Trần Quốc Tảng

Tổ Đạt Ma cỡi sóng qua Đông Độ. 
Tổ Đạt Ma vào đất Ngụy, đường đường như một kiếm khách chốn hải tần. 
Tổ Đạt Ma "đơn đao trực nhập" triều đình Lương Võ Đế, nói pháp như chuyển sóng. 
Tổ Đạt Ma chín năm trầm hùng ngồi nhìn vách đá chùa Thiếu Lâm. 
Tổ Đạt Ma kỳ diệu ban pháp an tâm. 
Tổ Đạt Ma cỡi bè lau về Thiên Trúc. 
Tổ Đạt Ma xách một chiếc dép phi hành trên ngọn Thông Lãnh. 
Tổ Đạt Ma... và Tổ Đạt Ma... 

Bao nhiêu câu chuyện truyền kỳ kết hào quang đưa nhà sư mắt biếc đất Hồ (1) vào huyền sử. 

 Từ Tung Sơn, sừng sững bên vách đá chùa Thiếu Lâm, bóng người ngả dài suốt lịch sử Đông phương như một tượng trưng thuần túy của Đạo. Ngót mười lăm thế kỷ, lòng người còn nghe đồng vọng tiếng Người nói; chốn già lam còn nghe vang dội bước Người đi. 

Người đi qua không gian, hiển hiện như chưa từng có. Tổ Đạt Ma đi qua không gian, hiển hiện như chưa từng không. Người đi thẳng vào sự thật, dẫm nát dư luận. Người đi thẳng vào lòng người, không mặt nạ. 

Đối với Người, sự thật là sự thật, không được trả giá. Trả giá với sự thật là ký kết với ma. Con người đang đi xuống quá rồi, thế đạo đang nghiêng ngửa giữa sắc tướng, cần cấp thời chận đứng đà tuột dốc; cần vươn mình mở lấy một con - đường - không - con - đường, cần nhảy thẳng vào tâm điểm của cuộc sống, của giác ngộ. Căn bệnh đã quá trầm trọng, cần bạo tay thọc thẳng mũi dao vào tròng ung thư. Trong tinh thần vô úy ấy, Người đã thét giữa những con người bé nhỏ chúng ta chơn lý tối hậu: quách nhiên vô thánh

Từ huyền sử, Người trang nghiêm tô lại khung đời bằng nét đạo tâm linh.

Sống là đạo, ngoài ra không có đạo nào khác. Đạo nào khác đều tìm thánh bỏ phàm, đều ham ngộ ghét mê, đều bỏ đời cầu đạo, đều tự trói buộc mình: 

"Bất dữ phàm thánh đồng triền, 
Siêu nhiên danh chi viết Tổ" 
(Chẳng cùng phàm thánh sánh vai, 
Vượt lên mới gọi là Tổ).

Cho nên bất cứ phương tiện nào của cuộc sống cũng là đạo. Bắt nguồn tự vách núi Tung Sơn, đạo sống Thiền thấm nhuần khắp giải đất Á Đông, nung sanh lực cho mấy ngàn năm văn hóa. Cho nên uống trà cũng là đạo, trà đạo: trà thiền nhất vị Võ thuật cũng là đạo, nhu đạo: đạo lấy mềm thắng cứng. Cắm hoa, viết chữ, bắn cung cũng là đạo, đạo luyện phép vô tâm, để cho sự vật tự nó sắp xếp một cách viên mãn nhứt. Cho đến xách nước, bửa cũi cũng là đạo: 

Bửa củi là diệu dụng, 
Xách nước ấy thần thông. 
(Bàng Uẩn)

Mà rồi im lặng cũng là đạo nốt:: 

Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, 
Nói, im, động tịnh thể an nhiên.
(Huyền Giác)

Sau khi Tổ viên tịch, vấn đề giải thoát được nêu lên với tất cả tinh thành của hàng đệ tử. Người ta tự hỏi nhau: "Tổ truyền gì cho Huệ Khả? Bí quyết của pháp Phật là gì? Huyết mạch của đạo thiền là gì? Thực chất của giác ngộ là gì? v.v...". Bao nhiêu câu hỏi nóng hổi đặt dài theo bước chân người cầu đạo suốt mười lăm thế kỷ, và có thể đúc kết lại trong câu hỏi độc đáo sau đây của phép tu thiền:

 "Như hà nhị Tổ sư lai ý". 
(Ý nghĩa tối yếu của việc Tổ sư qua Tàu là gì?). 

Người ta mang câu hỏi sống chết ấy đến gõ cửa các thiền sư.

Đáp lại tấc lòng tinh thành ấy, người ta nhận được những câu trả lời quái dị như sau: 

Sư Hương Lâm nói: ngồi lâu thấm mệt. 
Sư Cửu Phong nói: một tấc lông rùa nặng chín cân. 
Sư Triệu Châu nói: Cây bách ở trước sân v.v... 

Lối nói ngược ngạo đó gọi là công án. Trong số 1.700 công án thiền, riêng về câu hỏi trên chiếm đến trên trăm câu, đủ biết tổ Đạt Ma luôn luôn có mặt ở khắp nẻo thiền. Nên một ông sư Phù Tang nói:

"Người nào lấy hư không làm giấy, lấy sóng trùng dương làm mực, lấy núi Tu Di làm bút, viết được năm chữ: Tổ Sư tây lai ý, thì sãi tôi xin trải tấm tọa cụ ra đảnh lễ dưới chân." 

Sở dĩ người nào hiểu được, chẳng hạn câu nói "bách ở trước sân" (đình tiền bách thọ tử) của Triệu Châu là cùng lúc hiểu được tất cả câu nói khác, tất cả đạo thiền, tất cả pháp Phật. Một công án là một hột bồ đề xâu chung với vô số hột khác thành một chuỗi bồ đề vô tận; cho nên đập bể một hột bồ đề là toàn xâu chuỗi bung ra; nắm được một công án là nắm trọn, là thông suốt tâm Phật ý Tổ.

Tuy nhiên, muốn hiểu được "ý nghĩa của Tổ sư qua Tàu" không phải suy luận mà được, cần phải sống chết với nó, mang nó trong thịt da như Tôn Hành Giả mang cái niệt kim cô quanh đầu. Khi Tôn về tròn xong công quả thì cái niệt đau khổ kia bỗng chốc hóa thành không; cũng vậy, khi người tìm đạo "quán" được một công án, thì công án ấy cũng như vô số công án khác, bỗng hóa thành vô nghĩa, thừa thải, như một trò đùa rẻ tiền. 

Dù vậy, suốt thời gian chưa quán được thì công án là một mũi tên oan nghiệt bắn thẳng vào mạng sống, nhổ không ra, muốn chết quách cũng không chết được. Đó là tâm trạng cùng quẩn, thai nghén cho biến cố ngộ đạo. Tâm trạng ấy được ví như tâm trạng của người: 

"Leo lên cây, miệng cắn vào một cành cây, hai tay buông thỏng giữa hư không, hai chân không bám vào đâu được. Tình cờ dưới gốc cây có người hỏi vọng lên: "Ý của Tổ sư qua Tàu là gì?". Người trên cây không trả lời thì không được, mà trả lời thì rơi xuống hốt xương". (theo Vô môn quan).

Người kể câu chuyện cổ quái trên đặt câu hỏi: Trong hoàn cảnh ấy, chính người đó phải làm sao?

 "Phải làm sao?" 

Đó là bí thuật của Thiền Đông độ, mà Đạt Ma là Sơ Tổ: một huyền thoại của muôn đời. 

GHI CHÚ:

(1) Bích nhãn Hồ Tăng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn