14. Phẩm Tu-di Sơn-đảnh Kệ Tán

10 Tháng Năm 201000:00(Xem: 20520)

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Đại-Sư Thật-Xoa-Nan-Đà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 – 1983

 

 PHẨM TU DI SƠN ĐẢNH KỆ TÁN
THỨ MƯỜI BỐN


 Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, từ ngoài trăm phật-sát vi-trần-số quốc-độ, mười-phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng một phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng vân tập đến. Mười đại Bồ-Tát là : Pháp-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, Thắng-Huệ Bồ-Tát, Công-Đức-Huệ Bồ-Tát, Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Trí-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát, Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát. Cõi nước của các ngài theo thứ-tự là : Nhơn-Đà-La-Hoa thế-giới, Ba-Đầu-Ma-Hoa thế-giới, Bửu-Hoa thế-giới, Ưu-Bát-La-Hoa thế-giới, Kim-Cang-Hoa thế-giới, Diệu-Hương-Hoa thế-giới, Duyệt-Ý-Hoa thế-giới, A-Lô-Hoa thế-giới, Na-La-Đà-Hoa thế-giới, Hư-Không-Hoa thế-giới. Chư Phật ngự trị nơi đó theo thứ tự là : Thù-Đặc-Nguyệt-Phật, Vô-Tận-Nguyệt Phật, Bất-Động-Nguyệt Phật, Phong-Nguyệt Phật, Thủy-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Nguyệt Phật, Tinh-Tú-Nguyệt Phật, Thanh-Tịnh-Nguyệt Phật, Minh-Liễu-Nguyệt Phật.

 Chư Bồ-Tát này đến đảnh-lễ chơn Phật, rồi tùy phương đến, đều riêng hóa hiện tòa sư-tử Tỳ-lô-giá-na-tạng mà ngồi kiết-già trên đó.

 Như chư Bồ-Tát vân tập đến đảnh núi Tu-Di nơi thế-giới này, thập-phương thế-giới cũng đều như thế cả, đến danh hiệu, quốc-độ và chư Phật cũng đồng.

 Lúc đó đức Thế-Tôn, từ nơi các ngón của hai chưn phóng trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp trong cung của Đế-Thích ở mười phương thế-giới, Phật và đại-chúng đều hiển hiện cả.

 Pháp Huệ Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

 Phật phóng tịnh quang-minh

 Thấy khắp tất cả Phật

 Đảnh núi Tu-Di-Vương

 Ở trong điện Diệu-Thắng.

 Tất cả Thiên-Đế-Thích

 Thỉnh Phật vào cung-điện

 Đều nói mười kệ hay

 Ca ngợi chư Như-Lai.

 Trong các đại hội ấy

 Bao nhiêu chúng Bồ-Tát

 Đều từ mười-phương đến

 Hóa tòa mà an-tọa.

 Bồ-Tát trong hội đó

 Danh hiệu đồng chúng tôi,

 Những cõi từ đó đến

 Danh-tự cũng vẫn đồng;

 Bổn-quốc chư Như-Lai

 Hồng-danh đều cũng đồng,

 Bồ-Tát nơi bổn Phật

 Tịnh tu hạnh vô-thượng.

 Đại chúng nên quan-sát

 Như-Lai tự-tại-lực

 Tất cả Diêm-Phù-Đề

 Đều nói Phật tại đấy.

 Chúng tinh-tấn nay thấy Phật

 Trụ nơi đảnh Tu-Di

 Thập-phương cũng như vậy

 Như-Lai tự-tại-lực.

 Trong mỗi mỗi thế-giới

 Phát tâm cầu phật-đạo

 Nương nơi nguyện như vậy

 Tu tập hạnh bồ-đề.

 Phật dùng nhiều thân hình

 Du hành khắp thế-gian

 Pháp-giới không chướng ngại

 Không ai trắc lượng được.

 Huệ-quang hằng chiếu khắp

 Đời tối đều trừ diệt,

 Tất cả không sánh bằng

 Thế nào lường biết được !

 Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

 Giả-sử trăm ngàn kiếp

 Thường thấy đức Như-Lai

 Chẳng y chơn-thật nghĩa

 Mà quán đấng Cùu-Thế,

 Người này chấp lấy tướng

 Thêm lớn lưới mê lầm

 Giam trói ngục sanh tử

 Đui mù, chẳng thấy Phật.

 Quan-sát nơi các pháp

 Đều không có tự-tánh

 Tướng nó, vốn sanh-diệt

 Chỉ là danh thuyết giả.

 Tất cả pháp vô-sanh

 Tất cả pháp vô-diệt

 Nếu hiểu được như vậy

 Chư Phật thường hiện tiền.

 Pháp-tánh vốn không tịch

 Vô-thủ, cũng vô-kiến

 Tánh không, tức là Phật

 Chẳng thể nghĩ lường được.

 Nếu biết tất cả pháp

 Thể tánh đều như vậy

 Người này thời chẳng bị

 Phiền-não làm nhiễm trước.

 Phàm phu thấy các pháp

 Chỉ chuyển theo tướng giả

 Chẳng rõ pháp vô-tướng

 Do đây chẳng thấy Phật.

 Đức Phật lìa ba thời

 Các tướng đều đầy đủ

 Trụ nơi vô-sở-trụ

 Cùng khắp mà bất-động.

 Tôi quán tất cả pháp

 Thảy đều được rõ ràng

 Nay thấy đức Như-Lai

 Quyết-định không nghi ngờ.

 Pháp-Huệ trước đã nói

 Như-Lai chơn-thiệt tánh,

 Tôi từ đó rõ biết

 Bồ-đề khó nghĩ bàn.

 Thắng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

 Như-Lai đại trí-huệ

 Hi-hữu không sánh bằng

 Tất cả những thế-gian

 Tư-duy chẳng đến được.

 Phàm-phu vọng quan-sát

 Chấp tướng chẳng đúng lý

 Phật lìa tất cả tướng

 Chẳng phải họ biết được.

 Kẻ vô-tri mê lầm

 Vọng chấp tướng ngũ-uẩn

 Chẳng biết chơn-tánh kia

 Người này chẳng thấy Phật.

 Rõ biết tất cả pháp

 Đều không có tự-tánh

 Hiểu pháp-tánh như vậy

 Thời thấy Lô-Xá-Na.

 Vì do tiền-ngũ-uẩn

 Có hậu-uẩn tương-tục

 Rõ biết nơi tánh này

 Thấy Phật khó nghĩ bàn.

 Ví như báu trong tối

 Không đèn thời chẳng thấy

 Phật-pháp không người nói

 Dầu huệ chẳng biết được.

 Cũng như mắt bị lòa

 Chẳng thấy màu xinh đẹp

 Như vậy tâm bất-tịnh

 Chẳng thấy các phật-pháp.

 Lại như mặt trời sáng

 Kẻ mù không thấy được

 Tâm không có trí-huệ

 Trọn chẳng thấy chư Phật.

 Nếu chữa hết bịnh lòa

 Bỏ lìa lòng tưởng sắc

 Chẳng thấy nơi các pháp

 Thời thấy được Như-Lai.

 Nhứt-Thiết-Huệ đã nói

 Chư Phật Bồ-Đề pháp

 Tôi nghe lời ngài nói

 Được thấy Lô-Xá-Na.

 Công-Đức-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

 Các pháp không chơn-thật

 Vọng chấp là chơn-thật

 Cho nên các phàm-phu

 Luân-hồi ngục sanh-tử.

 Nơi ngôn từ thuyết pháp

 Tiểu trí vọng phân-biệt

 Vì thế sanh chướng-ngại

 Chẳng rõ được tự-tâm.

 Chẳng rõ được tự-tâm

 Đâu biết được chánh-đạo

 Họ do huệ điên-đảo

 Thêm lớn mọi điều ác.

 Chẳng thấy các pháp không

 Hằng thọ khổ sanh-tử

 Người này chưa có được

 Pháp-nhãn thanh-tịnh vậy.

 Xưa kia tôi thọ khổ

 Vì tôi chẳng thấy Phật,

 Nên phải tịnh pháp-nhãn

 Xem kia chỗ đáng thấy.

 Nếu được thấy nơi Phật

 Thời tâm không chấp lấy

 Người này thời thấy được

 Pháp của Phật đã biết.

 Nếu thấy Phật chơn-pháp

 Thời gọi bực đại-trí

 Người này có tịnh-nhãn

 Hay quan-sát thế-gian.

 Không thấy chính là thấy

 Hay thấy tất cả pháp

 Nơi pháp nếu có thấy

 Đây thời là không thấy.

 Tất cả các pháp-tánh

 Không sanh cũng không diệt

 Lạ thay đấng Đạo-Sư

 Tự-giác hay giác-tha.

 Ngài Thắng-Huệ đã nói

 Pháp của Như-Lai ngộ

 Chúng tôi nghe Ngài nói

 Biết được Phật chơn-tánh.

 Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

 Nếu trụ nơi phân-biệt

 Thời hư thanh-tịnh nhãn

 Thêm ngu-si, tà-kiến

 Trọn chẳng thấy được Phật.

 Nếu rõ được tà-pháp

 Như thiệt chẳng điên-đảo,

 Biết vọng vốn tự chơn

 Thấy Phật thời thanh-tịnh.

 Có thấy, thời là nhơ

 Đây thời chưa phải thấy

 Xa lìa các kiến chấp

 Như vậy mới thấy Phật.

 Pháp ngôn-ngữ thế-gian

 Chúng-sanh vọng phân-biệt

 Biết thế đều vô-sanh

 Mới là thấy thế-gian.

 Nếu thấy 'thấy thế-gian'

 'Thấy' là tướng thế-gian

 Như thiệt đồng không khác

 Đây gọi người chơn-kiến.

 Nếu thấy đồng không khác

 Nơi vật chẳng phân-biệt

 Thấy này lìa phiền-não

 Vô-lậu được tự-tại.

 Chỗ chư Phật khai thị

 Tất cả pháp phân-biệt

 Đây đều chẳng thể được

 Vì pháp-tánh thanh-tịnh.

 Pháp-tánh vốn thanh-tịnh

 Vô-tướng như hư-không

 Tất cả không năng thuyết

 Người trí quán như vậy.

 Xa lìa nơi pháp-tưởng

 Chẳng thích tất cả pháp

 Đây cũng không chỗ tu

 Thấy được Đại-Mâu-Ni.

 Như ngài Đức-Huệ nói

 Đây gọi là thấy Phật;

 Chỗ có tất cả hạnh

 Thể-tánh đều tịch-diệt.

 Lúc đó Thiện-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

 Hi-hữu đại dũng-kiện

 Vô-lượng chư Như-Lai

 Ly-cấu tâm giải-thoát

 Tự độ hay độ người.

 Tôi thấy Thế-gian-Đăng

 Như thật chẳng điên-đảo

 Như trong vô-lượng kiếp

 Bực đủ trí chỗ thấy.

 Tất cả hạnh phàm-phu

 Đều mau về diệt tận

 Tánh nó như hư-không

 Nên nói là vô-tận.

 Người trí nói vô-tận

 Đây cũng không chỗ nói.

 Vì tự-tánh vô-tận

 Được có nan-tư tận.

 Trong chỗ nói vô-tận

 Không chúng-sanh được có

 Biết chúng-tánh như vậy

 Thời thấy Đại-Danh-Xưng.

 Không thấy nói là thấy

 Vô-sanh nói chúng-sanh

 Hoặc thấy, hoặc chúng-sanh

 Rõ biết không thể-tánh.

 Năng-kiến cùng sở-kiến

 Kiến-giả đều khiển trừ,

 Chẳng hoại nơi chơn-pháp

 Người này rõ biết Phật.

 Nếu người rõ biết Phật

 Và pháp của Phật nói

 Thời hay chiếu thế-gian

 Như Phật Lô-Giá-Na.

 Chánh-giác khéo khai thị

 Đạo một pháp thanh-tịnh,

 Đại-Sĩ tinh-tấn huệ

 Diễn nói vô-lượng pháp.

 Hoặc có hoặc không có

 Tưởng niệm này đều trừ

 Như thế thấy được Phật

 An-trụ nơi thiệt-tế.

 Lúc đó Trí-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

 Tôi nghe pháp tối-thắng

 Liền sanh trí-huệ quang

 Chiếu khắp mười-phương cõi

 Đều thấy tất cả Phật.

 Trong đây không chút vật

 Chỉ có danh-tự giả

 Nếu chấp có ngã nhơn

 Thời là vào đường hiểm.

 Những phàm-phu chấp trước

 Chấp thân là thiệt có

 Phật chẳng phải sở-thủ

 Họ trọn chẳng thấy được.

 Người này không huệ-nhãn

 Chẳng thể thấy được Phật

 Ở trong vô-lượng kiếp

 Lưu chuyển biển sanh-tử.

 Hữu-tránh nói sanh-tử

 Vô-tránh là niết-bàn

 Sanh-tử và niết-bàn

 Cả hai chẳng nói được.

 Nếu theo danh-tự giả

 Chấp lấy hai pháp này

 Người này không đúng thật

 Chẳng biết Phật diệu-đạo.

 Nếu móng tưởng như vầy :

 'Đây Phật, đây tối-thắng'

 Điên-đảo chẳng phải thật

 Chẳng thấy được Chánh-giác.

 Biết được thật thể này

 Tướng chơn-như tịch-diệt

 Thời thấy đấng Chánh-Giác

 Vượt khỏi đường ngữ-ngôn.

 Ngôn ngữ nói các pháp

 Chẳng hiển được thiệt-tướng

 Bình-đẳng mới thấy được

 Như pháp, Phật cũng vậy.

 Thời quá-khứ chư Phật

 Vị-lai và hiện-tại

 Dứt hẳn gốc phân-biệt

 Thế nên gọi là Phật.

 Chơn-Thật-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

 Thà thọ khổ địa-ngục

 Được nghe hồng-danh Phật

 Chẳng thích vô-lượng vui

 Mà chẳng nghe danh Phật.

 Sở-dĩ nơi thời xưa

 Chịu khổ vô-số kiếp

 Lưu chuyển trong sanh-tử

 Vì chẳng nghe danh Phật.

 Với pháp chẳng điên-đảo

 Mà hiện chứng như thật

 Lìa các tướng hòa hiệp

 Gọi là Vô-Thượng-Giác.

 Hiện chẳng phải hòa hiệp

 Khứ, lai cũng như vậy

 Tất cả pháp vô-tướng

 Đây là chơn-thể Phật.

 Nếu quán được như vậy

 Các pháp nghĩa thậm-thâm

 Thời thấy tướng chơn thật

 Pháp-thân của chư Phật.

 Nơi thật thấy chơn-thật

 Chẳng thật thấy chẳng thật

 Hiểu rốt ráo như vậy

 Cho nên gọi là Phật.

 Phật-pháp chẳng giác được

 Rõ đây gọi 'giác pháp'

 Chư Phật tu như vậy

 Một pháp bất-khả-đắc.

 Biết do một nên nhiều

 Biết do nhiều nên một

 Các pháp không chỗ tựa

 Chỉ do hòa hiệp khởi.

 Không năng-tác, sở-tác

 Chỉ từ nghiệp tưởng sanh

 Tại sao biết như vậy

 Vì khác đây không có.

 Tất cả pháp vô-trụ

 Định-xứ bất-khả-đắc

 Chư Phật trụ nơi đây

 Rốt ráo không dao động.

 Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

 Đấng đại-thừa vô-thượng

 Xa lìa tưởng chúng-sanh

 Không có ai hơn được

 Nên hiệu là Vô-Thượng.

 Chỗ chư Phật đã được

 Vô-tác, vô-phân-biệt

 Thô-thần-thông vô-sở-hữu

 Vi-tế cũng như vậy.

 Cảnh chư Phật sở-hành

 Trong đó không có số

 Là chơn-pháp của Phật.

 Như-Lai quang chiếu khắp

 Diệt trừ những tối-tăm

 Quang này chẳng có chiếu

 Cũng chẳng phải không chiếu.

 Nơi pháp không chỗ chấp

 Không niệm cũng không nhiễm

 Không trụ không xứ sở

 Chẳng hoại nơi pháp-tánh.

 Trong đây không có hai

 Cũng lại không có một

 Bực đại-trí thấy đúng

 Kheó an-trụ thật lý.

 Trong không, không có hai

 Không hai cũng như vậy

 Tam-giới tất cả không

 Là chỗ thấy chư Phật.

 Phàm-phu không hay biết

 Phật khiến trụ chánh-pháp

 Các pháp vô-sở-trụ

 Ngộ đây thấy tự thân.

 Chẳng thân mà nói thân

 Chẳng khởi mà hiện khởi

 Không thân cũng không thấy

 Là Phật-thân vô-thượng.

 Như ngài Thật-Huệ nói

 Chư Phật diệu pháp-tánh

 Nếu người nghe pháp này

 Sẽ được thanh-tịnh-nhãn.

 Lúc đó Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

 Vĩ-đại ! quang-minh lớn

 Bực vô-thượng dũng kiện

 Vì lợi ích quần-sanh

 Mà xuất hiện thế-gian.

 Phật dùng tâm đại-bi

 Quan-sát khắp chúng-sanh

 Thấy ở trong ba cõi

 Luân-hồi thọ nhiều khổ.

 Chỉ trừ đấng Chánh-Giác

 Đấng Đạo-Sư đủ sức

 Tất cả các Trời Người

 Không ai cứu hộ được.

 Nếu chư Phật Bồ-Tát

 Chẳng xuất hiện thế-gian

 Thời không một chúng-sanh

 Có thể được an-lạc.

 Như-Lai đẳng-chánh-giác

 Và các chúng Thánh Hiền

 Xuất hiện ở thế-gian

 Cho chúng-sanh được vui.

 Nếu ai thấy Như-Lai

 Vì được lợi hành lớn

 Nghe hiệu Phật sanh tin

 Thời là tháp thế-gian.

 Chúng tôi thấy Như-Lai

 Vì được lợi ích lớn

 Nghe diệu-pháp như vậy

 Đều sẽ thành Phật-đạo.

 Chư Bồ-Tát quá-khứ

 Do thần-lực của Phật

 Được huệ-nhãn thanh-tịnh

 Rõ cảnh-giới chư Phật.

 Nay thấy Lô-Xá-Na

 Càng thêm thanh-tịnh-tính

 Phật-trí không ngằn mé

 Diễn thuyết chẳng thể hết.

 Thắng-Huệ Bồ-Tát thảy

 Và tôi Kiên-Cố-Huệ

 Trong vô-số ức kiếp

 Cũng nói chẳng thể hết.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Bảy 2018(Xem: 6326)
08 Tháng Năm 2018(Xem: 6808)
23 Tháng Giêng 2018(Xem: 7503)
23 Tháng Mười 2017(Xem: 5957)
Thủ Lăng Nghiêm nói cho đủ là Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Đời Đường ngài Bát Thích Mật Đế dịch kinh này từ Phạn văn sang Hán văn, gồm 10 quyển là hạt ngọc vô giá đối với các hành giả trong Tông môn, nhằm xiển minh tâm tính bản thể của mình. Vì vậy, tên Kinh này cũng là danh xưng thường gọi một thứ Chính định, đó là Chính định Thủ Lăng Nghiêm. Xưa nay trong tùng lâm lịch đại liệt Tổ đều ngưỡng mộ Kinh này và được lưu hành xuyên suốt thời không gian.
30 Tháng Tám 2017(Xem: 5998)
11 Tháng Tám 2017(Xem: 6577)