Quyển Thượng

25 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 12623)

QUI SƠN CẢNH SÁCH
Tỉnh Việt Đông, núi Đảnh Hồ, thầy Sa-môn Thích Hoằng Tán Tại Tham chú giải.
Kẻ môn nhân, thầy Tỳ-kheo hiệu Khai Huýnh làm lời ký.
Hòa Thượng Thích Khánh Anh dịch

Quyển Thượng

LỜI TỰ VĂN QUI SƠN CẢNH SÁCH

Giải thích từ câu, lời ký

Sanh tử cũng là việc lớn, vì cơn vô thường (chết) chóng mau! Thế, người học đạo, với mỗi giờ, mỗi phút phải lấy đó làm điều nhớ lo.

Ôi! Ngày tháng dễ trôi qua, bằng chẳng nhắc nhở lại cho thì, khi còn sống chẳng tu, đến lúc chết đem chi theo!?

Khốn nỗi, cứ mải miết theo cái thói đê hèn là, đã tham của cải, lại tham uống ăn, thực là khá hổ!

Chạnh vì tệ đoan ấy mà, buộc phải chép văn Qui Sơn Cảnh Sách đây ra đời vậy.

Tại núi Đảnh Hồ(1), Tổ Tại Tham Hòa thượng, Ngài khắp nêu đạo mầu, dạy bảo người đến học, cặn kẽ rất hậu, chỉ vẽ đủ điều.

Chợt một bữa nọ, đại chúng thỉnh cầu Tổ sư (Hoằng Tán) vạch chỉ tông thú của văn Qui Sơn Cảnh Sách.

Tổ Sư dùng cái trí huệ vô ngại phân rành, thỏa mãn được lòng khát vọng của đại chúng.

Nhân đó, đại chúng lại yêu cầu Tổ Sư chia ra từ khoa giải thích từ câu, làm cho ý chỉ văn Cảnh Sách được rỗng suốt.

Đối với văn Cảnh Sách, vô luận bực thượng triết hay trung lưu, đều có thể noi theo tu học, để đồng đến nơi đạo quả.

Người đệ tử bực thượng túc(2) của Tổ Sư là ông Thạch Tiễn Khai Huýnh, ghi những lời của Tổ Sư giảng diễn ngày trước, đem chú ký nơi sau mỗi bài. Như gấm thêm hoa, tựa dầu giúp sáng.

Thế là sách đây cả có sự lợi ích cho kẻ hậu học nên chẳng phải việc nhỏ vậy.

Phàm những người đọc sách đây như thấy được Tổ Qui Sơn mà, cũng như thấy được Tổ Tại Tham Hòa thượng cùng với Tổ Qui Sơn dầu khác miệng mà đồng tâm, năng xét đến “hết sức vì người” của Phật Tổ từ trước, để cùng đại chúng khuyên nhủ, nhắc nhở nhau.
Thuở xưa ngài Đại An thiền sư nói “Ta ở tại Qui Sơn suốt ba mươi năm từng chăn con thủy cổ ngưu(3), nay nó biến làm con lộ địa bạch ngưu(4), thường ở trước mặt, trọn ngày bày sờ sờ, đuổi cũng chẳng đi(5)”. Đấy, thực khá gọi năng tự siêng gắng lấy mình ấy vậy.
Ta nguyện vọng cho cả người học đạo trong thiên hạ đều lấy cái yếu sách của ngài Đại An thiền sư(6) đó để tự sách phát lấy tinh thần của mình.

Đệ tử Quảng Duệ
Viết tại chân núi Phong Ngu, tỉnh Hắc Long Giang, tháng Chạp, năm Canh Tý (1660), niên hiệu Thuận Trị (vua Thế Tổ), năm thứ 17 nhà Thanh.


CHÚ THÍCH
1. Núi Đảnh Hồ: Vị trí tại phủ Đoan Châu, nay là huyện Cao Yếu, tỉnh Quảng Đông. Trên đảnh núi có cái hồ, khi trời tạnh nắng hễ có luồng mây bao vận trên hồ thì mưa; đương lúc trời mưa mà có luồng mây vần phủ trên hồ thì tạnh nắng, nên gọi là Đảnh Hồ Sơn, hoặc Đảnh Hồ Tự và Khánh Vân Tự.

2. Thượng túc: Là danh từ mỹ xưng đối với đệ tử của người. Kinh Phật Thuyết Vô Úy Nữ nói “Bọn đây đều là đệ tử thượng túc (đệ tử lớn) của đức Thích-ca Như Lai”. Vương Bột Văn chép “Với bực thượng túc của Thiền sư, tay lãnh tụ trong pháp môn”.

3. Thủy cổ ngưu: Con trâu đen dưới nước, tức ám chỉ cái vô minh. Thủy: nước, bắc phương nhâm quí thủy, ký sắc hắc, nên thủy là nước màu đen, chỉ cho vô minh hắc nghiệp mà, gọi là con trâu đen, tức cũng là cái vọng tâm. Lại nước cũng ám chỉ là sông mê, bể khổ.

4. Con lộ địa bạch ngưu: Con trâu trắng (cò) trên bờ, tức tượng trưng cái giác tánh. Địa: đất, tức giác ngạn. Lại, cổ ngưu dùng nghĩa là kẻ đã cát ái từ thân, xuất gia bạch nghiệp chơn tu, như nói rằng cổ ngưu, bạch ngưu.

5. Đuổi cũng chẳng đi: Người xưa, một lần chứng là chứng mãi, một lần đắc là đắc luôn, không hề lui mất, vì vô minh đốn tận, giác tánh siêu nhiên, nên nói trọn ngày bày sờ sờ trước mặt, đuổi cũng chẳng đi.

6. Đại An thiền sư: Sách Truyền Đăng Lục nói “Ông Đại An thiền sư, người ở phủ Phước Châu, đến yết kiến Tổ Bá Trượng rằng “Người học đạo, muốn biết Phật thì, phải như thế nào là đúng?” Tổ dạy “Giống hệt cỡi trâu tìm trâu”. Sư hỏi “Sau khi biết rồi như thế nào?” Tổ dạy “Như người cỡi trâu về đến nhà”. Sư hỏi “Thỉ chung giữ gìn làm sao?” Tổ dạy “Tỷ như mục đồng cầm roi, dây chăn coi đó, chẳng cho nó xâm phạm lúa mạ của người ta”. Từ đó, Sư đã lãnh hội được diệu chỉ, lại chẳng phóng ý rông tìm. Ngày nọ, Sư lên giảng đường tự trần rằng “Đại An này, ở tại núi Qui ba mươi năm, đói thì ăn cơm của Qui Sơn, đại tiện trên chỗ phẩn của Qui Sơn, chẳng học thiền của Qui Sơn, chỉ giữ coi một con thủy cổ ngưu, nếu trâu nó đi lệch đường vào rau cỏ, thì kéo nó ra, hoặc nó xâm phạm lúa mạ của người thì quất roi, tập luyện đã lâu, khá thương đời sống của nó. Mà nay nó biến hóa ra con bạch ngưu trên đất gò, thường ở trước mặt, trọn ngày bày sờ sờ, dù đánh đuổi nó cũng chẳng chịu đi đâu”.

Con trâu là ý thức và sáu căn. Dây và roi là giới cấm. Coi trâu là giữ giới. Nghĩa là chẳng cho sáu căn và ý thức trú trước xâm phạm nơi lúa mạ sáu trần và tham lam phân biệt chấp trước này nọ…

BIỂU HUYỀN KHOA, MỤC
I- Đề mục phân hai:
I.A- Nhân
I.B- Pháp
II- Bổn văn phân hai:
II.A- Trường hàng
II.B- Trùng tụng
II.A- Trường hàng phân hai:
II.A.1- Giáo giới
II.A.2- Thị pháp
II.A.1- Giáo giới phân chín:
II.A.1.a- Nghiệp nhân quả khổ.
II.A.1.b- Sanh lão bệnh tử.
II.A.1.c- Sanh diệt thời tốc.
II.A.1.d- Vi tục nhập đạo.
II.A.1.e- Danh lợi thất đạo
II.A.1.h- Khải thị tam học.
II.A.1.k- Bất tu học quá.
II.A.1.l- Nghiệp quả thời thục
II.A.1.m- Sách lệ khuyến tu
II.A.2- Thị pháp phân ba:
II.A.2.a- Đạo hạnh
II.A.2.b- Thiền giáo
II.A.2.c- Kiết khuyến
II.A.2.a- Đạo hạnh phân sáu:
II.A.2.a1-Lập hạnh
II.A.2.a2- Trừng giới
II.A.2.a3- Cầu đạo
II.A.2.a4- Trạch hữu
II.A.2.a5- Kiết hối
II.A.2.a6- Tiềm tu
II.A.2.b- Thiền giáo phân hai:
II.A.2.b 1.Thiền học
II.A.2.b 2.Thiền lý
II.A.2.b1- Thiền học phân hai:
II.A.2.b1a- Thị pháp
II.A.2.b1b- Tán miễn
II.A.2.b2- Thiền lý phân hai:
II.A.2.b2a- Thị giáo
II.A.2.b2b- Giới miễn
II.A.2.c- Kiết khuyến phân năm:
II.A.2.c1- Khải phát
II.A.2.c2- Thị giáo
II.A.2.c3- khuyến miễn
II.A.2.c4- Hiển thị nhân quả
II.A.2.c5- Tự hành hóa tha
II.B- Trùng tụng phân ba:
II.B.1- Phiêu tụng đề
II.B.2- Tụng giáo giới
II.B.3- Tụng thị pháp
II.B.2- Tụng giáo giới phân mười một:
II.B.2.a- Hoán sắc
II.B.2.b- Thời tiết
II.B.2.c- Sanh diệt
II.B.2.d- Lưu chuyển
II.B.2.e- Ái thủ hữu
II.B.2.h- Hư sanh không lão
II.B.2.k- Vô minh hoặc
II.B.2.l- Khái thời mạng tốc
II.B.2.m- Hiện nhân hậu quả
II.B.2.n- Nhân quả sở do
II.B.2.o- Tuần hoàn bất tức
II.B.3- Tụng thị pháp phân bảy:
II.B.3.a- Y sư
II.B.3.b- Trạch pháp
II.B.3.c- Liễu vọng
II.B.3.d- Qui chân
II.B.3.e- Tương vong
II.B.3.h- Tịch chiếu
II.B.3.k- Song dẫn

 

QUI SƠN CẢNH SÁCH
Thích nghĩa từ câu và lời ký

QUYỂN THƯỢNG

Tỉnh Việt Đông, núi Đảnh Hồ, thầy Sa-môn Thích Hoằng Tán Tại Tham chú giải.

Kẻ môn nhân, thầy Tỳ-kheo hiệu Khai Huýnh làm lời ký.

Sắp giải thích văn Cảnh Sách đây, phân làm hai khoa lớn: Sơ, giải thích đề mục. Thứ, giải thích bổn văn.

 

GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC
Phân làm hai:
A- NHÂN
B- PHÁP
A- NHÂN, LÀ TỔ QUI SƠN

Đề mục có bốn chữ là Qui Sơn Cảnh Sách. Hai chữ Qui Sơn là người năng nói; hai chữ Cảnh Sách là pháp bị nói. Nhân, thì dùng tên núi làm xưng hô; pháp, thì lấy văn Cảnh Sách làm danh mục.

Với người mà dùng tên núi để xưng danh là như thế, vị trí núi đây ở về phía Tây Bắc quận Trường Sa, nhân Tổ Sư Linh Hựu trú trì tại đó, người đời vì tôn trọng Tổ, nên không dám gọi là Linh Hựu mà tôn xưng là Qui Sơn.

Pháp húy của Tổ Sư là Linh Hựu, họ ngoài đời là họ Triệu, người xuất thân tại đất Trường Khê, vịnh Phước Châu (Phước Kiến).

Năm lên mười lăm tuổi, xả tục xuất gia. Năm lên hai mươi tuổi thụ giới cụ túc. Chuyên tinh nghiên cứu các kinh điển Tiểu thừa, Đại thừa.

Năm lên hai mươi ba tuổi, qua tỉnh Giang Tây, tham yết Tổ Bách Trượng Đại Trí Hoài Hải thiền sư. Vừa một phen thấy, Tổ Bách Trượng cho vào tịnh thất hầu Tổ, thành thử được ở đầu lớp tham học.

Bữa nọ, lúc đứng hầu bên Tổ Bách Trượng, Tổ bảo Linh Hựu bươi lò lấy lửa; Linh Hựu bươi rồi thưa rằng không có lửa.

Tổ Bách Trượng tự đứng dậy đi bươi sâu tận đáy lò, có đặng chút lửa, gắp dở cao lên mà bảo rằng “Sư nói rằng không có lửa, chớ cái này là thứ gì?”

Sư Linh Hựu nhân đó mà được giác ngộ vào cái lý “không trung diệu hữu”, liền làm lễ để kính tạ và trình bày cái chỗ vừa giác ngộ ấy.

Tổ Bách Trượng dạy phân rằng “Đấy là mới tạm thời mà đã chia đường mê giác rồi.” Kinh nói “Muốn biết nghĩa Phật tánh, phải xem thời tiết nhân duyên, hễ nhân duyên đã đến như mê chợt ngộ, dường quên thoạt nhớ, mới biết là vật sở hữu (Phật tánh) của mình, chẳng từ ai cho được”. Nên Tổ Sư nói(1) “Ngộ liễu đồng vị ngộ” (Ngộ rồi đồng chưa ngộ(2)), vì không tâm cũng không pháp, chỉ là không còn các cái tâm phân biệt, nào là phàm, nào là Thánh, tâm pháp vô phân biệt ấy, xưa nay nguyên vẫn sẵn đủ. Chừ Sư đã được thế, khéo tự giữ gìn lấy”.

Sau đó, sư Linh Hựu sung lên chức Điển tọa.

Bấy giờ, có nhà cư sĩ, họ Tư Mã(3), tu hạnh đầu- đà(4), từ tỉnh Hồ Nam đến viếng Tổ Bách Trượng và trình bày rằng “Vừa rồi, con ở tỉnh Hồ Nam, có tìm đặng một quả núi, tên là Đại Qui, là chỗ ở của một ngàn năm trăm người thiện tri thức, vì địa linh tất sanh nhân kiệt như thế”.

Tổ Bách Trượng hỏi “Lão tăng qua trú trì đó được không?”

Tư Mã Đầu Đà thưa “Chẳng phải chỗ Hòa thượng ở”.

- Sao thế?
- Dẫu Hòa thượng ở đó, đồ chúng không đủ một nghìn, vì Hòa thượng là người xương (già), mà núi kia là thịt (trẻ).

Tổ Bách Trượng bảo thị giả kêu Thủ tọa(5) đến hỏi Tư Mã Đầu Đà rằng “Với núi kia, người này thế nào?”

Tư Mã Đầu Đà yêu cầu thầy Thủ tọa tằng hắng mấy tiếng và đi vài bước thử coi, rồi Tư Mã Đầu Đà nói “Chẳng thể đặng, vì nhân cảnh không xứng nhau”.

Tổ Bách Trượng lại sai Đạo Hầu kêu Điển tọa(6) đến và hỏi…, Tư Mã Đầu Đà mới thấy lần trước nhất, bèn nhận ngay rằng “Đấy, chính là ông chủ của Qui Sơn”.

Đến tối, Tổ Bách Trượng kêu sư Linh Hựu vào tịnh thất phú chúc rằng “Ta có bổn phận hóa duyên tại chốn này, còn Qui Sơn kia là thắng cảnh, Sư phải đến đó để nối dõi tông môn của ta, rộng độ lớp hậu học”.

Sư Linh Hựu vâng lời, qua trú trì nơi Qui Sơn.

Núi đây đảnh cao chót vót, cây mọc chần vần, suối hang sâu tột, chu vi ước có mấy nghìn trăm dặm, làm hang ổ cho các loài thú dữ như gấu, beo, cọp, đây ít có dấu người.

Hằng ngày sư Linh Hựu chỉ bạn cùng vượn, khỉ. Mỗi bữa lượm trái cây tượng lật(7) (cây keo su) rụng để ăn thay vì cơm cháo. Mãi thế trải qua sáu, bảy năm nhân dân ở làng gần núi ấy lần lần nghe biết, hiệu triệu nhau một số đông người, tự động lên núi, cùng kiến thiết thành ngôi chùa, cúng dường tổ Linh Hựu.

Do đó, hóa đạo của Ngài truyền khắp trong thiên hạ quanh vùng, lớp thiền học rần rộ. Bèn lập thành một tông Qui Ngưỡng.

Tổ sư Linh Hựu, Ngài khắp nêu chánh giáo hơn mười năm, số người được ngộ đạo nhiều không kể xiết, số được nhập thất(8) hơn bốn mươi người.

Khi thị tịch súc miệng, rửa tay, ngồi kiết già mà tịch một cách vui tươi, nhằm ngày mùng 9 tháng Giêng, năm đầu Thái Trung thứ 7(9), đời Đường.

Tuổi sống theo đời là tám mươi ba; tuổi tăng lạp(10) là sáu mươi bốn. Ngôi tháp xây dựng nơi gộp đá phía nam Qui Sơn. Vua Đường sắc tặng là Đại Viên Thiền Sư. Sắc tặng ngôi tháp là Thanh Tịnh.

Ký: Truyện chép Tổ Sư Linh Hựu trú trì nơi Qui Sơn đã lâu, tự biết(11) tiền thân đã làm nhà Tăng thụ trì kinh Pháp Hoa tại chùa làng Việt Châu. Năm Tổ Sư thị tịch cách với năm Như Lai diệt độ là một nghìn tám trăm năm.

Họ Tư Mã Đầu Đà, là người trong tâm chứa cái tông trực chỉ thiền(12); ngoài thân đủ cái gương nhân luân, gồm thông suốt phép địa lý, nên các nơi sáng lập chùa viện, đều nhờ ông chỉ điểm cho.

Thủ tọa, tức là ngài Hoa Lâm Hòa thượng(13).

B- PHÁP, LÀ VĂN CẢNH SÁCH

Hai chữ Cảnh Sách, chính là cái tông chỉ của một bộ luật này. Cảnh, là cảnh tỉnh kẻ chưa giác ngộ. Sách, là sách tấn người hậu học.

Nhân vì, đương thời (mạt pháp, đời Đường), Tổ Qui Sơn đại sư, Ngài thấy người chân tu lần mỏn, hiu quạnh, sự tình tệ ngày càng bành trướng, bởi hành vi của chư Tăng phần nhiều đồng thói hèn tục, vì đã tham của, lại tham ăn mà trễ nải, lười biếng, không có cái chí cương quyết lướt tới. Thành thử Tổ, Ngài chép văn Cảnh Sách đây, để hiểu dụ, giác ngộ, khuyên miễn cho học giả lo tiến bộ.

Ký: Xét các kinh, luận, hoặc dùng riêng tên người mà làm tên sách; hoặc dùng riêng tên pháp làm tên kinh; hoặc dùng luôn cả nhân pháp làm đề mục. Chừ văn Cảnh Sách đây là lấy cả nhân (Qui Sơn) và pháp (Cảnh Sách) hiệp lại làm danh đề.

Hai chữ Qui Sơn là do người đời sau để thêm, chứ phi Đại sư tự đặt. Theo lệ thường đồ chú thuật, thì với dưới đề mục, để riêng biệt cái danh của tác giả, mà ở đây lại đem cái danh của tác giả để ngay vào trong đề mục nên nói lấy nhân và pháp làm danh đề là Qui Sơn Cảnh Sách.

II. GIẢI THÍCH BỔN VĂN

Phân làm hai:
A- VĂN TRƯỜNG HÀNG
B- VĂN TRÙNG TỤNG.

II.A- TRƯỜNG HÀNG
Phân làm hai:
1. Giáo giới
2. Thị pháp
II.A.1- Giáo giới
Phân ra làm chín:
a- Nghiệp nhân quả khổ.
b- Sanh lão bệnh tử.
c- Sanh diệt thời tốc.
d- Vi tục nhập đạo.
e- Danh lợi thất đạo
h- Khải thị tam học.
k- Bất tu học quá.
l- Nghiệp quả thời thục.
m- Sách lệ khuyến tu.

II.A.1.a- Nghiệp nhân khổ quả

Xét Nghiệp buộc chịu thân, chưa khỏi hữu hình hữu lụy.

Câu trên, nói rõ cái nghiệp nhân. Câu dưới, nói rõ các khổ quả. Đấy là chỉ ra cho biết rằng nghiệp nó buộc lấy cái tướng (cái thân) khổ.

Nghiệp(14), thuộc về đời quá khứ; khổ; thuộc về đời hiện tại. Rằng, trong cái thời tạo nhân có sự ràng buộc nên chi trong thời chịu quả tất phải khổ lụy. Mà cái lụy phi chỉ một điều, nên nói chúng khổ.

Chúng khổ, nói hẹp thì có ba khổ, tám khổ; nói rộng thì có cả tám vạn bốn nghìn các khổ trần lao.

Số là, bởi chúng phàm phu nó không rõ được tự tâm của nó, sanh khởi những quan niệm mê hoặc, tạo tác bao điều nghiệp chướng, như thập ác và thập thiện hữu lậu. Do vì cái nghiệp (mười thiện, mười ác) ấy nó cột buộc nơi thần thức (đã mang lấy nghiệp vào thân), nên khó khỏi những khổ lụy của thân hình phần đoạn sanh tử.

Tổ Thiên Thai Trí Giả nói “Tất cả những tâm niệm hành động hữu vi, thường bị những bệnh hoạn, khổ lụy của pháp vô thường nó biến đổi làm ép ngặt, nên gọi là khổ.”

Luận Trí Độ nói “Vô lượng chúng sanh có ba món khổ về cái thân là lão khổ, bệnh khổ và tử khổ; ba món tâm khổ là tham lam, sân hận và si mê; ba món khổ về đời sau là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.”

Kinh Pháp Cú chép rằng: Xưa có bốn sư tân học Tỳ-kheo tranh luận về sự khổ của đời

- Sự dâm dục nó làm khổ não cho người.
- Cơn đói khát nó làm ép ngặt thân thể.
- Chứng sân nhuế nó làm rối loạn tâm thần.
- Điều hoảng hồn nó làm cho người phải e sợ.

Cùng nhau đua giành phải chăng. Phật dạy rằng “Các sư tranh luận như thế là chẳng xét thấu nghĩa của khổ. Đây cái thân nó làm gốc cho các khổ, cái nguồn của mọi điều hoạn nạn! Vậy, phải cầu chứng quả tịch diệt, ấy là rất vui!”

Ký: Luận sở dĩ có ra muôn điều lụy là gốc ở nơi cái thân; mà sở dĩ sanh ra cái thân là do nơi cái nghiệp nó buộc lấy; cái nghiệp lại do nơi phiền não mà có; vì phiền não vô minh hoặc(15) mà tạo tác ra các hạnh nghiệp; vì bởi cái nghiệp ấy nó trói buộc chúng hữu tình, nên chẳng đặng giải thoát, thành thử bị xuống lên ba giới, qua lại sáu đường, để chịu các điều khổ lụy của mỗi mỗi thân hình.

Thế là, nhân nghiệp tạo đời trước mà chịu cái thân đời nay, đương có thân đời nay lại tạo ra cái nghiệp cho đời sau nữa, tất nhiên, hễ hữu thân là hữu khổ, hữu hình là hữu lụy!

Đức Lão Tử cũng nói “Ta có cái khổ hoạn lớn, vì ta có cái thân. Nếu ta không thân, thì có lo chi”.

Muốn được không thân, cần đặng không tâm, tâm nó làm cái dụng cho nghiệp, nghiệp nó theo cái duyên mà sanh, nếu tâm không sanh khởi một vọng niệm gì hết thì cả khổ hoạn, hệ lụy đều mất.

Nên Triệu Luận nói “Muôn điều lụy nảy bày, gốc ở nơi vọng tưởng, đã dẹp được vọng tưởng rồi, thì vạn lụy đều thôi”.

Rằng tam khổ: 1-Khổ khổ, là cái gốc của khổ (cái thân). 2-Hoại khổ, là cái khổ của sự biến hoại.

3-Hành khổ, là cái khổ của hành chuyển. Nghĩa là, chúng sanh bẩm thụ lấy cái thân phần đoạn của hữu lậu ngũ ấm, tánh cách nó thường thường ép ngặt, thế là khổ rồi, lại cùng tương ương nhau với cái khổ thụ(16), tức là trên cái khổ (cái thân) gia thêm nhiều khổ khác nữa, nên nói là khổ khổ. Nếu đến thời cái tướng vui (lành mạnh sức khoẻ) nó bại hoại, thì cái tướng khổ (lão bệnh) nó liền đến, nên gọi là hoại khổ. Cái pháp hữu lậu thì bốn cái hành tướng (sanh, trụ, dị, diệt) nó trôi dời (biến chuyển sanh diệt) luôn luôn, không hề an ổn được, nên nói là hành khổ.

Rằng bát khổ, nghĩa là 1-Khổ về khi sanh. 2-Khổ về khi lão. 3-Khổ về khi bệnh. 4-Khổ về khi tử.

5-Đương thương yêu mà cảnh ngộ buộc phải biệt ly là khổ về sanh ly. 6-Đương thù oán mà phải đối đầu gặp nhau là khổ. 7-Mưu cầu sự gì cũng bất thành là khổ.

8- Thân ngũ ấm nó lừng lẫy đủ mọi khổ. Nghĩa là các cái khổ chánh như sanh, lão, bệnh, tử và đông nhiều khổ phụ đều tụ hội dồn trong một cái thân, nên gọi là ngũ ấm thành (đụng) khổ.

Rằng phần đoạn, bởi tâm còn chấp nơi pháp tướng chẳng quên, nên Bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát còn phải thụ lấy cái khổ của thân biến dịch sanh tử, vì là nhân di quả dịch; còn chúng lục phàm thì bị cái bệnh ái kiến(17) nó che phủ, không rõ cảnh giới là hư vọng (cho căn thân, khí giới là vật chất thực có), nên sanh khởi kiến hoặc, tư hoặc, mà tạo những nghiệp của thân tam, khẩu tứ, và ý tam để rồi thụ lấy các khổ của thân phần đoạn sanh tử.

Rằng phiền não, nghĩa là những cái pháp hôn phiền, làm cho tâm thần (ý thức) não loạn, cùng với tâm làm phiền muộn, khiến cho tâm phải não loạn; nói hẹp thì tam độc, thập ác, nói rộng thì một trăm lẻ tám điều phiền não, cho đến tám vạn bốn nghìn các cửa trần lao. Cửa trần lao, tức là muôn điều khổ lụy vậy.

II.A.1.b- Sanh, lão, bệnh, tử

Bẩm chịu cha mẹ thể vóc, mượn các duyên chung nên thân này.

Câu trên nói rõ cái gốc sắc thân. Câu dưới nói rõ mượn duyên hợp thành. Hai câu ấy, tổng quát thuộc về cái pháp sanh khởi (chúng sanh tự tạo kho), tức là cái nguyên thỉ muôn khổ lụy đấy.
Bẩm tức bẩm thụ. Thể vóc, tức cái sắc thân tứ đại. Từ thuở đầu tiên một niệm điên đảo(18) lẫn lộn vào hai điểm cấu uế là bạch tinh của cha, xích huyết của mẹ để tổ hợp họp lại thành cái thân thể của con, nên nói là “thể vóc”.

Mượn các duyên, mượn là tạm mượn, cũng là nương nhờ.
Các duyên, tức bốn đại, sáu căn, và mười hai nhân duyên.

Kinh Viên Giác nói “Bốn duyên mượn lẫn với nhau hợp lại bằng cách giả dối thành thân có sáu căn. Trong thân có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Bốn đại là địa, thủy, hỏa và phong; với đất, nước, lửa, gió nơi ngoài vũ trụ, hiệp lại thành thân thể.”

Rằng tứ đại, tức đất, nước, lửa, gió là bốn nguyên chất là đặc, lỏng, ấm và hơi. Cả bốn đại ấy, thể nó đều khác nhau, không có cái tánh chắc thực, cũng chả thành chủ tể, mà chỉ hay tự hòa hợp làm thân. Ắt nhờ nơi cái nhân (mười ác, mười thiện) đời trước và các nhân duyên(19), ba việc mà thành thân thể. Trái lại, thì sắc thân không thành được nếu chẳng đủ các duyên.

Mười hai nhân duyên, là nói “Bởi có cái đây nên mới có cái kia, cái đây sanh khởi nên cái kia mới sanh khởi.” Nghĩa là, từ cái vô minh duyên qua cái hành, hành duyên qua thức, thức duyên qua danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thụ, thụ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử mà sanh khởi ra lắm điều ưu bi khổ não. Với cái khổ uẩn (sắc thân) trọn lớn như thế, là bởi nhiều nhân duyên tích tập lại mà sanh thành.

Song, mười hai pháp ấy, lần lựa hay chiêu cảm lấy kết quả, nên nói là nhân, lẫn nhau cậy mượn mà có, nên bảo là duyên, hễ nhân với duyên tiếp tục nhau thì, đường sanh tử cứ qua lại mãi không biết đến đâu là bờ mé!

Bằng phá được cái vô minh rồi thì, chẳng còn sanh khởi cái thủ, cái hữu… nữa, thế, đều dứt hết sanh tử của hai mươi lăm hữu (loại) cả tam giới. Chính chỗ bảo rằng đây (vô minh) không nên kia (hành) không, đây diệt nên kia diệt. Là nói từ cái vô minh diệt thì, cái hành diệt… nhẫn đến cái lão tử diệt, tức cả những ưu bi khổ não, cái “khổ ngũ uẩn” trọn lớn chứa nhóm từ nhiều đời đều diệt hết.

Ký: Thân thể con người do mượn các duyên tổ thành, nên chi, hễ duyên hiệp lại thì hiện khởi lên làm sanh, còn duyên tan rã thì diệt mất làm tử.

Bởi thế, tất cả các pháp, pháp nào cũng đều tùy theo nhân duyên chẳng tự có, mà hễ nhân duyên đã sanh khởi nên chẳng không. Đã theo các duyên mà có, nên trong cái pháp (thân thể) ấy, không có phần tự chủ chắc thực thường còn.

Sách Chỉ Quán nói “Ngay nơi cái thân thể của ta, từ đầu đến chơn, nào lóng, nào đốt, mỗi mỗi xét cho kỹ, hẳn không thấy có cái ta chủ tể thì, chỗ nào có người và cả chúng sanh? Bởi cái nghiệp là (mười thiện, mười ác) làm cơ quan, mượn nhau làm nhóm ngũ uẩn luống không chủ tể đó thôi, vì theo các duyên sanh khởi nên chẳng có phần tự chủ.”

Mười hai nhân duyên, cũng tên mười hai duyên khởi, lại tên mười hai duyên sanh. Nghĩa là, nguyên trước không có thân thể mà, theo các duyên kia nên có sanh ra mình vóc, thì gọi là nhân, sẵn có mỗi phần mà theo cái nhân kia sanh khởi, thì gọi là duyên.

1-Vô minh tức là tối tăm, nghĩa là, bị cái vọng hoặc phiền não là tham, sân, si… của đời quá khứ, nó phủ che lấp cái chân tánh (Phật tánh), không còn thấy biết rõ hiểu gì cả.

2-Hành hành tức là hành nghiệp, nghĩa là, tại nơi đời quá khứ cái thân và cái khẩu làm và nói ra tất cả những nghiệp hoặc thiện hay bất thiện. Hai chi vô minh và hành ấy là cái nhân của đời quá khứ.

3-Thức thức tức là cái thức tâm. Nghĩa là, do cái nghiệp mê hoặc (thiện và ác) của quá khứ nó lôi cuốn khiến cho cái thức ấy gá vào mẫu thai, chỉ trong một sát-na (thời gian rất ngắn), nhiễm cái ái làm giống, nạp cái tưởng nên thai(20), tức thời, cái nghiệp thức nó lẫn lộn với hai điểm tinh, huyết của cha mẹ, tổ hợp thành một điểm, lớn bằng hột đậu, trụ trong bào thai, cùng hòa hợp nhau với ba sự này: một là cái mạng căn, hai là cái hơi ấm (dục hỏa), ba là cái thần thức. Trong đó có cái báo phong(21), cái bào thai nương theo báo phong (hơi thở), đó gọi là cái thọ mạng(22). Tinh của cha, huyết của mẹ ra đồng thời rập một nhịp thì nó chẳng hôi chẳng rữa, tên là noãn (ấm, lửa dục(23)), trong đó (tinh huyết) cái tâm ý (của đứa con) tên là thức. Ba sự (tinh, huyết, thức) như thế, nếu thiếu một cái nào thì cái bào thai ấy rục hư, không thành trụ được. Đó là cái vị trí bảy ngày đầu tiên của thai nhi ở trong mẫu thai, tên là Ca-la-ra, nghĩa là cái trạng thái nó giống như vết sữa đặc; từ đó về sau, cái thai nó theo nơi hơi thở ra vào của mẹ mà nó cũng phình lên xẹp xuống, cứ mỗi bảy ngày thì cái thai nó biến triển một lần.
Sách Chỉ Quán nói “Khi mà con người đi đầu thai, thần thức mới bắt đầu hợp cùng tinh huyết, cái khối “tinh huyết thức” dính nơi chỉ máu như sợi tơ ở cái rún của mẹ, vì cái rún liên lạc qua để duy trì cái thai ấy. Nghĩa là cái rún nó làm cái nguồn cho các ruột già, ruột non và cái bao tử, trong khi cái thai nhi còn ở nơi mẫu thai, lấy cái rún của mẹ, để nhỏ giọt vào cái rún của con, nên mẹ ăn uống chi, sinh tố từ nơi rún thấm vào để tư dưỡng cho con, hơi thở cũng thế. Đứa con khi ở trong thai vẫn nương hơi thở của mẹ, nên lời tục nói “Nó ỷ hơi mẹ nó”.

4-Danh sắc, Danh là tâm, vì tâm nó chỉ có cái danh tự, chớ không có cái hình chất. Sắc là sắc chất, nghĩa là từ sau khi gá vào thai bào của mẹ, đến tuần thứ năm, tên là hình vị, vì bấy giờ, đã nảy các căn hình, như mắt, tai, mũi, lưỡi, tay, chơn đều phân biệt, thế gọi là sắc; lấy tinh huyết của cha mẹ làm thân căn chủng, thần thức (tâm) lẫn ở trong đó, nên nhập chung lại xác và hồn, gọi là danh sắc.

5-Lục nhập, nghĩa là từ ngày vào mẫu thai về sau, đến tuần thứ sáu, tên là phát-mao-trảo-xỉ vị. Đến tuần thứ bảy tên là cụ-căn vị, nghĩa là sáu căn đều mở trương ra, có cái tác dụng tiếp xúc với sáu trần, nên gọi là lục nhập.

6-Xúc, tức là xúc đối, nghĩa là, từ ra khỏi mẫu thai nhẫn đến cái thời gian khoảng ba, bốn tuổi, cả sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, tuy tiếp xúc với sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp mà chưa được mấy rõ biết nảy lòng tưởng là khổ là vui gì, nên gọi là xúc.

7-Thụ, tức là lãnh nạp, nghĩa là, từ khi năm, sáu đến mười hai, mười ba tuổi, sáu căn xúc đối với sáu trần, liền biết nạp thụ các sự tốt xấu trước cảnh, mặc dù đã hiểu rõ phân biệt, song cũng chưa mấy sanh khởi cái tâm tham ái dâm nhiễm.

Năm món trên là cái quả của hiện tại.

8-Ái, ái tức là tham ái, nghĩa là, từ cái thời gian mười bốn, mười lăm đến mười tám, mười chín tuổi, mới thực là ham thích mỗi mỗi đồ vật tốt đẹp, và các cảnh dâm dục, nhưng hãy có thể rộng khắp ra để theo dõi tìm tòi, nên gọi là Ái.

9-Thủ, thủ là tìm lấy, nghĩa là, từ hai mươi tuổi về sau, cái lòng tham ái càng thạnh, đối với năm cảnh trần sắc, thanh, hương, vị và xúc, biết rong ruổi cả bốn phương để tìm kiếm, nên gọi là Thủ.

10-Hữu, hữu là hậu hữu, vì nhân quả chẳng mất, nghĩa là, nhân vì tìm lấy các cảnh, tạo ra nghiệp thiện hay nghiệp ác, đã có chứa chất những nghiệp ấy rồi nó sẽ lôi cuốn đi thụ sanh để chịu quả trong ba hữu là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Ba cái chi trên đây là cái nhân của hiện tại.

11-Sanh, sanh tức là đi thụ sanh, nghĩa là, đời nay ta tạo nghiệp thiện hay nghiệp ác của thân, khẩu, ý thì nghiệp ấy nó dẫn đi qua đời sau phải thụ sanh trong lục đạo giữa tam giới.

12-Lão tử, lão là cái thân căn đã già như trái cây chín muồi. Tử là cả các căn đều hư hoại. Nghĩa là, với đời sau, đã thụ sanh ra đến thời kỳ mà thân ngũ ấm già muồi, gọi là Lão; đã chín muồi rồi thì phải hoại diệt, nên gọi là Tử.

Hai món ấy là cái quả của đời vị lai.

Cả mười hai chi trên là cái pháp sự của nhân quả ba đời tuần hoàn chẳng dứt. Do vì, cái vô minh và hành làm “nhân” từ đời quá khứ nên chiêu cảm lấy các cái thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ làm “quả” cho đời hiện tại; kế đó, vì do cái quả ấy, lại sanh khởi cái ái, thủ, hữu làm “nhân” cho đời hiện tại; vì do cái nhân ấy, lại chiêu cảm lấy cái quả sanh lão tử cho đời vị lai.

Ôi! Trong thời chịu quả lại tạo ra nhân, bởi có nhân lại phải chịu quả, ba đời cứ tiếp tục nhau luôn, không hề ngớt dứt, tỷ như cái vành bánh xe lăn tròn, nên nói rằng luân hồi.

Tuy là, bốn đại giúp giữ, mà thường trái nghịch nhau.

âu trên giả họp, vì lấy bốn đại làm thân; câu dưới quai thuận, vì khí huyết bất điều, như thủy thạnh, hỏa suy, phong cường, địa nhược, nên nói là tương vi.

Nguyên con người bao lãm lấy bốn nguyên chất tế bào là địa, thủy, hỏa, phong bên ngoài để hợp tập lại thành lập thân thể, cùng giúp giữ nhau để chấp trì sanh mạng, sống ở một thời kỳ bao nhiêu tuổi đó.
Song, với trong thời gian ấy, nó thường thường khi thuận, khi nghịch lẫn nhau hễ một đại chẳng được điều hòa thì sanh ra một trăm lẻ một chứng bệnh; nếu bốn đại đều chẳng điều hòa thì bốn trăm lẻ bốn chứng bệnh đồng thời đều làm đau đớn.

Nói đại ấy, nghĩa là bốn pháp đây, không chỗ nào chẳng có nó, thể nó khắp cả các phương sở, khu vực, nên gọi là Đại.

Vạn sự, vạn vật đều do tứ đại tổ họp thành tượng thành hình. Ở bên ngoài (vũ trụ) thì là đất, nước, núi, sông. Ở nơi trong (căn thân) thì làm tứ chi, bách hài(24). Bốn đại tụ lại thì làm sanh, tán ra thì làm tử. Khi sống thì làm đặc, lỏng, ấm, hơi trong thân thể; khi chết thì làm đất, nước, lửa, gió ngoài khí giới.

Thế, trong ngoài dù khác, mà tứ đại chẳng lạ gì nhau.

Những thứ mà tánh chất cứng là thuộc về địa đại, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương…. Các thứ đây chẳng tự hòa hợp được, nếu chẳng mượn thủy đại.

Những thứ tánh chất lỏng, ướt thuộc về thủy đại, tức là nước mắt, nước miếng, đồ khạc nhổ, nước tinh dịch(25), nước tiểu tiện…, mấy thứ đây, nếu chẳng mượn địa đại thì liền tan chảy.

Thứ có tánh chất nóng thì thuộc về hỏa đại, tức là noãn khí(26) trong thân người. Ôn độ này nếu chẳng mượn phong đại không thể tăng trưởng được.

Thứ có tánh diêu động thì thuộc về phong đại, tức hơi thở ra vào, và sự động chuyển của thân thể, nếu chẳng có cái phong đại này thì, thi thể không cựa quậy, làm lụng gì được.

Song, bốn đại ấy, tánh cách nó riêng vốn không bệnh hoạn chi; duy vì các duyên tập hợp lại, hoặc cái này tăng phần cái nọ giảm, thạnh suy, xung khắc với nhau, thành thử bệnh hoạn do đó phát sanh.

Nên chi, hễ địa đại tăng phần thì, nó làm cho cái thân thể phải trầm trọng. Thủy đại mà tích ứ lại thì, nó trái với bình thường, vì sổ mũi nước, khạc nhổ. Hỏa đại thạnh thì, đầu và hông nóng ngăn. Phong đại nổi động thì hơi thở khò khè. Tức là những chứng bệnh trầm trọng (thuộc địa đại), đàm ấm (thuộc thủy đại), hoàng nhiệt (thuộc hỏa đại) và khí phát thuộc phong đại.

Do bốn bệnh gốc ấy, mà nảy ra nhiều bệnh chi tiết, kể có bốn trăm lẻ bốn chứng bệnh. Nghĩa là, phong bệnh một trăm lẻ một chứng, hoàng bệnh một trăm lẻ một chứng, bệnh đàm ấm có một trăm lẻ một chứng, bệnh tổng tập(27) có một trăm lẻ một chứng.

Với các chứng bệnh hoạn như thế, không giờ nào chẳng có, nên nói “thường trái nghịch nhau”.

Ký: Đại Luận nói “Mượn bốn đại làm thân, mà nó thường xâm hại nhau, nên trong mỗi mỗi đại đều sanh khởi ra một trăm lẻ một món bệnh.

Bệnh hàn lãnh có hai trăm lẻ hai chứng, vì thủy đại, phong đại phát khởi. Bệnh viêm nhiệt có hai trăm lẻ hai chứng, vì địa đại, hỏa đại phát khởi.

Bệnh thuộc hỏa đại thì hiện cái tướng nóng; bệnh thuộc địa đại thì hiện tướng chắc (bỉ ngảnh), bởi tướng chắc, nên vật thực khó tiêu, khó tiêu nên có thể phát sanh bệnh nhiệt.

Huyết, nhục, gân, cốt, mạch, tủy… thuộc về phần địa đại; trừ ra cái bệnh nghiệp báo(28). Tất cả pháp (bệnh chứng) đều bởi nhân duyên (nguyên nhân) hòa hợp mà phát sanh thành chứng bệnh.

Sách Phụ Hạnh nói “Người mà tứ đại chẳng điều nhuận là hành dịch (lao động) không giờ khắc (quá độ), như ỷ mạnh dạn gánh vác quá sức, xông pha khi quá lạnh quá nóng, nhiệt độ bên ngoài nó giúp cho hỏa đại bên trong, hễ hỏa thạnh thì phá thủy, thế là tăng hỏa bệnh. Cơn lạnh rét bên ngoài nó trợ thủy đại, hễ thủy tăng thì nó hại hỏa, thế là bệnh thuộc về thủy. Phong bên ngoài nó xúc động cho phần khí bên trong, khí (hơi thở) nó thổi nơi hỏa đại, lửa nó nóng động nơi thủy đại, thế là bệnh thuộc về phong đại.

Hoặc ba đại kia đều tăng lên bằng cách đồng phần thì làm hại cho địa đại gọi là bệnh đẳng phần; hoặc thân phần tăng lên (quá phì) thì hại cả ba đại (thủy, hỏa, phong) cũng gọi là bệnh đẳng phần, thuộc về địa bệnh.

Ăn uống không chừng đỗi, chẳng hợp cách vệ sanh, cũng có thể sanh bệnh, như gừng, quế, ớt là vật vị cay độc thì nó tăng cho bệnh thuộc về hỏa; mía, mật vị nó ngọt lạnh thì, nó tăng cho thủy đại (thủng nước). Ăn trái thơm, trái khóm nhiều thì, nó tăng cho bệnh phong; ăn nhiều dầu mỡ chất nhớt thì nó tăng cho địa đại tức bệnh trầm trọng; ăn dưa vàng (bí ngô, bí rợ) nhiều thì nó làm trợ duyên cho bệnh nhiệt (bệnh tòng khẩu nhập), tức là ăn những vật thực không yên lành mà sanh ra bệnh.

Người xưa nói “Bệnh bởi miệng vào, họa từ miệng ra”. Đây gọi thế chăng?!

Cơn vô thường (chết), già, đau chẳng cho người hẹn.

Câu trên, rõ ba cái tướng khổ; câu dưới, rõ rằng không phần làm chủ. Ba cái tướng ấy vốn không, với trong đó tìm ra, nguyên chẳng có ta thì, có chi làm tự chủ đặng, để tự ý mình cùng đó hẹn hò. Trừ chăng người đã thức tâm đạt bổn (minh tâm kiến tánh) rồi, mới có thể làm chủ hẹn hò được, kêu bằng “sanh tử tự do”. Còn những kẻ mê muội thì chẳng biết gì cả, vì vẫn cũng “túy sanh mộng từ”.

Vô thường: không thường còn bền bỉ gì, nghĩa là, nguyên trước vốn không mà nay in tuồng như có, nhưng có bằng cách giả tạm mà rốt lại cũng không, tức là một sát-na cũng không đình trú vì mỗi niệm, mỗi niệm, biến đổi luôn luôn, nên bảo là vô thường.

Từ ra khỏi mẫu thai, đến lớn (ba mươi tuổi), đến già (sáu mươi tuổi), đến bệnh, đến lúc sanh mạng cùng tận, mà trong chặng giữa đều mỗi niệm trôi dời, ý thức chẳng hề an trụ, nên nói là vô thường, mà nó cũng là cái tên khác của cái chết đấy!

Lão: Già, các căn muồi mẫn già nua, thân hình khô khan, nhan sắc tiều tụy, tinh thần lú lẫn, tóc bạc mặt nhăn, nghĩa là sắp chết chẳng còn bao lăm nữa.

Bệnh: Bốn đại đều chẳng điều hòa, do đó, lần hồi sanh ra bốn trăm chứng bệnh, thân lực bì quyện, ăn uống không tiêu, tinh thần sút kém, khi ngồi lúc dậy nhờ người nâng đỡ, nên gọi là bệnh.

Vô thường, tức là tử, bằng theo thứ lớp nương nhau của pháp hệ thì, cái tử ở rốt sau (như sanh, lão, bệnh, vô thường), mà nay đây để vô thường ở đầu câu là, vì thể nó phổ biến hết thảy suốt trùm cả các pháp sanh, lão, bệnh, tử, phải vậy.

Ký: Hình luôn luôn chẳng trụ, ý niệm niệm không dừng, gọi là vô thường. Kinh nói “Sức của vô thường quá lớn, chóng kíp hơn núi lở, nước lên”. Chiết Luận nói “Có ba thứ vô thường 1-Mỗi niệm hoại diệt. 2-Vừa hòa hợp rồi ly tán. 3-Sự vật chi chi, rốt cũng vô thường như thế.”

II.A.1.c- Sanh diệt thời tốc

Sớm còn tối mất, sát-na đời khác.

Câu trên, nói về đời hiện tại; câu dưới, rằng đời sau. Hai câu ấy đều giải thích về nghĩa của vô thường; văn dưới kia, lại dùng các vật sương, móc để tỷ dụ cho rõ thêm.

Rằng sát-na là thời giờ cực kỳ ngắn và chóng. Nghĩa là người mà đến khi sắp thở hơi cuối cùng, để xả mạng sống thì, chỉ ở trong một sát-na rốt sau, tức là cái ngày mà sáu căn hoại diệt, lúc thần thức dời lìa là, cái thời mà nghiệp thức nó bỏ cái xác cũ, riêng thụ cái thân mới khác.

Thức, tức là thức thứ tám tên là A-lại-da. Khi người ta chết thì thức này ở rốt sau mới lìa xác, khi đi đầu thai thì nó đến trước nhứt, nghĩa là, chỉ trong một sát-na, thức ấy bị hít lẫn vào tinh huyết của cha mẹ, kết tinh trụ trong thai tạng, để rồi cũng vẫn làm cái căn cho sanh tử và, là cái nguồn cho khổ quả.

Ký: Thức có tám món 1-Nhãn thức. 2-Nhĩ thức. 3. Tỷ thức. 4-Thiệt thức. 5-Thân thức. 6-Ý thức. 7

Mạt-na thức. 8-A-lại-da thức.

Ví như sương xuân, móc sớm, chốc lát liền không.

Câu trên lập dụ cái thể vô thường; câu dưới giải thích cái tánh vô thường. Do vì sương móc hễ gặp ánh nắng của mặt nhật thì liền tiêu tan, thể nó chẳng bền chắc mà tánh nó cũng vô thường.

Thí như, là lập lời tỷ huống. Thúc hốt: chốc lát, tức tạm có rồi không.

Ký: Hai câu bổn văn đây là, để giải thích hai câu “Triêu tồn tịch vong…” trên kia là, chung rõ cái thời giờ quá chóng. Thúc hốt: rất chóng quá phi ý nghĩ toan kể gì kịp đặng.

Sách Tông Cảnh nói “Tuy sống trăm tuổi, dường một sát-na, in tuồng làn sóng sắp nhào khơi, ví tợ ánh thừa hầu khuất núi, ví đốm lửa đánh đá nháng, như bóng ngựa trước song (cửa sổ) nhanh, là móc sớm đọng đầu ngọn cỏ, đèn mọn chong giữa gió dông, cây còi cọc nơi mé sông, luồng chớp nháng lòa con mắt. Đó, thân mạng người mong manh vô thường như thế, vẫn ắt đọa nơi u đồ, nếu chẳng gặp được chánh pháp.

Cây vực, dây giếng, đâu được lâu dài!

Câu trên, chỉ ra cái thể của thân mạng, câu dưới giải rõ nghĩa của kiếp sống. Ôi! Cây mọc nơi mé sông, phi dài năm, hai chuột cắn dây, há lâu thuở!

Kinh Đại Tập nói “Xưa có một người, vì sợ tránh hai con voi say, bện dây đùng đeo xuống giếng, dưới đáy giếng có ba con độc long hà hơi trương móng, người liền nắm dây tòn ten ở lưng chừng; trên miệng giếng có hai con chuột đen và trắng cắn dây sắp đứt. Chung quanh có bốn con độc xà muốn cắn nhả nọc độc. Người ngửa mặt trông lên, thấy hai thớt voi đã tới sát miệng giếng, lo sợ vô cùng không chỗ nương gá!

Chợt có con ong mật bay đến, để năm nhỏ mật vào miệng, người ấy nuốt mật rồi, quên hẳn điều nguy sợ(29).

Chừ, đem hai con voi say để tỷ cơn sanh tử. Dây là dụ cái mạng căn; vào giếng là ví cơn vô thường; hai con chuột(30) là dụ nhật nguyệt; bốn rắn thí tỷ tứ đại; ba rồng là ví tam độc; năm nhỏ mật là dụ ngũ dục lạc. Tam độc, là cái nguyên nhân ba ác đạo, nên hễ dây mà đứt, tức có cái hoạn nạn đọa lạc!

Ký: Bổn văn có hai câu, để giải rõ một câu “Bất dữ nhân kỳ”, đấy là chỉ cho người đều biết cả năm, tháng, ngày, giờ rất chóng qua (ngày tháng như thoi, người dễ già).

Thân căn dường cây đứng mé sông, gió nghiệp một khi thổi đến, phi sức mạnh nào có thể trì giữ vững được; mạng sống như dây bò trong giếng, ngày tháng mỗi kém mòn qua, khiến người không nhớ biết. Cây đứng nơi ngàn sông, là tỏ cho biết rằng năm tuổi chẳng dài lâu; dây giếng, là ví rằng ngày tháng chóng mau.

Rằng dây giếng, là cái dây nó mọc bò thòng nơi bên giếng; hoặc nói rễ cây nó đan vào lòng giếng, nghĩa là cái giếng khô trên gò nổng.

Ngài La-Thập pháp sư nói “Thuở xưa có người tội phạm, sợ tội hình vượt ngục trốn chạy. Nhà vua truyền thả voi say rượt theo, tội nhân sợ quýnh tự gieo mình xuống giếng khô…”

Tam độc là tham lam, sân hận và si mê. Tam ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Ngũ dục: năm điều ưa muốn, tức sắc đẹp, tiếng tốt, chất thơm, mùi ngon, thân ưa cảm xúc sự sang trọng, sung sướng. Hoặc có chỗ dùng tài, sắc, danh, thực, thùy làm ngũ dục. Nghĩa là, chúng sanh say mê nơi chút vui ngũ dục đó mà, trọn quên các khổ rất hiểm nguy của sanh tử!
Niệm niệm chóng mau.

Niệm, là cái vọng niệm nơi tâm sanh diệt của phàm phu, nghĩa là, niệm trước chưa diệt, niệm sau tiếp sanh, mỗi niệm cứ sanh diệt mãi như thế. Tỷ như đèn cháy tim, lửa cháy đến đâu tim tàn đến đó, mãi thế chẳng ngừng; với cái hiện tượng sanh diệt quá chóng mau như thế, phi bực đủ huệ nhãn thì chẳng thấy.

Ký: Đấy là nói rõ cái “niệm” quá nhanh, là bởi vọng niệm, nên sanh diệt mãi chẳng hề tạm đình, chớ như chân tâm thì, vẫn thường trụ không dời đổi.

Trong một sát-na, hơi thở tắt rồi, tức là đời sau.

Tiếng Phạn là Ksana (sát-na), đây rằng một niệm, tức là cái thời gian cực kỳ ngắn mau.

Luật Tăng-kỳ nói “Hai mươi niệm làm một thuấn (nháy mắt), hai mươi thuấn, kêu là một đờn chỉ (khảy móng tay).

Luận Câu-xá nói “Trong một cái đờn chỉ của tráng sĩ, có sáu mươi lăm cái sát-na”.

Song, có đại niệm, tiểu niệm, trong một đại niệm, có chín mươi cái sát-na, trong một cái sát-na có chín trăm cái sanh diệt.”

Trên đây nói một sát-na đó, tức là cái tiểu niệm.

Tức, là hơi thở ra hít vào, cái hơi thở ấy, gọi là cái mạng sống, nghĩa là, dùng một thời kỳ làm tuổi thọ, giữ liền được cái sanh thân nói rằng mạng. Trong một thời kỳ giữ liền hơi thở chẳng dứt, nên gọi hơi thở ra vào là thọ mạng. Chuyển tức là hơi thở ra rồi mà không hút vào lại nữa, nên nói tắt thở, tức là mạng chung. Đấy, chỉ ở trong khoảng một sát-na, tức là khi thức thứ tám nó bỏ thân tiền ấm để đi thụ cái thân hậu ấm.

Ở đây, chẳng nói cái trung ấm là, hễ nói lên cái trước, cái sau thì có kiêm cái trung ấm rồi.

Lại, tuổi của thân trung ấm, hoặc chậm hoặc mau không nhất định hễ chậm thì, chỉ bốn mươi chín ngày là mãn kỳ, vì đi đầu thai; còn mau thì, rất chóng hơn tâm niệm, nó liền xả thân trung ấm mà thụ thân hậu ấm.

Lai sanh: Đời sau, tổng quát lục đạo, vì tùy theo sở hành thiện nghiệp, ác nghiệp như thế nào mà, phải thụ quả báo sanh ở vào chỗ nấy.

Ký: Hai câu của bổn văn đây, tức giải thích nghĩa của một câu “sát-na dị thế” (sát-na đời khác) nơi văn trên kia. Văn đây, nói rõ sát-na là rất chóng kíp.

Hành mười thiện bực thượng, được sanh lên thiên đạo; hành mười thiện bực trung sanh lại giữa nhân loại; hành thập thiện bực hạ sanh ở cõi A-tu-la.

Hành thập ác hạng nặng, đọa ở địa ngục; hành thập ác hạng vừa, sanh làm ngạ quỷ; hành thập ác hạng nhẹ đọa làm súc loại.

Thuấn là con mắt nháy động.

Thân trung ấm, là con người khi mạng chung, sau cái lúc mà hơi thở ra hút vào dứt hẳn, thức thứ tám rời thân tiền ấm (tử thi), liền hóa sanh ra thân trung ấm, hình bằng con nít ba tuổi của nhân gian, ở giữa hư không, mắt của nó chỉ thấy mịt mờ mà thôi, ăn hưởng hơi hương để sống.

Dầu ở cảnh giới tối tăm, vì nghiệp chướng khiến thế, nhưng chỉ với chỗ nào có duyên, nó liền thấy cái ánh sáng dục hỏa của giống đực giống cái (sẽ làm cha mẹ nó) đương giao hội hành dâm, tùy ý niệm của nó tức thì đến liền, nạp lấy cái tưởng điên đảo(31), trong một sát-na, thức nó hút lẫn vào hai điểm bạch tinh, xích huyết của cha mẹ (thân trung ấm diệt) mà tổ thành thân hậu ấm.

Hoặc kẻ sắp làm cha mẹ của nó không giao hội, vì bệnh duyên hay chuyện chi khác, hoặc địa phương đi thụ sanh của nó chưa ổn định thì, cái thân trung ấm của nó, mỗi bảy ngày phải chết một lần, rồi hóa sanh trở lại (để đợi chỗ có duyên giao hội), nhẫn đến bốn mươi chín ngày, ắt quyết định được gá sanh. Nên chẳng sớm thì chầy, không ngoài bảy lần bảy ngày(32).

Bằng như, nghiệp duyên của thân trung ấm đã định hoặc sanh làm chúng sanh ở cõi người, cõi trời, hoặc đọa làm chúng sanh ở loài quỷ, loài súc thì, chỉ trong một sát-na, nó bỏ thân tiền ấm, thụ thân trung ấm, xả thân trung ấm, thụ thân hậu ấm. Trong thời gian xả thụ như thế, chóng hơn cái chớp sáng, phi cái tâm nhãn của phàm phu thấy xét được mà, duy có Phật mới thấy biết kịp.

Thế sao? Yên lặng bỏ trống qua.

Hà nãi như hà vi: Thế sao, mần răng!? Cũng là lời hỏi giằn gạn lại và, cũng là lời thừa tiếp văn trên chuyển qua văn dưới. Do vì trên, chỉ thị ra cho biết điều quá hoạn của sanh tử, cơn vô thường vội gấp! Đến dưới, khiến cho giác ngộ rằng đã xả tục nhập đạo, y nơi pháp tu hành, kỳ cho ra khỏi luân hồi.

Yến nhiên như là an nhàn vô sự; là có ý chung lại bảo rằng sáng bóng (ngày đêm, giờ phút) nhanh chóng, sanh mạng của người là vô thường! Cớ sao? Trọn ngày, chỉ cốt lấy ăn no, tâm vô dụng vào giới định huệ gì mà, mải cứ yên rảnh, ăn rồi ngồi không, bỏ luống qua ngày, chẳng toan tiến lên, để hầu giải thoát sanh tử ư!?

II.A.1.d- Vi tục nhập đạo

Đối với cha mẹ, đã chẳng dâng mùi ngon ngọt, sáu thân hẳn đã xa lìa.

Câu trên, thiếu về nghĩa phản bộ sú lại(33); câu dưới, thiếu về nghĩa kính hòa.

Phụ mẫu là thiên địa(34) của kẻ làm con.

Kinh Thi(35) nói “Thương thương cha mẹ, khó nhọc sanh ta, muốn trả ơn ấy, trời cao chẳng tột!”(36).
Kinh nói “Người có cúng dường cha mẹ đặng vô lượng phước”.

Phật dạy “Đối với con cái, cha mẹ có công tăng ích rất lớn, vì bú sú chắt chiu, tùy thời dưỡng dục, thân thể trưởng thành. Dẫu có người, vai hữu cõng cha, vai tả cõng mẹ, trải đủ trăm năm ỉa đái trên lưng, không có lòng giận. Bốn việc cúng dâng(37) không cho chậm thiếu, làm con được thế, hãy chẳng đủ trả ơn sâu của cha mẹ”.

Người con muốn báo ân, cần khuyên cha mẹ đối với các pháp nhân quả của Phật, Pháp, Tăng, như chưa tín ngưỡng, phải khởi lòng tin, hoặc đã tin rồi, khuyên càng tăng trưởng; như chưa giữ tịnh giới, khuyên thụ trì giới; hoặc có lòng rít tham, khuyên tu bố thí; như có ngu muội, khuyên tu trí huệ, khiến ở an lành, để tự sửa tánh. Làm con được vậy, mới bảo báo ân một cách chân thật.

Lục thân: 1-Cha. 2-Mẹ. 3-Anh. 4-Em trai. 5-Vợ.

6- Con, là sáu nghĩa thân.

Lại nói: 1-Cha. 2-Con. 3-Anh em con nhà túng phụ(38). 4-Anh em con nhà túng tổ (39). 5-Anh em con nhà tằng tổ(40). 6-Anh em trong cả họ.

Khí ly: bỏ lìa, kinh nói “Người thụ giới xuất gia Bồ-tát, đã xả ly sáu nghĩa thân, chẳng ghi chẳng nhớ, siêng tu đạo hạnh, vì để được mau thành quả Bồ-đề, hầu cứu độ thất tổ cửu huyền.”

Ký: Cam chỉ là món ăn rất ngon. “Hãy còn chẳng đủ trả ơn của cha mẹ” đó, là dù có kính nuôi, không trái sắc mặt của cha mẹ(41) chăng nữa, cũng không thể đem tinh thần của cha mẹ để siêu lên cõi trên đặng. Muốn lợi ích cho thần linh cả nhiều đời thì, ắt phải khuyên cha mẹ thọ ngũ giới, trì tịnh trai, lo tu phước huệ.

Như người con đã xuất gia rồi, mà cha mẹ nghèo thiếu không thể tự sống được; Phật dạy “Người làm con về khuyên cha mẹ phát khởi lòng tín ngưỡng, trao cho tam quy, ngũ giới, nhiên hậu người con đi khất thực để cúng dường”.

Tổ Nam Sơn nói “Người chân chánh xuất gia là, sợ bốn oán thù(42) nhiều khổ, chán ba cõi đều vô thường, từ biệt tình chí bi của lục thân, hy sinh lòng đắm sâu nơi ngũ dục. Đó, xuất gia được như thế, mới gọi là chơn xuất gia. Thế thì, nối thạnh dòng Tam Bảo, độ thoát cả tứ sanh, lợi ích rất sâu, công đức vô lượng.”

Đã không tài trị an việc nước, lại chấm dứt nối dõi nghiệp nhà.

Câu trên là thiếu giúp nước ơn dân; câu dưới là thiếu thờ nhà con nối.

Người xuất gia làm Thích tử là, bỏ sự đẻ nuôi nối thờ thay vì nối thạnh giống họ Tam Bảo(43), dù tợ hồ có thiếu sự trung hiếu. Song, lo lập thân hành đạo, để rồi đem đức giải thoát báo đáp ơn mẹ cha; thuyết pháp khuyến thiện, để rồi phổ biến tu trì, tự nhiên giúp dân nước. Đó, báo đức như thế, tưởng không chi bằng. Vì trung hiếu trên tinh thần đạo đức, cả pháp giới chúng sanh, chứ chẳng chỉ một cha nhà, vua nước.

Thuở xưa, Tống Văn Đế bảo ông Hà Thượng Chi rằng “Ước được cả nước đều thấm nhuần thuần thục Phật hóa thì, trẫm được ngồi yên để hưởng phước thái bình”.

Hà Thượng Chi thưa rằng “Vả chăng, trong làng chừng trăm nhà, có mười người thụ trì ngũ giới thì, mười người ấy được hiền lành; một thành ấp chừng nghìn gia đình, có trăm người tu hành thập thiện thì, trăm người đó hòa thuận. Nghĩa là, người mà có thể làm được một việc lành thì bỏ được một điều ác; hễ cá nhân bỏ một điều ác thì chánh quyền dẹp được mọi luật hình. Tại nơi nhà khỏi một luật hình thì, nơi nước nghỉ luôn vạn điều luật hình.

Đấy là cái ý chỉ rất rõ về chỗ bảo rằng “Ngồi yên trên ngai mà tạo nên cảnh huống thái bình đó vậy”.

Ký: Văn trên, nói rõ về nghĩa trái với hiếu trung của tục đế; văn dưới, nói rõ về nghĩa thuận với đạo đức của chân đế.

Xa lìa nơi làng xóm, cạo tóc vâng đức thầy.

Câu trên lìa tục đế, câu dưới vào đạo đế.

Miến: xa, nghĩa là xa lìa nơi hương tục, hướng đến cảnh vô vi(44), tức là hy sinh gia đình mà tiến nơi phi gia thất (chùa chiền).

Xuống tóc vâng thầy bỏ cái dung nghi ngoài tục, dẹp cái tốt đẹp trong đời, giống hệt Như Lai, vì đủ cái đức tướng viên đảnh phương bào của Phật; vâng chịu mạng lệnh của đức thầy, vì theo thầy để chịu học đạo, đấy chính là cái quy thức nhập đạo, cái hồng phạm xuất thế.

Ký: Người thế tục họ dùng râu tóc để trau tria cho thêm vẻ đẹp nơi dung nghi; người xuất gia làm Tỳ-kheo, đã khác tục, mộ đạo, bỏ sự tốt của đời mà dứt hẳn ân ái.

Thời đại ngày nay, giới xuất gia cũng có kẻ để râu, dài tóc mà tự hào là tu hạnh đầu đà, thế cái danh tướng đã mâu thuẫn mà, cái điệu hạnh cũng trái ngược nữa.

Tiếng Phạm là Dhùta (đầu-đà), dịch đẩu tẩu, là phủi giũ, nghĩa là phủi giũ những bụi trần lao là phiền não cả ba giới.

Tu hạnh này, có mười hai pháp(45). Ngày nay, họ để đầu tóc chơm bơm mà tự hào là đầu đà đó rất là sái quấy!
Phật quở “Để dài râu, tóc, móng là cái tướng phá giới của ác Tỳ-kheo. Hoặc Tỳ-kheo riêng ở một mình nơi a-lan-nhã, không người cạo giùm thì, cho phép để tóc dài chừng một tấc, nếu cũng không biết tự cạo, móng tay dài chừng một hột thóc, chẳng đặng để dài hơn.”

Bỏ gia đình, đến chốn phi gia, bỏ cái nhà có sanh đẻ của thế tục mà vào nơi cái xá thanh tịnh vô vi.

Đức Văn Thù Bồ-tát bạch Phật rằng “Đức Như Lai đã nói ơn rất lớn của cha mẹ, chẳng khá chẳng trả, lại nói thầy (bổn sư) và chúng tăng có ơn cũng lớn, chẳng thể cân lường; vậy, thì ơn bên nào rất lớn hơn?”

Phật dạy “Kẻ tại gia dẫu thường lân la dưới đầu gối của cha mẹ để phụng sự hiếu kính đi nữa, cũng chưa đủ trả ơn sanh thành, do công ơn quá sâu vì sanh dục, nên nói ơn của cha mẹ rất lớn; còn như người theo thầy xuất gia học đạo thì, ơn này cũng rất lớn, vì nhờ bổn sư mở bày cho ta được thấy, nghe, hiểu biết đạo lý giải thoát sanh tử, để ra khỏi sông mê biển khổ.

“So ra để cân nhắc người xuất gia là đã bỏ cái nhà có sanh đẻ của cha mẹ, tiến vào trong pháp môn, thụ học cái pháp vi diệu, đó là do đạo lực của bổn sư sanh trưởng cho cái Pháp thân, đưa ra cái pháp tài, để nuôi lớn cái mạng trí huệ thì không cái công nào lớn bằng, vói so ra thì, cái ơn sở sanh của phụ mẫu chỉ lớn ở hạng thứ mà thôi”. Vì ơn sanh trưởng huệ mạng hơn ơn sanh trưởng nhục thân, huống nữa là giải thoát sanh tử.

Hương đảng, hương: hướng tới, nghĩa là chỗ của chúng nhân qui hướng; đảng: bằng đảng, xưa định lấy năm gia đình làm một đảng. Sách Chu Tể nói “Trong khu trăm gia đình, sắp làm một hương”. Sách Hán Chí ghi “Sắp năm gia đình làm một lân; năm lân lập làm một lý; bốn lý lập làm một tộc; năm tộc lập làm một đảng; năm đảng lập làm một châu; năm châu lập làm một hương. Đấy là lấy số một vạn hai ngàn năm trăm nóc nhà sắp làm một hương.

Bẩm: Thụ mạng.

Trong siêng cái công hay chánh niệm, ngoài rộng cái đức chẳng chấp giành.

Câu trên, rõ cái niềm chánh niệm, câu dưới rõ cái đức hòa kính. Nghĩa là, trong lòng rất thiết quán niệm trí huệ, ngoài hạnh mở rộng nghĩa vụ lục hòa. Đấy là cái công huân nhập đạo, cái cơ bản lập đức.

Ngài Tăng Triệu nói “Nhà sư mà phi chân tâm thì không lấy đâu đủ sáu pháp; phi sáu pháp thì chẳng do đâu hòa hợp quần chúng. Đấy là phi cái gốc kính thuận, nên chúng không phục hòa!”

Ký: 1-Với giới phẩm, hòa hợp đồng thụ đồng tu. 2-Với tri kiến, hòa hợp đồng chỉ đồng hiểu. 3-Với thân khu hòa hợp đồng an trụ. 4-Với tài lợi hòa hợp đồng chia hưởng. 5-Với khẩu thiệt hòa hợp không cải giành. 6-Với ý niệm hòa hợp đồng vui mến.

Giải thoát gia đình, mong hẹn ra khỏi.

Câu trên, ly khai nhà thế tục; câu dưới siêu xuất nhà tam giới. Người mà muốn thoát ly cõi trần tục thì, cần phải cất bước siêu việt hẳn địa phương. Kỳ cho được thoát ly tam giới luân hồi, lục đạo sanh tử thì, cần nhất phải đoạn hẳn phiền não, thế mới phu phỉ cái bổn thệ(46) lúc xuất gia.

Hai câu của chánh văn đây là tổng kết văn trên, để phát khởi văn dưới.

Ký: Câu trên (giải thoát gia đình) là xâu kết cả năm câu trên cha mẹ… sáu thân… việc nước… nghiệp nhà… làng xóm…; câu dưới (mong kỳ ra khỏi) là kết cả ba câu, như cạo tóc… trong siêng… ngoài rộng…

Hoảnh thoát (giải thoát). Hoảnh: chỗ xa vắng. Ký: muốn, trông.

II.A.1.e- Danh lợi mất đạo

Cớ sao? Vừa lên giới phẩm, liền khoác (dóc) ta là Tỳ-kheo.

Câu trên, mới thấm thể vô tác. Câu dưới, chưa đủ đức chỉ ác. Do vì, danh và hạnh chưa đáng, chẳng xứng với nghĩa Tỳ-kheo.

Từ biệt song thân, vào nhà Tam bảo, trong siêng… ngoài rộng… đấy là, vốn vì kỳ cho được ra khỏi đường sanh tử. Cớ sao mới vào trong số đại tăng, liền vội tham tài, tham thực, cả danh lẫn lợi, buông chơi lung tình, gây cái nhân hữu lậu, kết cái quả sanh tử, mâu thuẫn với sơ tâm, bỏ mất cái hạnh xuất ly ư ?

Vừa lên giới phẩm, mới thụ giới cụ túc, thể vô tác mới thành.

Giới phẩm có bốn hạng: 1-Ngũ giới, 2-Thập giới, 3-Cụ túc giới, 4-Bồ-tát giới. Hai giới trước và sau là đều thông đồng chúng tại gia. Hai giới giữa là, chỉ riêng cuộc về chúng xuất gia.

Ta là Tỳ-kheo, là người đã thụ giới cụ-túc.

Tỳ-kheo, tiếng Phạm là Bhiksu, hàm có cả ba danh nghĩa: 1- Phá ác, 2- Bố ma, 3- Khất sĩ. Bởi bao hàm ba nghĩa ấy mà chữ Nho Trung Hoa không thể phiên dịch được, nên vẫn còn để nguyên bổn âm (tiếng Phạm).

Ký: Vô tác, cũng gọi là vô giáo, lại là vô biểu sắc, tức là giới thể, từ khi “Bạch tam Yết-ma” mà đắc, đắc giới thể đây rồi, mặc ý thôi dứt điều ác, tha hồ tự tiện làm lành, không dụng tâm làm đi làm lại việc sái quấy nữa, nên gọi là vô tác. Chỉ: thôi dứt các điều ác, khiến chẳng cho gây lại.
Phá ác, đứng về khi ban đầu đắc giới, do nghe ba lần pháp Yết-ma, mà nảy ra cái “thiện luật nghi”, nên phá được ác luật nghi.

Còn như về mặt phổ thông tu hạnh giải thì, hay phá được các điều ác của kiến hoặc và tư hoặc.

Bố ma, đã hay phá ác, nên trời ma vương lo nghĩ rằng “Người ấy chẳng những chỉ siêu xuất ngoài cõi xứ của ta, hoặc còn có thể truyền đăng kế Tổ, chuyển hóa quyến thuộc của ta nữa, bỏ trống cung điện không ai ở, vì chúng đã xả tà qui chánh”. Nên ma vương lấy làm lo sợ!

Khất sĩ, khất là cái danh khất cầu, sĩ là tiếng xưng thanh nhã. Nghĩa là, bên trong thì tu tạo cái đức thanh nhã, với ngoài thì xa lìa món ăn tứ tà(47), tự xử lấy cái mạng trong sạch, để làm phước lợi cho chúng sanh, phá cái tâm kiêu mạn, giữ cái hạnh khiêm nhượng tự thấp, rao xin nuôi thân, để tạo thành cái đức thanh nhã.

Kẻ xuất gia ngày nay, mưu cầu đã nhiều, chứa để cũng lắm thì đâu có xứng với cái đức thanh nhã, thế đã mâu thuẫn với cái danh khất sĩ, đâu còn là Tỳ-kheo ư!?

Hoặc tiêu xài của đàn-na, hoặc ăn dùng của thường trú.

Câu trên rõ của tín thí; câu dưới rõ của tăng vật. Thì ra, dẫu một tấc tơ, một nhỏ nước, cũng khó mà tiêu đặng, nếu ta chẳng có cái đức giữ giới, phương chi là cả bốn món của đàn-việt cúng dường và hằng ngày thụ dụng của tăng-kỳ ư?

Đàn việt, Đàn là tiếng Tây Vực, đây dịch là thí; Việt là lời của phương đây. Nghĩa là, người mà năng hành cúng thí, thì về sau mỗi đời vượt (việt) qua khỏi biển khổ bần cùng. Như kinh Địa Tạng nói “Thí nhứt đắc vạn báo”.

Một danh từ thường trú mà, có bốn mặt luật:

1-Thường trú thường trú: của chùa trong chùa như Tăng tự, Tăng phòng, Tăng xá, cả các khí cụ, cây cối, hoa quả, ruộng vườn, già-lam dân và súc vật…, do là thể nó chỉ cuộc của chùa đương xứ, không đồng với các chùa nơi khác chỉ ở đó thì được thụ dụng tại đó, chứ chẳng được thông đồng chia bán, nên nói lặp lại hai chữ Thường trú.

2-Thập phương thường trú: như tứ sự cúng dường trong chùa mà chúng tăng thực dụng hằng ngày, dù thể nó thông đồng tăng khách nơi mười phương (vì tới lui thết đãi nhau), nhưng chỉ cuộc ở nơi chùa bổn xứ.

Hai thể dụng trên, chung gọi là của tăng-kỳ vật(48).

3-Hiện tiền hiện tiền, nghĩa là, chúng Tăng hiện diện được lãnh tài vật của người cúng thí, vì chỉ cúng thí cho chư Tăng hiện diện tại chỗ chùa này.

4-Thập phương hiện tiền (dù chư Tăng các chùa khác mà có sự hiện diện tại đây), giả như, đồ đạc, vật mọn của năm chúng (Sa-di, Sa-di ni, Thức-xoa-ma-na, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni) đã qua đời, nếu chưa làm pháp Yết-ma thì, vật mọn ấy thể nó thông đồng thập phương Tăng, còn như đã làm pháp Yết-ma rồi thì, tài vật ấy thuộc về chúng tăng có mặt hiện tiền.

Hai thể dụng ấy gọi là của hiện tiền Tăng vật.

Ký: Sở tu là cần dùng (tiêu xài) nghĩa nó thông đồng cả ăn lẫn dùng. Khích dụng, khích: nuốt vào, nghĩa nó chỉ cuộc về uống và ăn, như y dược. Dụng: dùng, nghĩa nó thông đồng cả y phục, ngọa cụ, phòng xá…

Chẳng biết xét nghĩ chỗ đến, bướng rằng lẽ phải cúng dâng.

Câu trên, mất quan sát (ngũ quán); câu dưới, luận nghị si mê. Do vì không có cái huệ quán xét, nên chẳng biết cái phép tư duy. Bởi ngu si u ám, nên riêng sanh cái ý kiến ngây dại. Thế, không biết xấu, chẳng hổ ngươi, nên nhân đó mà phát sanh ra cả các thói ngã mạn, giải đãi, tham lam và tật đố.

Thổn: Kể đo nghĩ kỹ. Tư: tính lường. Vị ngôn: nói bướng, tức tự thốt ra lời nói phi nghĩa. Pháp nhĩ là lẽ phải vậy. Hiệp cung có hai nghĩa, 1-Thí chủ kia lẽ phải cúng dường nơi ta. 2-Ta đáng phải thụ người cúng.

Lai xứ: chỗ đến. Người thụ phải quán xét: kể ra, cơm trong một bát đây, kẻ làm ra cơm, công lao chẳng ít, người thí chủ bớt phần của vợ con, đến cúng cho ta, để gây ruộng phước, giới đức của ta nếu chẳng hoàn toàn, đâu nên thụ người cúng! Mặc dù các giới đức đều đủ, còn cần phải tu hạnh quán tưởng mới có thể tiêu dùng của tín thí.

Kinh Văn Thù Vấn nói “Với cơm của thí chủ, cũng chẳng nên ăn, nếu Bồ-tát không tư duy ngũ quán”.

Ký: Kinh Ca-Diếp chép rằng bấy giờ, có năm trăm vị tân học Tỳ-kheo tự kiểm thảo rằng “Chúng ta chẳng thể tinh tiến tu học gì, e không kham nổi tiêu dùng của tín chủ cúng dường, thôi chúng ta nên xin phép huờn tục”.

Đức Văn Thù Bồ-tát khen phải chấp thuận rằng “Như đã tự xét, chẳng thể tiêu rỗi được vật thực của thí chủ cúng thí, thà nên một hôm nọ mà mấy trăm Tỳ-kheo huờn tục còn hơn, chứ chẳng nên phá giới rồi mà, chỉ ở lại một ngày để thụ của người tín thí”.

Phật bảo Văn Thù rằng “Có kẻ lo tu thiền giải thoát, ta cho kẻ ấy được phép thụ vật thực của tín thí”.

Từ Ân pháp sư nói “Chẳng nuôi tằm, dệt vải mà mặc áo, không cày ruộng cấy gặt mà ăn cơm, cô chức nữ, anh nông phu nhọc đổ mồ hôi, vì ta nên đạo nghiệp, nên thí chủ đem dâng, đạo nghiệp chưa thành đâu tiêu được”.

Từ Thụ Thâm thiền sư quở rằng “Ngày nay có bọn sơ học Tỳ-kheo, chỉ thích ăn no ngủ kỹ, mặc tình qua ngày, còn than phiền là chẳng được mấy xứng ý. Chứ họ có biết đâu rằng người xuất gia, tỷ như một viên đá mài dao, nghĩa là, tất cả ai nấy (các thí chủ) cũng đều tự muốn lưỡi dao của họ bén (muốn được phước), nên đem dao đến mài trên viên đá, mài đi, mài lại (cúng thí nhiều lần), mỗi lưỡi dao của chúng đều được bén, mà viên đá của mình (người xuất gia) dần dần mòn mỏng (bị chúng lễ cúng mà tổn phước).

“Có bọn (cũng kẻ xuất gia) kia, lại còn trách cứ người ta (thí chủ) sao chả đem dao đến mài trên đá hắn, vì hắn tự hào đá của hắn có chỗ hay lắm”.

Lời của ngài Từ Thụ rất thiết đáng, tỷ như chích mũi kim vàng trúng vào chỗ bệnh của người (kẻ xuất gia ham cúng dường)! Giả sử, viên đá của mình đã cứng như ngọc kim cang (giới đức hoàn toàn), thì chẳng ngần ngại trách chúng chẳng đem dao đến mài.

Trí Độ Luận nói “Gẫm nghĩ cơm đây, từ vỡ đất cày bừa, gieo cấy, giẫy cỏ, cắt gặt, đạp lúa, giũ rơm, xay thóc, giã gạo, vo gút, xôi nấu đây mới thành ra cơm, công dụng nặng nề lắm. Kể ra, cơm trong một bát đây những người làm ra, thiếu điều đổ mồ hôi cục, mới thành ra được, nên chỉ một bát đây tuy chả bao lăm mà công lao mồ hôi quá nhiều. Đấy, làm ra cơm đây, công nặng tân khổ như thế”.

Ăn nuốt vào khỏi cổ rồi, liền thành đồ bất tịnh, lại không còn giá trị gì nữa, trong khoảng cách đêm, nó biến thành vật đại tiểu tiện, đó, nguyên là mỹ vị, ai cũng ưa thèm, liền biến thành bất tịnh, ai cũng gớm chả muốn ngó!

Hỡi các hành giả! Tự phải nghĩ nhớ món tệ thực như thế, ta mà tham đắm, phải đọa địa ngục, để rồi trả quả bằng cách nuốt hoàn sắt đốt đỏ…!

Từ địa ngục ra rồi, phải đọa vào súc sanh, như là trâu, ngựa, bò, dê, lạc đà, để rồi đền bồi nợ đời trước của thí chủ, hoặc đọa làm con heo, con chó, thường ăn đồ bất tịnh như phẩn uế.

Đối với vật thực, chúng ta cần quan sát như thế, sanh cái lòng tưởng chán lìa, nhiên hậu mới xiết thụ thực.

Đạo An pháp sư nói “Cơm của thí chủ giảm bớt phần mình nên quá thâm trọng, sở dĩ, một hột gạo mà có thể nặng bằng bảy cân, kẻ xuất gia mà không giữ giới, ăn của tín thí, sau khi chết rồi, đọa vào chốn Thái Sơn Phủ Quân, đốt hoàn sắt cho ăn, nấu nước đồng cho uống, chịu thống khổ như thế, kinh Pháp Cú đã kể bày”!

Chính chỗ bảo “Kẻ học đạo mà bất thông lý, đem thân trả nợ cho tín thí, trưởng giả tuổi đến tám mươi mốt, cây trong vườn chẳng mọc nấm nữa”. Bằng như một niệm sáng suốt lại, chợt cùng hợp với đạo lý, muôn lượng vàng ròng cũng tiêu được.

Ăn rồi, dụm đầu reo reo (ào ào), chỉ nói chuyện bậy nhân gian.

Câu trên nêu chung; câu dưới thích riêng. Do reo reo, chưa rõ ra lời chi,nên thích rằng “nói câu chuyện xằng bậy của nhân gian”.

Khích liễu: ăn no rồi. Tụ đầu: cùng nhau dụm đầu. Tạp thoại: lời nói của thế tục, chả dính líu gì với tiếng nói của kinh luật. Hãy trong không hay chính niệm, nên ngoài thốt lời bậy bạ. Không tu pháp quán huệ, đâu biết xét nghĩ. Chẳng riêng kiểm thảo ba nghiệp, thì, cái tâm sở điếu cử là những cái mà hạnh thô, tướng tục, tưởng bậy nói xằng do đó sanh ra.

Kinh Di Giáo nói “Hễ mỗi lời hí hước, thì tâm niệm tán loạn, dù đã xuất gia, hãy chưa giải thoát! Thế nên, kíp phải xả lìa cái tâm hí luận tán loạn, để cầu lấy cái vui vô vi tịch diệt. Muốn đắc cái vui tịch diệt, chỉ phải khéo thâu nhiếp cái phóng tâm, để diệt trừ cái bệnh hí luận(49)”.

Trường Lô Sách thiền sư tự cảnh văn nói “Nếu mà trộm bàn việc chánh trị của triều đình, riêng phẩm bình các quận huyện quan liêu, giảng năm đặng mất mùa trong cõi nước, luận thói tốt xấu của phong tục. Nhẫn đến, việc mọn của kẻ thợ, lái buôn, chuyện phiếm nơi chợ quán, giếng nước. Cơn binh qua ngoài bờ cõi, trận giặc giã chốn trung nguyên. Áng văn chương hay dở, phường kỹ nghệ sang hèn. Quần áo, uống ăn, hàng hóa, của cải. Khoe chỗ hay của mình, giấu việc tốt của chúng. Nêu bày điều lỗi trống, vạch chỉ chỗ vít kín. Đã trái phước nghiệp, vô ích đạo tâm. Du ngôn(50) như thế, đều tổn thật đức! Ngồi không luống tiêu của tín thí, ngửa mặt hổ với long thiên! Tội mới đầy chén, hoạn trọn ngập đầu!(51)

Sao thế! Chúng sanh bị lửa khổ(52) đốt cháy tứ bề(53), há khá rỗi yên, ngồi bàn vô nghĩa. Cổ Đức (thiền sư) còn rằng tự cảnh (răn mình), chúng ta là người hạng nào sao chẳng tự nghĩ!?

Ký: Huyên là nói lớn tiếng reo ồn. Điếu cử, có ba:

1-Cái thân điếu cử, nghĩa là, cái thân ưa đi dạo chơi, làm các trò hí hước, chẳng chút ngồi yên, thế là cái thân lau chau. 2-Cái khẩu điếu cử: miệng lưỡi lua khua, nghĩa là, ưa thích ngâm vịnh, giành cãi thị phi, vô ích hí luận, tán tỉnh chuyện thế gian. 3-Tâm điếu cử: ý thức tháy máy như là, tâm tình buông lung, thả niệm vướng víu lung tung, lo nghĩ làm bài vở, học nghề nghiệp của đời, bao điều ác giác quan(54)…

Đời nhà Tống tại chùa Quang Hiếu, ngài An thiền sư, khi ở trong giờ tọa định, thấy hai ông sư đứng dựa ngoài cửa sổ dưới hiên để nói chuyện với nhau, ban đầu thấy có vị thiện thần vòng tay nghiêng mình để nghe, giây lâu rồi bỏ đi nơi khác; xảy lại có ác quỷ đi đến tỏ thái độ khinh bỉ, khạc nhổ, lấy chổi quét dấu chơn của hai ông sư. Sau giờ ra định, gạn hỏi duyên cớ thì biết rằng hai sư ấy, ban đầu luận về câu chuyện Phật pháp, có thứ tự rỗng rãng; rốt sau nói về chuyện tư sanh trưởng dưỡng! Từ đó nhẫn đi, ngài An thiền sư trọn đời, chưa hề nói đến chuyện đời.

Luận nói “Có hai Bật-sô, cùng đi dọc đường, nói những câu chuyện phi pháp; bấy giờ có quỷ dạ xoa tên là Bất Tín, muốn hớp hồn của hai sư ấy!”
Phật dạy “Bật-sô khi đi trên đường, cần phải suy nghĩ việc lành, có hai điều kiện: 1-Nói những lời pháp ngữ. 2-Hoặc làm thinh như bậc thánh yên lặng; đi đến chỗ nghỉ, thuyết bài già-đà của Phật giáo”.

Người đời nay, trọn ngày rảnh ngồi bàn chuyện lăng xăng bậy bạ, hãy còn chẳng khỏi bị quỷ thần quở trách thay, mà muốn cầu các Ngài ủng hộ thì, đâu có thể được ru!?

Thế thì, một kỳ đua vui, đâu biết vui là nhân khổ.

Câu trên rõ quá lung vui, câu dưới rõ nguyên nhân khổ. Nghĩa là, đời nay lung tình thả theo cuộc truy hoan trong trường dục lạc, tức là tạo cái nhân khổ cho đời đương lai. Cái khổ nhân đã tích tập từ đây thì, cái khổ quả đưa đến. Nên nói “Tạo nhân chẳng ngay thì, kết quả quanh vạy, trả liền trước mặt, chết rồi trầm luân”, đây bảo thế chẳng.

Một kỳ: sự thụ thân của các chúng sanh, tuy rằng thọ mạng (mạng sống lâu) mà, hoặc dài hay vắn chẳng đồng nhau, song, đều là cái quả báo trong một thời kỳ.

Thế thì, một đời (một kỳ) rượt theo cuộc chơi vui, thực là, để rồi tự chịu khổ ương cả muôn kiếp!

Ký: Vui năm điều dục lạc, tức là tài, sắc, danh, thực, thùy. Cũng gọi ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nghĩa là, năm điều ấy hay khiến người sanh ra cái tâm tham dục, nên gọi là Dục; cũng là hay làm ô nhiễm chân lý, nên gọi là Trần. Sách Chỉ Quán nói “Ngũ trần chẳng phải là dục mà, trong đó, nó có cái mùi vị bị hành nhân năng sanh cái tâm tham dục, nên nói là ngũ dục”.

Trí Độ Luận 17 nói “Thương cho chúng sanh, thường bị ngũ dục làm khổ, thế mà, chúng cứ tham cầu mãi không thôi. Với ngũ dục, hễ cầu được lại càng hăng sướng, tỷ như bệnh lác được hơ lửa. Ngũ dục không ích gì, như chó nhăn cây đuốc lửa. Ngũ dục càng giành, như bầy chim giành thịt. Ngũ dục đốt người, như cầm đuốc lửa đi ngược gió. Ngũ dục hại người như đạp lên con rắn độc. Ngũ dục không thực, như nằm mộng được vật gì đó. Ngũ dục chẳng bao lâu, như tạm mượn trong giây phút. Người đời ngu lầm, tham đắm ngũ dục, đến chết không buông, làm cho đời sau, chịu vô lượng khổ!”

Kiếp trước theo trần (trần túc, tập quán), chưa hề xét lại.

Câu trước, rõ thuận theo tập quán trần tục. Câu sau, rõ mê mất nhãn quang trí huệ.

Bởi từ vô thỉ lại, chỉ một bề thuận theo cái tập tánh mê hoặc của tự mình, rượt mãi theo những cảnh vọng ảo của trần tục, cho đến ngày nay vẫn còn tưng bừng trong tâm khảm, chưa hề một niệm hồi đầu soi xét lại để biết là quấy thì, làm gì có thể siêng tu định huệ, để phủi trừ những tập tục mê hoặc kia, hầu ra khỏi cảnh trần lao.

Ký: Vãng kiếp là kiếp trước, ngày kia. Kiếp: thời kỳ cực dài(55) tức là từ kiếp vô thỉ đến nay. Trần, trần cấu: bụi nhơ, nghĩa là ô nhiễm, tức là các điều vọng trần, mê hoặc, tập quán, nó thường làm cho chân tánh tự tâm bị nhiễm nhơ, chẳng thấy được đạo, nên gọi là Trần.

Giờ, ngày lu lấp, tháng, năm chần chờ.

Câu trên bỏ mất qua ngày đêm. Câu dưới bỏ mất qua năm tháng. Yếm một: vùi lấp. Ta đà: luống mất ngày giờ. Nếu chẳng chuyên tu định học, huệ học, chẳng những mai một quang âm mà thôi, lại thực là luống mất trăm năm nữa.

Ký: Nói giờ ngày là cả ngày lẫn đêm. Thời là nói cả mười hai can chi(56). Quang là tam quang(57).

Tiêu xài quá nhiều, lợi chủ càng lắm.

Câu trên, là tự tiêu dụng. Câu dưới, là thí chủ vì cầu phúc, nên cúng dường không nhàm; mà kẻ thụ thí, phải sanh cái niệm biết tàm quý, biết tự lượng mà thụ dụng.

Rằng thụ dụng là thu nạp để tư nhuận nơi thân tâm bằng cách lung tình hưởng của thí chủ.

Ân phiền (quá nhiều) là bốn món cúng dường càng nhiều, ngoài trăm món mỗi một, lại thêm dư dả.

Thí lợi (lợi chủ) là cả tứ sự cúng dường, với bách nhứt sở tu(58). Quá nhiều (ân phiền), càng lắm (nồng hậu), cái danh chữ dù khác mà đồng nghĩa với nhau.

Ký: Ngài Huệ Hưu pháp sư, hơn ba mươi năm chỉ mang có một đôi giày, có rách thì chằm chắp, chứ không đổi bỏ, mỗi khi đi đường, gặp chỗ đất mềm bủn thì cởi xách mà đi chơn truồng; người ta hỏi sao thế? Ngài thường đáp rằng tín thí nan tiêu. Ngài từng dạy chúng “Các người ngày nay, với mỗi món thụ dụng, chưa đói đã ăn lặt vặt, chưa rét đã bận áo ấm, chưa dơ đã đi tắm giặt, chưa buồn ngủ đã đi nằm ngủ, đạo nhãn chưa sáng suốt, vọng tâm chưa diệt hết, thế thì làm sao tiêu nổi được của tín thí!?”

Ân: thạnh lắm. Phiền: nhiều lắm. Nồng: chẳng lợt lạt. Hậu: chẳng mỏng mẻo. Tứ cúng: ẩm thực, y phục, ngọa cụ, y dược. Bách nhứt là đồ đạc vật dụng của thầy Sa-môn để cần dùng hộ thân.

Trải lâu năm tuổi(59) chẳng toan bỏ lìa.

Câu trên, nói về thời gian; câu dưới, nói về tâm mê. Do tiêu xài quá nhiều, đắm mùi chẳng thôi nên đến đỗi lửng quên, đã trải qua từng bấy tuổi năm mà, chưa từng sanh một quan niệm chán nhàm lìa bỏ.

Ký: Nghĩ là toan liệu trước rồi sau mới làm, tức xét soi để đợi dịp tiện bề thi thố.

Ngài Chu Dung thiền sư nói “Vì chán khổ trần lao, cầu thoát đường sanh tử, thôi thức tâm, dứt vọng niệm, đoạn tuyệt hẳn cái tình cảnh phan duyên (sáu căn vín vướng với sáu trần), nên gọi là xuất gia; đâu nên húng hính theo lợi dưỡng, đành mai một cả bình sanh. Chỉ cần hai đầu(60) vẹt ra, chính giữa buông xuống. Gặp thanh gặp sắc, như trên đá trồng hoa, thấy lợi thấy danh, như trong mắt bị bụi. Phương chi, từ vô thỉ lại, không phải không từng đã trải qua rồi, cần gì còn khắn khắn tham luyến? Nếu nay chẳng thôi, đợi khi nào nữa!?

Chứa nhóm ê hề, tưng tiu xác huyễn.

Câu trên, súc tích những tài vật không kiên cố. Câu dưới, bảo dưỡng cái nhục thân như mộng hoạn. Nghĩa là, nhóm chứa tài vật không bền chắc của tứ cúng, để giữ gìn thân vật chất mộng ảo của ngũ ấm. Một mai cơn vô thường đến thì, của chứa cất kia dùng chi? Thân tứ đại phân tán, công giữ gìn ấy đâu còn!?

Nên Tịnh Trú Pháp nói: Với cái sanh chẳng thể bảo đảm mà, chỉ muốn kinh doanh cái sanh; với cái tư nó nhất định đến mà, chả biết đoái lo cái tử. Huống chi cái sanh mạng nguy kịch đây, nó hung hiểm, biến đổi vô thường trong một chốc lát bất ngờ thoạt chết!

Song, với nguyên nhân ác, đã nhóm chứa từ đây, thì với quả báo ác cũng khó trốn! Hễ, cái hình vạy thì cái bóng xiên đâu phải lời dối ru?

Ký: Tiền tài đồ vật, đều thuộc về năm nhà sau đây nên nói là không bền chắc: 1-Bị nước chìm trôi. 2-Bị hỏa hoạn cháy mất. 3-Bị đạo tặc cướp trộm. 4-Bị kiện đến quan lại được dâng. 5-Bị ác tử làm hư gia phá sản.

Ngài Vô Tác thiền sư nói “Người mà phước yếu (ít), tiền tài mạnh (nhiều) thì tất nhiên bị ương họa vì tiền tài; đức mỏng nhỏ mà lãnh trách nhậm to tát thì mau thành tai hại vì trọng nhậm! Người xưa, chỉ cầu cho cái tâm được thông đạt, chứ chẳng cần cho cái thân hiển đạt. Với người bực hiền, ta chẳng nên che giấu, mình mà được bực hiền, không nên khoe bày. Nếu được như thế, là tự biết cái mạng, hợp cùng cái đạo, tự bảo toàn được trọn một đời của mình vậy”.

Đức Đạo sư có dạy răn nhắc thầy Tỳ-kheo “tiến đạo nghiêm thân, ba thường chẳng đủ” (không tham nhiều dư).

Hai câu trên, răn bảo gắng cần, hai câu dưới, khai thị pháp huấn. Đức Như Lai là ngôi pháp vương cả tam giới, đấng Đạo sư của tứ chúng. Biết hết tánh người, xem theo căn cơ, truyền trao pháp lý, như hợp bệnh nào cho thuốc nấy. Thế nên lập thành phương pháp, chế ra giới luật, dạy bảo các hàng đệ tử, tu hành tấn đạo, cốt phải tinh chuyên cần mẫn, ít muốn, biết đủ, dùng ba sự để tự sửa mình. Ba sự là ẩm thực, y phục và thùy miên.

Vì ba sự ấy khiến người bị che tối, thành ra cái nhân duyên chướng ngại đạo. Nên Phật dạy thường cần chẳng đủ, mới hợp với đạo.

Ký: Đạo sư là Thầy hướng đạo dẫn đường chỉ ngõ cho chúng sanh, ra khỏi nhà lửa tam giới.

Kinh Tư Ích nói “Đối các chúng sanh, phát tâm đại bi, khiến vào chánh đạo, chẳng cầu trả ơn, nên gọi là Đạo sư”.

Kinh Báo Ân nói “Mở bày nẻo Niết-bàn, khiến đặng chân thường, chân lạc nơi cảnh vô vi, nên gọi là Đại đạo sư”.

Kinh Di Giáo, Phật dạy “Các ông Tỳ-kheo! Nếu muốn thoát ly mọi điều khổ não, cần phải xem ngay pháp tri túc, vì pháp tri túc, tức là chỗ giàu vui an ổn. Người mà tri túc, dẫu nằm mặt đất, cũng là an vui. Người chẳng tri túc, tuy ở thiên đường, cũng chẳng vừa lòng. Người chẳng tri túc, tuy giàu mà nghèo. Người mà tri túc, tuy nghèo mà giàu. Người không tri túc, thường bị ngũ dục lôi cuốn, làm cho người tri túc thấy mà xót thương!”

“Các ông Tỳ-kheo! Thụ món ăn uống, phải như uống thuốc, với ngon và dở, chớ muốn thêm bớt, vừa đủ nuôi thân để dứt đói khát, như ong hút hoa, chỉ dùng cái vị, chẳng tổn sắc hương. Tỳ-kheo cũng thế, chịu người cúng dường, vừa đủ dứt ngặt, chớ đặng tham nhiều hoại thiện tâm người.”

Lại nói “Các ông Tỳ-kheo! Tự rờ đầu mình, đã bỏ trau chuốt, bận áo hoại sắc, tay bưng bình bát, đi xin sự sống”.

Lại nói “Các ông Tỳ-kheo! Ngày thì lòng siêng, tu tập pháp lành, đừng cho mất giờ, đầu đêm, sau đêm, cũng chớ bỏ tu, giữa đêm tụng kinh, để tự tiêu tức(61), chớ quá ư ham ngủ, khiến luống qua một đời, không sở đắc gì! Phải nhớ lửa vô thường đốt cháy thế gian, sớm cầu độ mình, chớ ham nghỉ ngủ”. Húc: khuyên gắng. Nghiêm: chính.

Người nhiều với ấy, đắm mùi chẳng thôi, ngày qua tháng lại, thoạt đã bạc đầu.

Hai câu trên là tham lợi dưỡng. Hai câu dưới là lửng qua đời mình. Ôi! Mãi tham thế lợi, hãy còn chưa nghỉ, phút đã tóc bạc đầy đầu! Ngày qua tháng lại, như lửa quay tròn(62), tin chết(63) chẳng bao lâu lại hầu đến.

Ký: Với ấy là ba sự (ẩm thực, y phục, thùy miên) trên kia. Tạp: thoạt, như gió thoạt vậy liền đến. Như kinh A Hàm nói “Có bốn việc trước chẳng bảo với người là 1-Đầu bạc, 2-Già nua, 3-Đau ốm, 4-Chết”. Thế là, với bốn sự ấy, chẳng thể trốn lánh, cũng không trừ khước.

Kẻ hậu học chưa nghe chỉ thú, cần phải rộng hỏi bực tiên tri.
Câu trên, là nói người thiếu ích lợi; câu dưới, khiến nương trước được lợi ích. Nghĩa là, luống uổng sống già, mà không lời chi để tiếp dẫn kẻ hậu lai!

Muốn làm được sự lợi ích cho người thì phải lo cho phần tự lợi trước đã. Muốn được tự lợi thì, phải rộng hỏi bực tiên tri, hiểu suốt cái nguyên lý tâm tánh của Phật Tổ. Muốn được lợi tha thì, mình phải rõ thấu chân tông, rộng bày cái môn phương tiện của sự lý.

Rộng hỏi thì, chẳng phân biệt là người bực tôn hay bực ty, là không lấy làm hổ đến với kẻ thấp nhỏ hơn mình, chính chỗ gọi “y pháp bất y nhân” (căn cứ nơi pháp, phi cứ nơi người)
Rộng bày thì, bất luận là kẻ oan người thân (kẻ ơn người thù), không phân biệt kẻ sang người hèn. Chính chỗ bảo “Tâm từ thể chánh, pháp thí bình đẳng”.

Dẫu còn ôm ấp cái thành kiến bỉ ngã thì, mình với người đôi bên đều mất lợi.

Kinh Pháp Cú nói “Phàm là sự học thì, trước phải nghiêm chính lấy mình, nhiên hậu mới nghiêm chính cho người. Hòa mình vào huệ, ắt là trên tất cả.
Thân của mình chưa thể được lợi ích, đâu có thể làm ích gì cho ai! Tâm đã điều hòa, thể đã nghiêm chính thì, nguyện gì không được.

Tuy đọc được ngàn lời mà, chẳng thực hành thì ích chi, chẳng bằng chỉ nghe một lời mà, siêng tu được lợi ích. Dẫu đọc ngàn lời, không cầu lối thoát, chẳng bằng chỉ tỏ ngộ một lời, lìa hẳn tam giới. Dù đọc thuộc lòng một ngàn lời, chẳng gìn bi trí; không bằng chỉ nghe rõ một lời, mình cùng người đều được lợi.

Ký: Chỉ là tông chỉ của bộ kinh bộ luật. Thú, là chỗ sở qui của Tông. Tôn, là cao, là chuộng. Chỉ, là ý chỉ. Nghĩa là, kinh luật ma chỗ phải tôn sùng, phải chủ trương là ý chỉ, tức là chỗ qui thú cứu cánh.

Bác: rộng, lan rộng giao kết tham cứu. Vấn, là xin hỏi học thêm. Tiên tri là tiên giác.

Sự Sao chép: Cổ Đức nói “Rộng học là vì để cứu giúp cái nghèo về hiểu biết”.

Cao Tăng Truyện nói “Chẳng rộng học thì, lời nói không chỗ điển cứ, nên với sự học, chẳng chán sự rộng hỏi, hễ học hỏi được rộng thì là thông”.
Khổng Tử nói “Quân tử rộng học nơi văn tự, dón rút lại lấy lễ pháp, cũng khá dùng chẳng trái đạo vậy chăng? Dẫu sống mà nghèo nơi sự học là đứa nhụ phu(64), chết mà giàu nơi đạo học là người quân tử”. Thế được biết rằng, rộng học là giúp cho kiến thức khỏi bị nghèo thiếu.

Thầy Trang Tử nói “Người mà chẳng học, gọi là con thị nhục, học mà chẳng hành gọi là cái toát nang”.

Phất bạn: Chẳng trái đạo hạnh.

Toan rằng xuất gia, quí cầu ăn bận.

Hai câu đây là xâu kết văn trên, phát khởi văn dưới.

Tương toan, tức muốn, nghĩ, cũng là lời giằn gạn lại. Song, đã bỏ tình tục lụy đi xuất gia, vốn là lấy đạo làm trọng, chứ phi lấy ăn bận làm quí.

Ký: Ngài Đạo An pháp sư răn chúng rằng “Các ngươi đã xuất gia, bỏ tục từ vua, chẳng đoái tài sắc, không họp quần với đời, chả quí vàng ngọc, chỉ đạo là báu, khép mình giữ tiết, đành khổ hạnh vui phận nghèo, thân cận bực có đức, để tự độ mình, rồi ra độ người”.

II.A.1.h- Khải thị tam học

Phât trước chế luật, dựng mở kẻ mờ.

Câu trên, rõ năm thiên bảy tụ. Câu dưới, rõ khai sáng sơ cơ. Dựng: xây dựng. Mở: phát minh. Do Luật là môn học đầu tiên. Định Huệ, là nền gốc cả muôn lành.

Mông là mờ, tức là mông muội, nghĩa là, từ chưa lên ngôi Thánh (Thập địa Bồ-tát) nhẫn xuống, đều là kẻ mông muội (vì Tam Hiền còn trần sa hoặc, tứ quả Thanh Văn mới chỉ đoạn tư hoặc), huống chi là cả lục phàm phu nơi bạc địa ư!(65).

Phật trước chế luật, số là, bởi chúng sanh phiền não tưng bừng, tam độc bồng bột, điên đảo, loạn tưởng che mất ánh sáng trí huệ, tạo tác ra nghiệp sanh tử; thế nên đức Như Lai ứng hợp theo căn cơ, thi thiết giáo pháp, ban đầu, lấy giới Mộc xoa, để ngừa quấy dứt dữ, kế lấy pháp thiền định để chỉ tức tư lự (vọng tưởng), quên mất cái niệm duyên trần, sau đó, lấy trí huệ phá vô minh hoặc, chứng tỏ chân như.

Nên Tổ Nam Sơn Đạo Tuyên nói “Hễ cái nghiệp do nơi thân và khẩu phát ra thì, việc đề phòng cần ở nơi giới; còn tam độc có sôi nổi lên là, cốt do nơi thức tâm (thức thứ 6) nó sai khiến. Nên, trước lấy giới bắt, kế lấy định trói, sau lấy huệ mà sát nó, là cái lẽ thứ lớp phải vậy”.

Ký: Phật, tức là đức Bổn Sư Thích Ca Như Lai. Tiếng Phạm là Buddha (Phật-đà), dịch: Tri giả, cũng rằng giác giả, nghĩa là, tại nơi cội cây Tất-bát-la Bồ-đề, lảu lảu giác tri, sáng suốt tất cả các pháp tam thế số chúng sanh, số phi chúng sanh, hữu thường vô thường(66)… Ba giác tròn sáng cho nên xưng là Phật.

Ba giác: 1-Tự giác, là tự giác ngộ cho mình tỏ được tánh chân thường rõ vọng hoặc là luống dối,

2-Giác ngộ cho người vận lòng từ vô duyên(67) hóa độ cõi hữu tình, 3-Hạnh giác ngộ viên mãn, vì cả ba ấy đều đã cùng nguyên cực để, hạnh mãn quả viên.

Tiếng Phạm Vi-na-ya (Ty-ni), đây rằng Luật. Luật là phân phán, nghĩa là phân minh, lường xét cả các trường hợp khinh, trọng, khai, giá, trì, phạm(68).

Tiếng Phạm Pratimoksa (Ba-la-đề-mộc-xoa), dịch biệt giải thóat, tức “giới”, nghĩa là, với ba nghiệp (thân, khẩu, ý), bảy chi (thân ba, khẩu bốn), mỗi mỗi đều có giới để phòng ngừa điều quấy, để được riêng riêng mỗi mỗi giải thoát, nên nói biệt giải thoát.

Lại, khi thụ rồi, tùy theo trường hợp các điều sát sanh, thâu đạo, dâm dục, vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu, đều không tạo tác nữa, thế, riêng riêng mỗi nghiệp, đã chẳng gây nhân thì, riêng riêng mỗi điều đều không mắc quả báo, nên nói là “Biệt biệt giải thoát”. (biệt biệt tức chủng chủng mỗi mỗi hay món món).

Sáng (xây dựng) ban sơ bắt đầu, thành lập luật pháp, sáng tạo công nghiệp.

Ngũ thiên thất tụ rõ đủ ở trong Đại Luật, chính là hai trăm năm mươi giới pháp của Tỳ-kheo tăng; Tỳ-kheo ni thì ba trăm bốn mươi tám giới pháp.
Trí Độ Luận chép “Sư ni thụ giới pháp, lược thì năm trăm, rộng thì tám vạn điều luật”.

Quỉ tắc uy nghi, sạch như giá tuyết.

Câu trên, chỉ thị luật pháp; câu dưới, đặt lời tỷ dụ. Quỉ tắc, là quỉ phạm pháp tắc của luật. Người mà năng bẩm thụ pháp tắc ấy, tức là tiến ngay đến cái đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Uy nghi là với uy nghiêm, ta khá sợ, với hạnh nghi, ta khá kính.

Do thầy Tỳ-kheo vâng giữ đủ cấm giới, các giới được uy nghiêm, tự nhiên khiến cho người ta trông thấy khá sợ thì với đi, đứng, nằm, ngồi, dung nghi đoan trang, hình biểu đường chính; tự nhiên khiến người ta khá kính. Thế thì, trong nghiêm ngoài chính, chẳng bợn một mảy trần, nên được như giá sạch, như tuyết trắng.

Ký: Hai câu của bổn văn đây, là nói về cái thể của tịnh giới; bốn câu của hai văn dưới kia là, nói về cái dụng của giới điều.

Thôi giữ, làm phạm, buộc thu lòng đầu.

Câu trên, rõ giữ giới, phạm giới. Câu dưới, rõ công năng của giới đối với kẻ mới phát tâm.

Song, chỉ (thôi dứt) ác tức trì giới, tác (làm) ác là phạm giới. Chỉ, thì ba nghiệp (thân, khẩu, ý) không giong ruổi nơi vọng cảnh (lục trần), các điều ác chẳng sanh khởi; trì (giữ) thì giữ chí kiên trinh, tâm lìa tán dật (buông lung), thế là thúc liễm (buộc thâu). Chính là cái điều ước đầu tiên để nhập đạo, cái cửa ngõ ban sơ của định huệ, nên nói là sơ tâm (lòng đầu, là mới bắt đầu học giới).

Ký: Chỉ (thôi, dứt), thì các điều ác không sanh khởi, trì (giữ) thì đột-kiết-la(69) chẳng phạm. Lại, Chỉ thì tâm không vọng động; Trì thì chấp mà chẳng mất; Thúc (bó) thì niệm không buông lung; Liểm thì nước định đứng trong.

Phụ Hạnh nói “Có kẻ tự hào rằng tu Đại thừa thì cần gì phải chế giới ấy là sai lầm hẳn!”. Rằng bất chấp đấy, chính là trì giới mà không chấp nê. Nếu cho chẳng trì giới mà gọi là bất chấp, đấy tức là chấp phá rồi thì sao gọi là bất chấp được? Cái chấp trì còn chẳng có, thì cái vọng trì đâu còn.
Mảy múm điều chương, đổi các xấu tệ.

Câu trên, rõ về giới tướng; câu dưới, rõ về đối trị. Do vì giới là đủ cả ba ngàn uy nghi, tám vạn tế hạnh, nên nói là mảy múm điều chương; để trị tám vạn bốn ngàn các trần lao (phiền não), nên nói rằng đổi các xấu tệ.

Ký: Điều chương tức là các điều tướng vi tế trong hai trăm năm mươi giới của Tỳ-kheo. Cách: đổi, tức thoan trừ. Ổi tệ: xấu tệ, tức cả tam độc thập sử(70) các vọng hoặc thói tập nhiễm.

Các vọng hoặc, nói sơ lược là tam kiết(71); mười sử, nói rộng ra là tám mươi tám sử, nhẫn đến tám vạn bốn ngàn trần lao, vì nó thường gút trói chúng sanh lùa khiến trôi lăn nơi tam giới, chẳng đặng giải thoát.

Tam kiết: 1-Thân kiến, 2-Giới thủ, 3-Nghi kiết; lại thêm tham, sân, si, mạn, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, tức là mười sử. Mười sử đây, trải qua dưới tứ đế cả tam giới, hoặc tăng, hoặc giảm chẳng đồng, cộng thành tám mươi tám sử.

Số là, dưới Khổ đế của Dục giới, thì trọn đủ mười sử; dưới Tập Diệt hai đế, đều có bảy sử, nghĩa là trừ ra ba sử thân kiến, biên kiến và giới thủ; dưới Đạo đế có tám sử, nghĩa là chừa ra hai sử thân kiến, biên kiến, thì cả bốn đế đã kể trên hiệp lại là ba mươi hai sử.

Dưới bốn đế của Sắc giới và Vô sắc giới, đều như Dục giới, chỉ với dưới mỗi đế, lại trừ ra cái sân sử, vì chúng sanh ở hai giới trên, sân sử không hiện hành nữa.

Một giới có hai mươi tám sử, cả hai giới nhập chung lại cộng là năm mươi sáu sử; chung với ba mươi hai sử của dục giới, tổng cộng thành tám mươi tám sử.

Xem hai phụ biểu ở sau
Đệ nhứt Dục Giới

Dưới Khổ đế …
Dưới Tập đế …
Dưới Diệt đế …
Dưới Đạo đế …

10 Hoặc
7 Hoặc
7 Hoặc
8 Hoặc Thân. Biên. Tà. Thủ. Giới.
Tham. Sân. Si. Mạn. Nghi.
Tà. Thủ. Tham. Sân. Si.
Mạn. Nghi.
Tà. Thủ. Tham. Sân. Si.
Mạn. Nghi.
Tà. Thủ. Giới. Tham. Sân.
Si.Mạn. Nghi.

Khổ đế mười hoặc: 1-Thân kiến: Lấy khổ quả (cái thân) bằng năm uẩn giả hòa hợp mà mê chấp làm ngã kiến là thường là nhất. 2-Biên kiến: Nhận cái thể của ngã kiến sau khi chết, nó vẫn thường trụ, hoặc cho sau khi chết, nó đoạn tuyệt hẳn. Với thường và đọan ấy, đều chấp một bên, nên gọi biên kiến.

3-Tà kiến: Với cái thân hiện tại đây là cái quả báo đối với cái nghiệp nhân của đời quá khứ, thế mà lại bác đi, cho là không có lý lẽ ấy, nên gọi là tà kiến.

4-Kiến thủ kiến: Vì chấp mê lấy ba cái kiến giải trên đó, cho là chánh kiến. 5-Giới cấm thủ kiến: Mê chấp cái khổ thân hiện tại, làm mỗi mỗi khổ hạnh của tà giới, như giữ ngưu giới, cẩu giới, nằm trên gai, gieo mình vào lửa… tu khổ hạnh như thế làm cái nhân cho thân đây sau được sanh lên chỗ vui của trời hay người, nên gọi giới cấm thủ kiến. 6-Tham: Hàm yêu lấy năm cái kiến hoặc trên đó cho là phải là đúng. 7-Sân: Chấp lấy năm kiến hoặc đã kể trên đó, cho là phi là quấy mà nổi sân khuể. 8-Si: Vì chẳng biết cái lẽ năm kiến thức trên là mê hoặc, là phi lý, nên gọi là si. 9-Mạn: chấp lấy năm kiến hoặc trên cho là phải, là cao kiến mà tự hào, tự sanh tâm kiêu mạn. 10-Nghi: Vì đối với cái chân lý thiết thực của Khổ đế mà nghi là phi thiết thực.

Với mười hoặc (tức 10 sử) trên, năm kiến và nghi, chỉ lấy đế lý làm sở mê, nên gọi là cái hoặc về phần “thân mê”, còn bốn cái tham, sân, si, mạn ấy, lấy năm cái kiến hoặc làm sở mê, nên gọi là cái hoặc về “sơ mê”. Cả mười hoặc thân sơ đó, là vì mê muội cái chân lý khổ đế của Dục giới mà phát khởi ra mười cái phiền não (hoặc hay sử), nên khi chứng vào ngôi kiến đạo (Thanh văn thừa là ngôi Dự lưu hướng, Bồ-tát thừa là ngôi nhập tâm của Sơ địa), khi mà quán xét cái Khổ đế của Dục giới, đồng nhứt thời đoạn hết mười hoặc đã kể trên.

Tập đế bảy hoặc: 1-Tà kiến là với cái lẽ rằng “Vọng hoặc nó làm nguyên nhân cho sanh tử” mà lại bác bỏ đi, cho là không có lẽ ấy, nên gọi là tà. 2-Kiến thủ kiến là mê chấp lấy tà kiến để làm chánh kiến.

3-Nghi là nghi ngờ cái lý của Tập đế; còn bốn cái tham, sân, si, mạn ấy, là lấy ba cái hoặc trước làm sở mê mà sanh khởi ra bốn ấy.

Diệt đế bảy hoặc: Diệt đế là Niết-bàn, lại bác đi, cho là không phải Niết-bàn, ấy là tà kiến, đó là một hoặc. Chấp lấy tà kiến ấy cho là chánh kiến, ấy là kiến thủ kiến, đó là hai hoặc. Với Niết-bàn lại nghi, không có lòng tin quyết định, ấy là nghi đó là ba hoặc. Do ba cái thấy lầm đó làm duyên mà sanh ra bốn cái tham, sân, si và mạn. Vì bị mê muội không hiểu cái lẽ Diệt đế mà sanh ra bốn hoặc ấy.

Đạo đế tám hoặc: Vì mê không rõ cái lẽ của Đạo đế mà khởi ra tám hoặc. Với bảy hoặc trước của Diệt đế, gia thêm một cái giới cấm thủ, thành tám cái. Nhân có một phái ngoại đạo, tu về cái định Vô tưởng, nhận lầm cái định ấy là cái chánh đạo nhập Niết-bàn, ấy là do mê muội không hiểu lẽ của Đạo đế mà sanh khởi ra cái “Giới cấm thủ kiến” là phi đạo lại kể làm đạo đấy.

Nhẫn trên gồm làm 32 hoặc (32 sử) của Dục giới.

Đệ nhị Sắc Giới, Vô Sắc Giới

Dưới Khổ đế …
Dưới Tập đế …
Dưới Diệt đế …
Dưới Đạo đế …
9 Hoặc
6 Hoặc
6 Hoặc
7 Hoặc

Cõi Sắc và cõi Vô sắc, công có hai mươi tám hoặc ấy, là với các hoặc dưới tứ đế, đều chừa mỗi một sân hoặc, vì chúng sanh ở hai cõi này là Định địa, chứ phi như chúng sanh ở Dục giới là Tán địa, nên chúng sanh ở hai cõi trên ý thức không sanh khởi cái phiền não thô động là sân khuễ nữa.
Kể cả những hoặc sử dưới tứ đế suốt tam giới, cọng là tám mươi tám; giữa mười lăm tâm của ngôi kiến đạo đoạn hoặc ấy, nên nói là kiến hoặc của bát thập bát sử.

a-Thập ngũ tâm: Là trải qua những niệm số của ngôi kiến đạo bên Tiểu thừa Câu-xá tông, có tám nhẫn, tám trí cọng làm mười sáu tâm.

1-Khổ pháp trí nhẫn là cái trí đoạn các kiến hoặc dưới khổ đế của Dục giới. 2-Khổ pháp trí là cái trí đoạn khổ hoặc rồi mà chính là chứng đế lý. 3-Tập pháp trí nhẫn là cái trí đoạn các kiến hoặc dưới Tập đế của Dục giới. 4-Tập pháp trí là cái trí đoạn tập hoặc rồi mà chính là chứng đế lý. 5-Diệt pháp trí nhẫn là cái trí đoạn các kiến hoặc dưới Diệt đế của dục giới. 6-Diệt pháp trí là cái trí đoạn diệt hoặc rồi mà chính là chứng đế lý. 7-Đạo pháp trí nhẫn là cái trí đoạn các kiến hoặc dưới Đạo đế của Dục giới. 8-Đạo pháp trí là cái trí đoạn kiến hoặc của Đạo đế rồi, mà chứng là chứng đế lý. 9-Khổ loại trí nhẫn là cái trí đoạn các kiến hoặc dưới Khổ đế của sắc giới và vô sắc giới. 10-Khổ loại trí là cái trí đoạn kiến hoặc dưới khổ đế của hai giới trên rồi mà chính là chứng đế lý.

11-Tập loại trí nhẫn là cái trí đoạn các kiến hoặc dưới Tập đế của hai giới trên. 12-Tập loại trí là cái trí đoạn kiến hoặc dưới Tập đế của hai giới trên rồi mà chính là chứng đế lý. 13-Diệt loại trí nhẫn là cái trí đoạn kiến hoặc dưới Diệt đế của hai giới trên.

14-Diệt loại trí là cái trí đoạn kiến hoặc dưới diệt đế của hai giới trên rồi mà chứng là chứng đế lý.

15-Đạo loại trí nhẫn là cái trí đoạn kiến hoặc dưới đạo đế của giới trên. 16-Đạo loại trí là cái trí đoạn kiến hoặc dưới Đạo đế của hai giới trên rồi mà chính là chứng đế lý.

Trong mười sáu tâm ấy, mười lăm tâm trước là thuộc về ngôi “kiến đạo”, còn một cái tâm rốt sau tên là “ Đạo loại trí” đó, thì thuộc về ngôi “tu đạo”.

Nhẫn: nhẫn hứa, là ngôi đã tin nhẫn chân lý rồi, không sanh kiến hoặc nữa, nên lấy đó làm phần “đoạn đạo”. Trí: quyết định, là lìa hoặc rồi, chính là ngôi quyết định chân lý, nên lấy đó làm phần “chứng đạo”. Pháp: cõi Dục giới gọi là pháp đó, là vì lấy pháp ấy làm cái sở kiến hiện tiền. Loại: hai giới trên gọi là dục đó, là vì lấy cái pháp ấy để tỷ loại với Dục giới.

Với kiến hoặc của tam giới thì, ngôi kiến đạo của Thanh văn đốn đoạn; còn với “tư hoặc” thì phải đoạn dần dần từ phần, vì Thanh văn là độn căn.
Nhân vì pháp hệ, nên chép luôn “tư hoặc” ra đây, để tiện bề tìm hiểu.

81 phẩm tư hoặc.

Với thập hoặc (10 sử) phân làm cửu phẩm cho Cửu địa để mà đoạn đó. Cửu địa: Dục giới ngũ thú tạp cư địa là một; Sắc giới tư thiền thiên là năm, Vô sắc giới tứ không thiền là chín.

Cửu phẩm: Với tư hoặc của chín địa, phân làm thượng thượng phẩm, thượng trung phẩm, thượng hạ phẩm; trung thượng phẩm, trung trung phẩm, trung hạ phẩm; hạ thượng phẩm, hạ trung phẩm, hạ hạ phẩm. Nên thành số 81 phẩm.

Đấng Thánh giả, đã đoạn rồi “kiến hoặc” là quả Dự lưu; lại tiến lên đoạn từ một phẩm nhẫn đến năm phẩm tư hoặc của một địa ngũ thú tạp cư, là ngôi Nhất lai hướng; đến chừng đoạn hết sáu phẩm ấy rồi, là ngôi Nhất lai quả. Do vì còn ba phẩm hạ tư hoặc của Dục giới, nên còn phải một lần qua lại giữa nhân gian và sáu Dục thiên để tu đoạn. Kế đó đương đoạn ba phẩm hạ tư hoặc, là ngôi Bất hoàn hướng; đến chừng đã đoạn hết rồi, là ngôi bất hoàn quả, do vì chẳng trở lại sanh ở dục giới nữa. Kế đoạn dần dần 72 phẩm tư hoặc của tám địa của hai giới trên là ngôi A-la-hán hướng; chính sau khi đã đoạn hết 72 phẩm tư hoặc ấy rồi, là ngôi A-la-hán quả. Dịch Bất sanh, là do vì đã đoạn sạch hết rồi 81 phẩm tư hoặc, nên không còn trở lại thụ sanh ở trong tam giới nữa. Nghĩa là ra ngoài tam giới.

Nhẫn trên, là rút ở quyển 12 của bộ Câu-xá Luận.

Tám vạn bốn ngàn các trần lao lấy tham hành, sân hành, si hành và đẳng phần hành(72), đều đủ hai vạn một ngàn, cọng là tám vạn bốn ngàn.
Tam thiên uy nghi, bát vạn tế hạnh 250 giới pháp, lấy hành, trú, tọa, ngọa là bốn uy nghi ấy, đều có 250, hiệp lại là 1000, chạy vòng cả quá khứ, hiện tại, vị lai ba đời ấy, cọng lại là 3000; lấy 3000 ấy, phối với thân ba khẩu bốn, cọng thành hai vạn một ngàn; lấy hai vạn một ngàn ấy, lại đối trị cả bốn món phiền não là tham, sân, si và đẳng phần, cọng thành là bát vạn tứ thiên tế hạnh, ấy là để đối trị bát vạn tứ thiên các trần lao môn.
Tiệc pháp (pháp hội) Tỳ-ni, chưa hề gần gũi, liễu nghĩa thượng thừa, làm gì rành rõ!

Đây là lời nương nhau thừa tiếp văn trên phát khởi văn dưới.

Hai câu trên, với giới luật, chưa học tập. Hai câu dưới với kinh giáo không thể tỏ biết.

Tằng vị thao bồi: chưa hề gần gũi, là chưa từng năm thời kiết hạ nương Bổn sư, mười pháp tịch đến nghe học luật.

Giới là môn học đứng đầu tam tạng pháp môn ở trước định huệ, thế mà học lại toan vượt bực lớp thì làm gì rành rõ được giáo lý? Tỷ như với cửa ngoài chưa vào, thì làm sao quan sát được nội dung nơi nhà trên và trong phòng kín (buồng gói)?

Thế biết rằng với giới luật mà chưa được tinh nghiêm, huệ giải do đâu phát sanh thì, với tông chỉ “Vô lượng liễu nghĩa” làm gì phân rành, mở tỏ, chứng nhập được ư ?

Rằng liễu nghĩa, là các bộ kinh giáo Đại thừa, chính là lời nói quyết chọn rõ ràng, giải rộng cái nghĩa thực tướng của trung đạo một cách minh bạch, phi như các kinh điển Tiểu thừa, và bao thuyết “che tướng, kín ý, ngậm giấu” là mập mờ, bí mật hay huyền bí.

Ký: Ngài Trung quốc sư nói “Người mà tu học pháp Thiền Tông cần phải tuân y theo lời Phật dạy, với các kinh “Nhứt thừa liễu nghĩa” phải khế ngộ lấy bổn nguyên tâm địa, để rồi lần lựa trao truyền cho nhau cùng đồng với đạo Phật; chứ chẳng nên ỷ y nơi vọng tình của mình vì kinh giáo bất liễu nghĩa, để rồi làm cách hiểu bướng thấy càn, gây sự nghi lầm cho hậu học! Vì đã là mình và người đều chẳng lợi ích chi, lại phá hoại Phật pháp nữa! Tỷ như con trùng trong thân sư tử, nó tự ăn được thịt của sư tử (chứ phi con thú nào dám hại sư tử – chính đệ tử Phật làm hại pháp Phật) chứ phi thiên - ma vương, các phái ngoại đạo nào mà có thể phá diệt được Phật pháp.

Tỳ-ni pháp tịch: Tiệc pháp Tỳ-ni, là chỗ giảng diễn giới luật.

Luật dạy Thầy Tỳ-kheo nào dẫu tu chứng được tam minh lục thông(73) đi nữa, cũng cần phải nương theo Bổn sư để học luật đủ năm trường hạ lạp, nếu chưa thông rõ luật học, nhẫn đến trọn đời không được rời y chỉ nơi Bổn sư”.

Tư Trì nói “Luật chế rằng sau khi thọ giới Tỳ-kheo, luôn năm hạ lạp trước, cần phải chuyên học bộ luật cho được khế ngộ, nếu thông được các trường hợp sao là trì giới, sao là phạm giới, biện rành được sự của Tỳ-kheo, nhiên hậu mới có thể tập học các kinh luận; đời nay Tỳ-kheo vượt lớp bỏ học luật mà học kinh luận, đấy, lối tu hành đã mất thứ tự, thời không do đâu chứng nhập đạo quả được, tất nhiên, bị Đại thánh quở trách, rốt phi học đồ rồi”!

“Người đời nay, vừa mới thụ giới phẩm, liền cho nghe kinh, luận hoặc học tham thiền, thành thử, làm nhà Tăng mà với tế hạnh, uy nghi không hiểu một gì ráo. Huống lại còn khi dễ giới kiểm, kích bác Tỳ-ni, chê việc học luật là Tiểu thừa, khi kẻ trì giới là chấp tướng”.

“Nhân đó mà, hoang mê theo trần tục, buông lung thói ngu ngoan; vả lại, với giới mà có thể khinh được, thì sao ngươi đến đàn xin thụ? Với luật mà có thể hủy được, thì sao ngươi cạo tóc nhuộm áo hoại sắc?

“Thế thì khinh giới, tức toàn là khinh lấy mình, hủy luật; tức tự hủy lại mình; vọng tình dễ quen, chí đạo khó nghe, nên chi số vạn người xuất gia, khó được một người thoát tục vượt bầy. Xin rõ lời Phật dạy, không thể không theo ư!?

Đáng tiếc! Bỏ trống qua một đời, sau ăn năn khó vói!

Hai câu đây, là lời thương và than! Nghĩa là với luật kinh đã bất minh, tức tự bỏ mất giới đức của thân, lấy tâm huệ của tâm mà với huyền đạo(74) không nhân đâu tỏ ngộ được! Thế là tự bỏ trống qua cái đời của mình, đến khi con ma sanh tử đáo đầu (mắt lờ tóc bạc, gối mỏi răng long) thì, chừng đó, có ăn năn, đã chẳng kịp nào? nên nói nan truy: khó vói!

Ký: Luật là giới học, kinh là định học. Trên đó đã chỉ thị môn học rồi; dưới đây sẽ nói rõ về môn huệ học. Vì, với “đạo” là do nơi Bát-nhã diệu huệ, mới có thể tỏ hiểu được.

Với giáo lý, chưa từng để lòng, thì huyền đạo, không nhân đâu khế ngộ.

Câu trên, huệ giải (trí sáng hiểu) chưa đủ. Câu dưới, đốn ngộ (chứng liền tỏ) không do đâu.

Giáo lý, thuyên lý, gọi là giáo, sở thuyên của giáo nói là lý. Giáo pháp mà nói rõ về lý, tức là mười hai bộ kinh.

Nguyên bởi đức Như Lai ngài y nơi chân lý, thành lập ra lời nói, khiến cho chúng sanh y giáo tu hành, để chứng lấy chân lý.

Tứ Giáo Nghĩa nói “Nói cái lý năng thuyên, để hóa chuyển lòng người, nên nói là giáo.”

Hóa chuyển có ba nghĩa: 1-Chuyển đổi điều ác, làm điều lành; 2-Chuyển đổi điều mê mờ, làm điều giải ngộ; 3-Chuyển đổi tâm phàm làm nên tâm Thánh.

Nói rằng thuyên lý, là nói rõ cái lý chân đế và cái lý trung đạo. (thuyên: biện bạch rành rõ)

Huyền đạo, tức là tâm ấn của Phật Tổ, gượng mà nói thì là, cái “Đạo lý u huyền, vi diệu, tịch diệt vô tướng”

Nếu không lấy “giáo lý” của Như Lai để làm chánh nhân thì, chẳng do đâu đốn ngộ được cái “Vô thượng diệu đạo” của Phật Tổ.

Nên đức Đạt-ma từ phương Tây đến Trung Hoa, Ngài còn lấy bốn cuốn kinh Lăng Già để làm tâm ấn; núi Hoàng Mai, đức Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, khuyên học giả thụ trì kinh Kim Cang Bát-nhã; núi Thiên Thai đức Trí Khải, tụng kinh Pháp Hoa, chứng thấy vào hội Linh Sơn chưa giải tán; Tổ Khuê Phong chứng nhập vào kinh Viên Giác.

Nên sách Tông Cảnh chép “Hai mươi tám đức Tổ bên Tây Thiên, sáu đức Tổ tại Trung Hoa, nhẫn đến các vị Tổ như Mã Tổ, Nam Dương, Nga Hồ, Không San thiền sư…, các Ngài đều rộng thông kinh luận, trọn giác ngộ được tự tâm, với những chỗ khai thị cho đồ chúng, các ngài đều dẫn ra chứng cứ thành thực, hoàn toàn không bao giờ tự đem nơi hung ức ra đặt điều đặt chuyện chỉ bày vọng hoặc.

Thế nên, vẫn trải lâu tuế hoa(75) mà, chân phong(76) không suy đổ. Vì, lấy Thánh ngôn (Phật ngôn) làm định luật, chúng tà ngụy khôn đổi dời, dùng chánh giáo làm chỉ nam(77) nương bằng có chứng cứ.

Nhưng chớ chấp lấy văn tự trên nghĩa, tùy theo lời nói mà sanh ra nhận thấy, chẳng phải dò thấu ý chỉ dưới chân thuyên, họp tỏ nơi gốc chủ, thì cái trí vô sư(78) được hiện tiền, và đạo thiên chân(79) không mê muội.

Thế, biết rằng giáo pháp nó có cái sức trợ đạo, kẻ mới phát tâm tu học đâu thể tạm quên được ư!

Sở dĩ, từ trước các tiền Thánh, các nhà Tổ, đâu chẳng nghiên cứu cùng cực chí lý của tam tạng, để ấn khả nơi tự tâm, rồi ra xem xét theo phong tục mà khai hóa người đời.

Các học giả ngày nay, chẳng thể hoàn toàn được thế, lại khinh khi kinh giáo, là cái tâm gì ru!?

Dẫu là hạng người “đặng cá quên nơm” thì kinh luật có lỗi gì đâu?

Đức Như Lai kim khẩu thuyết ra, với một lời một chữ; dù trăm kiếp ngàn đời, còn chẳng đặng nghe thấy, nếu ta là hạng người vô duyên thiếu phước, huống nữa được thụ trì hiểu tỏ. Nên biết, giáo điển chẳng làm mê mờ cho người mà, chính tự người mê mờ giáo điển vậy thôi.

Tổ Khuê Phong nói “Môn hạ của các tông phái, đều có người thông đạt, nhưng đều yên phận theo chỗ học tập, nên lối thông suốt thì ít mà, chỗ cuộc chấp lại nhiều. Chỉ lấy theo cái lề vâng chịu cửa ngõ, rồi đều mỗi tự khai trương, dùng kinh luận làm can qua(80) rồi mãi lẫn nhau công kích. Tình ở nơi hàm thỉ(81) mà dời đổi, pháp theo nơi nhân ngã làm thấp cao. gây nên thị phi hoang mang, không thể giải quyết được! Kinh như dây mực, để nảy tánh ngay xiên, dây và mực phi khéo, mà anh thợ khéo ắt dùng dây mực để làm bằng; kinh luận chẳng phải là thiền, mà người tham thiền ắt phải dùng kinh luận làm chuẩn đích(82)”.

“Phải biết rằng Kinh là lời của Phật, thiền là tâm của Phật, luật là hạnh của Phật. Ba nghiệp Thân, khẩu, ý của Như Lai, vốn chẳng trái nhau.”

Chỉn bởi, người với pháp sái nhau, nên pháp cùng người thành bịnh! Các học giả hễ bỏ được một điều nọ, lại chấp một điều kia, tự làm điên đảo lấy mình!

Nếu là người học hiểu đến nơi đến chốn, quày muôn pháp trở về mình (ngoài tâm không pháp, tâm diệt pháp diệt) thì, nào có thị, nào có phi, nào có trái nhau ru!? (Là tự học giả phân biệt thiên chấp, chớ giới luật, kinh giáo và Thiền Tông đâu có phải, chăng, trái nhau).

Ký: Hai câu của bổn văn đây, là nói người mà chẳng có huệ học thì tức là không nhân đâu để đốn ngộ được huyền đạo. Thế thì, nhân học giới luật, mới rõ được giáo pháp; nhân giáo pháp mới rõ được đạo lý.

Hỏi: Đốn ngộ là cái tông của trực chỉ Thiền rồi, thế cần gì còn phải dùng kinh giáo để làm chỉ nam ư ? Vì tông này bất lập văn tự đấy mà!

Đáp: Há chẳng nghe rằng “Hiểu nghĩa bằng cách y kinh là kẻ thù của Phật ba đời. Còn nói pháp mà lìa kinh chừng một chữ, tức đồng ma thuyết” (thế, chấp kinh, lìa kinh, đều chẳng đặng cả). Lại nói “Người nay coi kinh xưa chưa khỏi trong lòng rộn! Muốn khỏi rộn trong lòng, cần phải xem kinh xưa(83).

Bảo Tạng Luận nói “Gương xưa chiếu yêu(84) tinh, yêu tinh tự lộ hình, kinh xưa chiếu vào tâm(85), tâm ấy tự tỏ sáng”.

Nếu biết tất cả pháp, vốn là tánh đức diệu dụng trong Như Lai tạng, thế, thì có chi là thị, có chi là phi, có chi là văn tự ư?

Mười hai bộ kinh: Đức Như Lai thuyết pháp trong bốn mươi chín năm, giáo pháp ấy phân làm mười hai phần mà, thống nhiếp cả ba tạng: 1-Phần khế kinh, 2-Phần trùng tụng, 3-Phần thụ Ký: 4-Phần già-đà, 5-Phần vô vấn tự thuyết, 6-Phần nhân duyên, 7-Phần thí dụ, 8-Phần bổn sự, 9-Phần bổn sanh, 10-Phần phương quảng, 11-Phần vị tằng hữu, 12-Phần luận nghị.

Nam Dương: Trung quốc sư. Nga Hồ: Đại Nghĩa thiền sư. Tư Không Sơn: Bổn Tịnh thiền sư.

II.A.1.k- Lỗi chẳng tu học

Kịp đến, năm tuổi lớn già, lòng dạ trống cao, chẳng chịu gần gũi bạn lành, chỉ biết khinh khi kiêu ngạo.

Hai câu trên, rõ cái ngã tướng, hai câu dưới, rõ cái mạn tướng. Lại, câu đầu sanh niên, tăng lạp cao mà chả có giới đức; câu thứ đó lòng cống cao mà không có đạo lễ nên nói là bụng trống. Chẳng khứng gần gũi là tự thị. Chỉ biết kiêu ngạo là lướt người. Hai cái thói đề cao và xấc xược ấy đều thuộc về cái tướng khinh mạn.

Song, cái mạn tướng nó có sáu thứ:

1- Quá mạn: Đối với trong pháp tương tợ, chấp mình là hơn người.
2- Mạn quá mạn: Nguyên người vốn hơn mình, mà cưỡng nói bướng rằng mình hơn người.
3- Ngã mạn: Ỷ thị mình hơn mà lấn lướt người ta.
4- Tăng thượng mạn: Nguyên mình chưa đắc đạo, mà nói dóc rằng đã đắc đạo.
5- Hạ liệt mạn: Vốn mình chả có tài năng gì mà lại tự khoác khoe khoang.
6- Tà mạn: Chấp trước cái thói tà kiến của mình để khinh lướt, khi dễ người khác.

Chừ đây, với sáu cái mạn kể trên thì, cái lòng cống cao và kiêu ngạo ấy, thuộc về cái mạn quá mạn, ngã mạn và cái hạ liệt mạn.

Ký: Luống tự tuổi già mà đức hạnh chả bằng ai cả, chỉ biết kiêu ngạo mà không có đạo phẩm gì khá tôn.

Niên là tuổi sanh, tức từ lọt lòng mẹ đến già. Lạp là giới lạp tức từ thụ giới Tỳ-kheo về sau. Thân phụ là thân cận. Lương bằng là thiện hữu. Cứ ngạo là chẳng khiêm nhường, tức ngạo khi nơi người.

Chưa làu pháp luật, trọn không hạnh kiểm.

Câu trên, mất giáo học, luật học. Câu dưới, mất thân giới tâm huệ. Vì chẳng khứng thân cận minh sư thiện hữu, thì, làm gì biết được giáo, luật để tu trì? Chưa biết tu trì thì, đâu có thể thu tóm thân tâm cho vén khéo?

Ký: Kinh giáo, là để phòng ngừa tam độc; luật giới, là để cấm thất chi tội. Vị am: Chưa biết. Trấp liễm: thu nhiếp.

Hoặc lớn tiếng nói càn, thốt lời không lễ độ, chẳng kính bực thượng tọa, trung tọa, hạ tọa,(86) chẳng khác nào tục Bà-la-môn hội họp, bữa ăn khua chén bát nổi tiếng, hễ ăn rồi trước là đứng dậy trước.

Hai câu đầu, quấy về khẩu nghiệp; hai câu thứ, quấy về ý nghiệp cũng lỗi mất uy nghi quỷ tắc nữa; hai câu rốt, quấy về thân nghiệp, cũng mất luôn qui củ. Do chẳng biết pháp luật, ba nghiệp không qui phục, nên gây ra cái điều quá thất ấy. Nếu hay thâu tóm lại thì, không sự chi mà chẳng xong.

Bà-la-môn: Tục sĩ, là một trong bốn tánh của nước Tây Vực. Tục lệ của họ là, chỉ trọng tuổi cao, chứ chả quí đức lớn, thành thử, không kính thượng, trung, hạ tọa, vì ai đến trước thì được tôn lên trước, kẻ tới sau thì phải ngồi sau. Khi tụ hội không qui củ trật tự, reo ồn lắm chuyện!

Các nhà sư mà không trấp liễm uy nghi, nên không khác gì với Bà-la-môn kia!

Ký: Tiếng Phạn Bràmana (Bà-la-môn, đọc đủ Bà-la-ha-ma-noa), dịch Tịnh hạnh, cũng dịch Phạm chí.

Tứ tánh: 1-Sát-đế-lợi, là dòng giống vua. 2-Bà-la-môn, dòng sang trọng. 3-Tỳ-xá, dòng buôn bán.

4-Thủ-đà, dòng nông nô.

Vô độ là không có pháp độ. Tụ hội là nhóm họp, như hoặc ngày tế tự mà họp, hoặc ngày tiết hội (87) mà họp, hoặc luận nghị mà họp. Vô thù là không khác.

Người xuất gia, lấy giới lạp làm cao, nên đức lớn; chứ chẳng luận sanh niên làm tôn trưởng.

Tới lui trái phép, toàn không tư cách nhà Tăng.

Câu trên, mất đạo pháp, câu dưới, uy nghi cũng mất luôn. Qua lại chẳng còn mảy mún quy tắc, như ngọc Khuê mất cái hình vuông, nên nói là quay giác (sái cách), lúc hành động, khi yên tịnh, chẳng đủ mọn mạy uy nghi, như dòng Bà-la-môn tụ hội, nên nói là toàn vô.

Ký: Quay: trái bề. Giác: vuông. Phương: pháp, đạo. Lui tới trái phép, là đặt để sái bề vuông. Thể của ngọc Khuê là trên tròn dưới vuông, là tượng trưng cái thể quy củ phương viên của thiên địa. Ngọc Khuê mà mất cái bề vuông, tức là phi ngọc Khuê; cũng như nhà Tăng mà trái phép tức phi nhà Tăng, nên nói là toàn vô.

Đứng ngồi tháy máy, động lòng niệm người.

Câu trên tự mất uy nghi, câu dưới, người mất tịnh niệm. Ba nghiệp chẳng cẩn thận, nên khi ngồi lúc dậy không chừng, lắm điều thô tháo, khua khún, bởi thế, khiến người động tịnh niệm.

Ký: Trung Chư, là ý thức lô xô lởm xởm, tánh tình không yên ổn, cử chỉ không đề đạm.

Ngài Từ Thụ Thâm thiền sư nói “Khiến người động niệm, dễ sanh ma chướng. Tỷ như “đông miệng nát vàng”(88), tâm mình nào vui. Dẫu làm phước nhiều, chẳng bằng tránh tội. Trong lòng người động niệm, mình mê muội chẳng biết. Ngày qua tháng lại, mặt úa thân gầy!”.

Chẳng còn mọn mạy quỉ tắc, chút đỉnh uy nghi, lấy chi làm mô phạm để thúc liểm kẻ hậu côn, lớp tân học Tỳ-kheo không nhân đâu bắt chước.
Hai câu trên, tự mất quy pháp, hai câu dưới, chẳng thể làm gương cho ai. Đã phần mình không còn quy pháp, có gì làm mực mẫu cho kẻ khác, thế nên kẻ lai học không do đâu học đòi phép tắc.

Ký: Tân học là sơ học. Hậu côn là hậu hiền, tức hậu học. Phõng Hiếu nghĩa như Thủ pháp. Sách nói “Chẳng gìn tế hạnh thì rốt lụy đức lớn”. Người Nho còn thế, phương chi kẻ xuất gia ư?

Vừa xét nhắc nhau, thì tự hào rằng tôi là sư ở núi.

Câu trên, người nhắc nên cho, câu dưới, mình tự khinh mạn. Nghĩa là, người hiền chính muốn lấy lời lành giúp thành nhau, mà lại tự tiện sanh ngã mạn, thành thử buông ra lời không biết hổ ngươi ấy!.

Ký: Rằng “Tôi là thầy núi” nghĩa là, ta đây là người ở núi, chỉ cần một câu thoại đầu(89)đủ rồi, chứ quản chi những sự kinh luật uy nghi tế hạnh cho phiền phức!

Ngài Pháp Xương thiền sư nói “Có một hạng người, chỉ ghi nhớ lấy một bụng cát đằng(90) (chữ nghĩa), rồi lên chưn, khua môi múa mõ, lời Hồ tiếng Hán(91) (cũng như tiếng Anh, tiếng Pháp), tự hào, rằng ta biết thiền, hiểu đạo, khinh dể người hiền, làm cái nghiệp của địa ngục vô gián. Một mai, mắt lờ ngươi tối, cái cảnh nghiệp nó hiện tiền, bấy giờ tỷ như con cua con còng sa vào nước sôi, thôi thì mặc sức queo ngoe rụng càng, và tay run run, chơn bủn rủn! Từ trước học đặng cái hoạt kế(92) gì đó, chừ đều vô dụng! Nếu nghe ai có kẻ vạch trúng việc trong bụng của hắn thì lòng giận phừng nổi, nói bướng rằng “sự ấy có dính líu gì với Phật pháp, hễ là đại ngộ thì có câu chấp chi nơi tiểu tiết”. Bọn ấy, in tuồng đem phân trâu sánh với gỗ hương chiên đàn, có nhằm gì đâu!”

Ngài Từ Giác thiền sư nói “Hoặc có người tự thị cái tánh thiên chân(93) của mình, mà bát bỏ hết cho là không nhân không quả, nói bướng là “Việc nầy chỉ từ trong bụng đem ra”, chớ họ không y theo địa vị tu hành. Sở dĩ, ông Thô Giải(94)pháp sư, chẳng thông giáo nhãn(95), ông Hư Đầu(96) thiền khách chẳng quý hạnh môn(97). Đó là phạm cái tội về bịnh thiên khô(98)! Hoặc có kẻ, cả thân thây đày đọa, đầy mặt mũi phong trần, ba ngàn tế hạnh trọn không, tám vạn uy nghi đều thiếu, hoặc thì quản lý việc người, gom thâu bổn đạo, thân thì rông trong thành thị, tâm thì nhiễm thói thôn quê; sở dĩ các ông thường tăng ở núi ở đồng, cho khỏi bị tiều phu nông phu chế giễu, các Thích tử ở thành ở chợ, lại mắc phải nho sĩ tục sĩ khinh khi. Đó đều là phạm cái tội lười biếng!”

Dưới đây, chỉ ra chỗ sở do không tế hạnh và lười biếng.
Chưa nghe Phật dạy tu trì, một bề lòng còn thô tháo.
Câu trên, mất nghe và tu, câu dưới, mất định và huệ.

Chưa nghe, học đến pháp luật thì làm gì biết được việc tu trì? Với giới và định chưa tu, nên đến đỗi tánh tình đồng vượn, ngựa (tâm viên ý mã).

Ký: Văn là văn huệ. Hành trì tức tu huệ. Thế, với cả ba huệ văn, tư, tu mà chỉ nói lên Văn, Tu là để gồm Tư huệ trong đó rồi. Ba ấy, đều nói là Huệ, nghĩa là, do ba pháp ấy đều hay phát sanh cái huệ vô lậu của bực Thánh; nếu không có cái huệ ấy thì, không thể đoạn hoặc vọng, chứng chân như(99) được.

Chỗ thấy biết mà tệ như thế là, bởi lúc đầu đi tu, tâm ưa lười biếng, mài miệt theo thói tham của và tham ăn.

Câu đầu thừa tiếp lời trên phát khởi lời dưới, câu thứ, lúc vào học đạo chẳng cần mẫn, câu rốt, vì tham lợi mà bỏ mất qua ngày.

Thấy biết như thế, là chỗ kiến thức theo tập quán đê hèn trên kia.

Bởi lúc đầu, lòng lười biếng… là do ban đầu vào đạo mà tâm không siêng, nên nói là lười biếng.

Chưa nghe Phật dạy tu trì, thành thử tham lam danh lợi, chẳng khứng gần gủi bạn lành, bởi thế, lần lựa qua ngày, cái lòng tạp nhiễm càng sâu, thói ác tập thêm lớn, nên khiến cái thấy biết như vậy. Chính chỗ bảo “Ban đầu chẳng gặp đấng tác gia(100)” đó vậy.

Ký: Nhung: biếng trễ. Thao: tham tiền tài. Thiết: tham ẩm thực.

Kinh pháp diệt tận ghi lời Phật tiên tri rằng “đến cái thời giáo pháp muốn diệt, các vị ma vương trá hình làm Sa-môn, làm hoại loạn đạo pháp của ta, chúng mặc quần áo theo kiểu, màu của thế tục, ưa sắm cà-sa rất tốt bằng hàng lụa ngũ sắc. Không thực tu theo giới luật, với nửa tháng, nửa tháng dù rằng tụng giới bổn, mà chán mỏi trễ lười, chẳng muốn chăm nghe, không thích đọc tụng kinh luật.

“Dẫu có đọc tụng, chẳng biết trật chữ, phân câu, lại cưỡng cho là phải, chứ không cần hỏi han người biết rành. Chỉ biết, phách lối cầu danh, luông tuồng thả lội, lấy làm vinh quí, để mong người ta cúng dàng.

“Sanh mạng cuối cùng, chết rồi sẽ đọa xuống địa ngục vô gián, rồi ra, đâu chẳng trải qua, lội lại hoặc làm người trong tội ngũ nghịch, hoặc làm ngạ quỉ, hoặc làm súc sanh; mãi vô biên hằng sa kiếp số, chịu hết tội ấy rồi, mới được xuất sanh làm người khỏi tội mà phải ở nơi ranh bìa của cõi nước là chỗ không có ngôi Tam bảo”.

Xem như lời Phật đã sấm ký “Nửa tháng nửa tháng tụng giới, còn chẳng muốn nghe”, thời đại ngày nay, tụng giới đã ít lần, huống nữa đặng lóng nghe! Hởi ôi! Cái hiện trạng của chánh pháp đã sắp diệt!

Đời xưa, thuở nhà Tề, ông Tăng Vân trú trì Bửu Minh tự nơi thủ đô Nghiệp Hạ, lấy cái giảng diễn được nổi tiếng, và được xếp đặt luôn chúng lý.
Với ngày 15 tháng 4 là thời tụng giới bổn, tăng chúng tề tựu; ông Tăng Vân ngồi đầu bàn chủ tọa, đối chúng, báo cáo rằng “Giới luật là vốn để đề phòng điều phi pháp thì mỗi người ai tụng cũng đặng, cần gì mỗi nửa tháng nghe hoài; chừ nên đề cử một Đại đức lên pháp tọa, lập danh đề giảng nghĩa, khiến cho kẻ hậu sanh được mở mang giác ngộ là có ích hơn”.

Cả chúng không dám phản kháng, thành thử bỏ việc tụng giới. Đến mờ sáng, rằm tháng 7, bỗng nhiên, ông Tăng Vân đâu mất! Chúng đạo đều tứ tán ra đi tìm kiếm khắp nơi, mãi lâu mới thấy được ông nơi gò mả xưa cách ngoài chùa chừng ba dặm mà máu me chảy ướt cùng mình!.

Chúng hỏi duyên cớ gì? Ông thuật lại rằng “Thấy một viên mãnh sĩ, tay cầm con dao lớn, xẳng tiếng quở trách rằng “Sư là người bực nào, dám bỏ lễ Bố-tát, lại quấy sung việc thụ nghĩa?”. Liền lấy dao cắt cứa vào thân tôi, quá đau khó chịu!”

Chúng nhân bè đem về chùa; từ đây ông Tăng Vân hết lòng thành sám hối, trải qua mười năm, chí thành tận kính, thuyết giới bố tát, đọc tụng các kinh, giữ làm cái công nghiệp thường tu.

Đến ngày lâm chung, ai cũng đều nghe thấy có mùi thơm lạ đến rước, ông vẫn vui tươi mà tịch. Đương thời ai cũng khen là răn mình, đổi lỗi hiện đời, chẳng sa xuống lớp hèn.

Lại, chùa Đại Giác có ông Tăng Phạm, là bực giới đức thanh cao, thường thường đến ngủ nghỉ nơi chùa khác. Với bữa rằm, chúng tăng đề nghị và chấp thuận đình lễ Bố-tát, đưa lên một ông Sư lập đề diễn nghĩa. Bấy giờ, có một Đại đức lên pháp tọa, trình bày rằng “Lập luận pháp tướng, dễ hiểu sâu được ý nghĩa của Phật, nhọc chi phải bố tát, vì là chúng tăng đã thường nghe rồi”.

Chợt thấy có một vị thần, thân cao hơn trượng, tướng mạo uy mãnh hãi người, tay chỉ vào Sư thụ nghĩa rằng - Nay là ngày gì? - Dạ, ngày Bố-tát.
Vị thần liền dùng tay đè đầu, kéo xuống dưới tọa, thoi tát gần chết! Kế đó, vị thần cũng hỏi một Thượng tọa nữa, đáp cũng như ông trước. Vị thần cũng đè đầu, kéo xuống, đánh thoi như thế, khiển trách luôn đến hai, ba ông sư rồi, vị thần buông tay, đùng đưa bước ra, biến mất. Đương thời, tại tọa kẻ đạo người tục cùng đủ thấy nghe.

Sư Tăng Phạm đã thấy nghe tận mắt, do đó mà càng thêm tự gắng cả đời, nào là Tăng sự, nào là chuyện riêng của mình, cũng không thuyết dục(101). Nhẫn đến khi có bệnh nặng, không thể chỗi dậy, ngồi xe, còn rước một vị tăng về phòng mình, để cung kính thuyết giới.

Thời đại ngày nay, các ngài thiên về sự cao chuộng học kinh, học luận, học thiền mà, khinh dể giới luật đó. Xin xem sự tích trên, rồi tự nghĩ nhớ lấy!.

Lễn mễn nơi nhân gian, thành ra thưa vụng, quê mùa, chẳng ngờ cốm rốm già hủ, chạm đến sự chi, ngơ mặt vào vách.

Hai câu trên, lội theo thế tục nên quê mùa, hai câu dưới, già suông, chứ không học thức gì. Lại, câu đầu là giao thiệp, xông ướp lấy mùi đời, câu kế đó là đã thành tập quán, câu ba là thoạt đã đến suy già, câu bốn là cái vô minh hoặc ngày càng che tối.

Số là, vì không lo học tu theo đạo nghiệp chân chánh, chỉ mải miết luông tuồng buông thả, ngày càng giong ruổi chuyện thế, vín níu cảnh trần, buông lung sáu tình(102), nên đến đỗi lòng nết thành ra đần độn, thói nhiễm ngày càng sâu đậm, mà không có sức quán chiếu thì đâu có biết bốn hiện trạng đổi dời, bỗng chốc cái tướng suy già đã đến mà, nẻo lòng bất thông, trăm việc chả hiểu một nào, chạm đến vật gì đều thành bít lấp như người day mặt vào vách(103).

Những người ấy, đều bởi chẳng khứng rộng hỏi bực Tiên giác, nên khiến đến già, thành ra cốt đổng(104) (xáo lộn,).

Ký: Nhẩm nhiễm, nghĩa như tán mạn (lần lựa) xâm tầm (buông thả, không tự kiểm thảo).

Lủng chủng, là chơn đi mà bước không tới trước được, vì thân thể suy bại. Hủ, tức là suy hủ, chính chỗ gọi “Tuổi đã già hủ mà, không có 3 thứ mùi, luống uổng cái kiếp sanh và tử, bỏ không qua một đời!”.

Không ba thứ mùi, là ví như cây mía ngọt mà đã bị ép hết nước rồi, cái xác bã không còn vị mùi gì nữa. Ôi! cái tuổi trẻ sắc tươi, nay đã bị cái già hủ nó ép không còn ba món vị là 1-Không thể tụng kinh giải nghĩa; 2-Không thể ngồi thiền tu quán; 3-Không thể xiết việc nhọc và làm phước.

Tứ tướng: bốn hiện trạng là: 1-Sanh ra; 2-Ở đời; 3-Dị: hình sắc khác lần, 4-Diệt: chết mất.

Cốt đổng, Mặc Đàm nói “Các ông già ở núi La Phù(105) ưa dùng các vị ăn uống nấu chung lộn làm một, là tên của một món ăn). Ngày nay, người thế tục nhiều nơi mượn dùng cái danh vị đó, như là gọi nấu xá bần, nấu kiểm. Cốt đổng: bún lộn xáo, xáo lộn bún. Chính là nói già lẫn, lộn đầu lộn đuôi.

Hậu học có thưa hỏi điều chi, cũng không lời gì dẫn dắt, dù có bàn nói, chẳng nhằm điển chương nào!

Hai câu trên, người mất nhờ nhuận ích, hai câu dưới, lời mình thốt chẳng quan thiệp với sách.

Đã là chạm việc mặt vách, thì, đem chi để chỉ vẽ cho hậu côn, dù có nói ra một lời nửa câu gì, cũng chả ăn nhập vào điểm mô nào của Phật Tổ.

Thế có khác nào với câu “chẳng thấy con hạc già dưới nước” ru!

Ký: đức Như Lai nhập diệt chưa bao lâu, có một thầy Tỳ-kheo đọc lộn bài kệ trong kinh Pháp Cú như vầy “Người mà sống trăm tuổi, chẳng thấy hạc già nước, chẳng bằng sống một ngày, mà thấy được rồi đó”.

Bấy giờ, ngài A-nan Tôn giả vừa nghe rồi, bùi ngùi than rằng “Chánh pháp của Như Lai diệt sao chóng ru?” Rồi bảo Tỳ-kheo kia mà cải chính rằng:

Như lời Phật thuyết thì, “Nếu người sống trăm tuổi, chẳng thấy pháp sanh diệt, chẳng bằng sống một ngày, mà được thấy rồi đó”.

Tỳ-kheo kia về chùa, đến nói với Thầy nghe lại câu chuyện trên, Thầy y bảo rằng “A-nan già cả, nói hay sai lầm, chẳng nên tin theo, ngươi phải đọc lại như trước”.

Xét, thuở xưa, đương thời chánh pháp mà hãy còn sai ngoa thế đó, huống chi ngày nay cách Phật đã xa, mà nếu chẳng gần gủi thầy hay bạn giỏi mà có thể thốt lời có quan thiệp với điển chương được ư!?

Hoặc bị lời chúng khinh, liền trách hậu sanh sao vô lễ, lòng giận phừng nổi, nói lấn lướt người.

Câu đầu, không đức bị khiển trách, câu hai, chẳng tự xét lỗi mình, hai câu dưới, lòng nổi sân thốt lời độc, tổn thương người (như chưởi, mắng, rủa…!)

Lời nói đã chẳng nhằm kinh điển thì, có lạ gì bị người ta khinh rẻ! Chẳng tự xét lỗi mình, trở lại trách cái quấy của người. Một phen lửa giận phực lên, không chi chẳng cháy ráo (như một niệm sân tâm nổi lên, trăm vạn cửa chướng đều mở!).

Ký: Sân: giận, là cái hơi giận phừng phừng xông trào lên. Phẩn: hờn, là đối với kẻ làm nghịch ý mà căm hờn. Lại, hờn người ta là sân, tự hờn lại mình là khuể. Hận: hờn căm căm chứa kết trong lòng. Khuể: hờn người không theo ý mình.

Ngài Đạo An pháp sư nói “Đối với kinh, đạo, mình đã bất thông, với giới đức lại toàn chẳng có, tất nhiên, bị bằng hữu xì hơi mũi cười giễu, bạn đồng học bỏ rơi, người xuất gia mà như thế là, luống uổng mất tuổi sống dưới vòm trời!”

II.A.1.l- Nghiệp quả thời thục

Một mai, bịnh nằm tại giường, các khổ buộc ràng ép ngặt! Sớm tối lo nghĩ, trong lòng hồi hộp!

Hai câu trên, cái thân bị khổ, hai câu dưới, cái tâm bị khổ! Cái thời Dị thục(106) đã đến, thân tứ đại trái thường hễ một đại chẳng điều hòa thì, cả trăm mạch và gân đều giựt rút! Nép đầu xuống gối, đã nghĩ lại lo, thì ra, không có một điều lành gì khá ghi, thôi thời, bó tay chịu chết xuống cửa Hoàng Tuyền, chứ có ngờ gì nữa, thế, há chẳng bối rối lo sợ ru?

Ký: Hoanh: buộc cột, Triền: trói ràng. Bức bách: là dường như bị xua đuổi quá gấp ngặt. Hiển tịch: sớm mai và xế chiều. Tư thổn là suy nghĩ xét đo. Hồi hoàng là mờ rối e gấp!

Trước đường mờ mờ, chả biết đi đâu. Từ nay mới biết ăn năn lỗi, như đến khát mới đào giếng(107) sao kịp!?

Hai câu trên, chẳng biết sẽ đi đến chỗ nào, hai câu dưới, chừ vói ăn năn chẳng kịp!

Lục đạo như đường hiểm nạn, sanh tử như đồng mênh mông, chẳng biết chỗ sanh lai, đâu biết chỗ tử khứ (sanh bất tri tòng hà xứ lai, tử bất thức tòng hà xứ khứ), ngày trước chẳng sớm tính toan, đến giờ rồi ăn năn sao kịp?

Phật ngài giác ngộ cho rằng “Người ta vì si, nên mới có sanh tử. Kẻ nào là si? Vốn từ trong si (vô minh vi phụ, tham ái vi mẫu) mà sanh lai, đời nay lại vẫn tạo si (cũng vô minh cũng tham ái) nữa, tâm đã không giải thoát, không khai ngộ, nên chả biết sau khi chết sẽ thú hướng đến chỗ nơi nào?”

Chính chỗ bảo “vị tri hà vãng”.

Ký: bổn văn đây, câu đầu: tam đồ, lục đạo quá rộng rình không bờ mé. Câu thứ hai: cái tâm thức nó chẳng biết chỗ để đi. Câu thứ ba: đến lúc cuối cùng mới ăn năn tội khiên từ trước. Câu thứ tư: lập lời dụ để cho rõ ra. Kinh Bách Dụ nói:

“Thuở xưa, ở ngoại quốc có một kẻ bần cùng, giả làm tiếng con oan ương kêu giống hệt, anh học giả làm tiếng chim ấy kêu là, muốn để bẻ trộm hoa sen. Liền vào ao sen của vua, ứng tiếng kêu Oan ương! Oan ương!

Người giữ ao nghe mà sanh nghi, hỏi “Thứ gì kêu trong ao đó?” Gả bần nhân hốt hoảng vấp miệng đáp rằng “Tôi là con chim oan ương” - Ủa? Oan ương sao biết nói tiếng người!? Chết! Chú nầy giả oan ương kêu để trộm hoa sen đây mà.

Kẻ giữ ao bắt trói, đem đi để nạp lên vua. Đi được nửa đường anh chàng lại ứng tiếng làm chim oan ương kêu Oan ương! Oan ương! Người giữ ao phẩm bình rằng:

- Sao khi nảy, tại trong ao mà tôi hỏi đó, chú đã không kêu như thế, lại ứng tiếng rằng “Tôi là chim oan ương”, bây giờ còn làm cái cách đó ích gì đâu?

Vả lại, chính chim ấy kêu như thế này Oan (là con trống kêu) ương (là con mái kêu) Đó là trống kêu, mái ứng, nên mới gọi là oan ương, vì mỗi con kêu mỗi tiếng; còn đây chỉ một mình chú là đàn ông mà lại kêu luôn cả hai tiếng oan ương như thế, trách sao không lòi mặt nạ của trò bịp! Thực “có gian mà không có ngoan”.

Kẻ mà giàu cái tánh chất ngu si ở thế gian, cũng lại như thế, vì trọn đời tạo đủ các nghiệp ác, chả có một phút nào tập tành tâm hạnh khiến cho hiền lành, để đến khi gần đất xa trời, sắp xuống miệng lỗ rồi mới nói cái câu toàn vô hy vọng rằng “ta nay muốn tu phước thiện”.

Thì ra, bấy giờ đây, quỉ vô thường, lính ngục tốt sắp bắt đem đến nạp vào chỗ Diêm-la vương, thế, chừ đây, mặc dù có muốn tu phước hành thiện gì, cũng chẳng cứu vãn chi kịp được! Tỷ như anh chàng giả chim kêu để đánh lừa trộm hoa sen kia, bị chúng lôi họng gần đến chỗ vua, chừ mới lấy hai cánh tay làm như vỗ cánh, đập đuôi rướn cổ lên mà kêu rằng Oan ương! Oan ương! Thì quá muộn rồi!

Giận mình sớm chẳng dự tu, tuổi xế (già) nhiều điều quấy lỗi, khi sắp chết đi, tay quơ quào, chơn run giựt, sợ hãi dớn dác!

Hai câu trên tự trách lại mình. Hai câu dưới mất sức tự chủ. Vì ngày trước chẳng chừa ba độc, đến lúc bóng xế tuổi già, tội chất như núi. Thuở sanh mạng cuối cùng, cái cảnh ác nghiệp nó hiện ra trước, giờ đây, ví dẫu miễn cưỡng có làm chủ trương đi nữa, cũng khó khỏi cái tấn kịch phách bố chương hoàng!

Chính là, ngày trước gót chơn chẳng vững (chả có lập trường tu học gì chắc chắn), nên chi, lúc thần thức sắp lìa thân nầy để đi thụ thân khác thì, tay run, chơn rủn!

Ký: Quá cửu: quấy lỗi tức tội khiên. Hoác: tay chơn tráo trớ lật úp, vặn trái. Huy: cánh tay bị gân giựt lay động. Hoác: cánh tay bị rút gân lật trái. Nghĩa là, như trong khi lật bàn tay, là nói rất chóng mau. Phạ bố chương hoàng là quá ư e gấp sợ sệt!

The lủng sẻ bay, thức tâm theo nghiệp. Như người thiếu nợ, ai mạnh kéo trước. Tâm dệt nhiều mối, chỗ nặng mích sa.

Hai câu trước thân tâm theo nghiệp, hai câu thứ nghiệp mạnh lôi tâm, hai câu sau quả báo thiên lệch, do tâm tạo nặng.

Lại, câu đầu tỷ dụ cái quả nghiệp (báo thân) của đời trước nay nó đã tàn tạ rồi. Câu thứ hai tâm theo nghiệp đi. Hai câu ba, bốn ví dụ hễ nghiệp nào mạnh hơn, phải trả quả trước. Câu năm vọng niệm phi một. Câu sáu quả báo theo tâm mà đọa.

Song, nghiệp mà thiện hay ác, mạnh yếu bởi tâm; với chỗ mà chịu quả báo, nặng nhẹ tự chia. Nghĩa là, cái tâm mà cấu uế trọng trược, tức nhiên phải đọa nơi tam đồ; cái nghiệp lành thì nhẹ bổng, là siêu thăng lên cõi người hoặc cõi trời.

Nếu căn cứ trong pháp xuất thế gian thì, cõi nhân, cõi thiên, vẫn còn là quả báo hữu lậu, cũng gọi là đọa; chỉ có kẻ mà nhất tâm chẳng sanh vọng niệm, mới giải thoát được cái cảnh luân trụy tam giới.

The lủng sẻ bay, sẻ: chim se sẻ. Đại luận nói “Con chim sẻ chun vào trong cái bình (lọ), người ta lấy tấm vải the bịt miệng bình, bất ngờ tấm the có rách lổ, sẻ chun ra bay đi mất, là thức thần theo nghiệp giong”.

Chừ lấy cái bình, dụ thân tứ đại. Tấm the dụ mạng căn. Chim sẻ dụ thức thần. Thức thần tức là cái thức tâm.

Nhân vì, nương nơi cái nghiệp thiện hay ác của đời trước đến chịu cái thân quả báo của đời nay; tỷ như chim vào bình bị nghiệp nó ràng buộc , như tấm the bịt miệng bình. Khi mà thân quả báo sắp tàn tạ, liền phải theo nghiệp. Như the lủng, chim bay đi, mà đi ắt cũng theo nghiệp, nên gọi là tùy tẩu.

Do thức tâm nó bị buộc lấy cái dây nghiệp (mười thiện, hay mười ác) tại nơi sắc bình (ngũ ấm thân) mà, không chỗ nào (ba giới, sáu đạo) nghiệp nó chẳng đến. Cái dây nghiệp chưa dứt thì, đi rồi còn trở lại (luân hồi), bình bể dây dứt (rời thân phận đoạn sanh tử) thì, đi mà không trở lại (biến dịch, chớ không luân hồi).

Nghĩa là, hiện nay, thân tứ đại hoại diệt, gọi là đi, để thụ cái thân đời sau, gọi là trở lại. Người mà tiến đến quả Vô học (La-hán), mới gọi là cái bình bể (diệt thân hữu lậu rồi). Hết cái nghiệp đời sau, gọi là chẳng trở lại (không sanh diệt lại thế gian nầy nữa).

Rằng thức tâm ấy, tức là cái thức A-lại-da, một tâm vương thứ tám, nó chứa giữ hột giống của mười thiện, mười ác, để làm tổng báo chủ cho một báo thân.

Tùy nghiệp là cả sáu thức trước, sở tạo ra nghiệp thiện, nghiệp ác, để rồi cùng dẫn cái thức thứ tám đi thụ cái tổng báo thân ở trong một đạo giữa sáu đạo. Thế, nghiệp là năng dẫn, thức là sở dẫn, nên nói là theo nghiệp.

Kéo trước: giữa hai nghiệp thiện và ác, cái nào mạnh, nặng hơn thì, nó kéo ngã về phía nó, để đến thụ quả báo cho tương lai trước đã, còn cái nghiệp nào nhẹ, sẽ thụ quả báo sau.

Tâm dệt nhiều mối: cái thức thứ sáu (ý thức) nó có mỗi mỗi vọng tưởng, phân biệt nhiều lắm, nó thường vín leo nơi sáu cảnh trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), làm mọi điều ác nghiệp, sa đọa xuống tam đồ. Hễ cái tâm vọng nhiều thì đọa nặng (đại địa ngục), ít thì đọa nhẹ (tiểu địa ngục).

Tổ Khuê Phong nói “Làm việc có nghĩa, là cái tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghĩa, là tâm tán loạn. Tán loạn là theo cái vọng tình nó xây chuyển, khi lâm chung phải bị ác nghiệp lôi kéo; người mà tâm tỉnh ngộ chẳng do nơi vọng tình thì, khi lâm chung có thể tự chuyển đổi được ác nghiệp. Muốn nghiệm biết sau khi lâm chung đi thụ sanh, được tự tại hay chẳng tự tại, chỉ nghiệm xét lấy tầm thường hằng ngày, cái tâm hành động đối với cảnh sáu trần, được tự do hay bất tự do, trong hai mươi bốn giờ, ta tự phải kiểm xét lấy”.

Thế, đấy là Tổ Khuê Phong ngài dịch thêm cho học giả một phương thuốc phát hạn tán (đổ mồ hôi giải cảm), vậy, chư nhân giả! Tốt hơn tự xét nghiệm lại mình coi, rốt chớ chầy (chậm trễ) qua!

Ký: A-lại-da, đây rằng tàng thức, nghĩa là, vì nó thường hàm tàng những hột giống các pháp thiện ác của thế gian và xuất thế gian.

Do vì, lúc rốt trước (khi đi đầu thai) cái bất giác (mê) vọng động (nhân ái vi chủng, nạp tưởng thành thai) lên, mà thành ra cái vô minh, vô minh nó xông ướp vào cái chân như (chân vọng hòa hợp) mà thành làm cái thức A-lại-da. Thức đây nó hay chấp trì hột giống của các pháp thiện ác, thường khiến cho cái dòng sanh tử tiếp tục chuyển mãi chẳng dứt, nên thức đây cũng tên là Chấp trì thức. Hoặc tên là Dị thục thức, là nó thường dẫn dắt cái quả dị thục cho thân sanh tử giữa nghiệp lành và nghiệp chẳng lành.

Dị thục, là tại trong đời nay ta làm nghiệp chi, qua đời sau ta phải chịu báo nấy (trồng dưa được dưa…), hễ cái nhân nọ diệt thì, cái quả kia sanh, thời nầy sanh, qua thời khác (dị) mới chín (thục), nên gọi dị thục quả, cựu dịch rằng quả báo, thực thế.

Bộ Lục Tông Cánh, hỏi “Đến ngày các căn hoại, đến giờ thần thức dời lìa, bỏ cái xác cũ đây , đi thụ cái thân mới khác, thế thì, cái thức đi lại ấy, tướng trạng nó như thế nào?

Đáp, như kinh Hiển Thức chép rằng “Sự hành động, vận chuyển, dời diệt, qua lại của thức, dường như luồng gió, dù không màu sắc, không hình tướng, không thể rõ bày trạng mạo gì ra, mà nó có thể phát động được cả vạn vật, làm ra các hình trạng như hoặc là lay rung cây rừng, xô gãy tách toát, reo tiếng tăm lớn; hoặc làm cho lạnh, làm cho nực, nó xuông đến thân của chúng sanh làm khổ, làm vui!

Đấy, gió nó chẳng có tay chơn hình dáng gì, cũng không các màu đen trắng; thức giới cũng thế vô sắc vô hình, không quang minh hiển hiện, vậy mà, vì những nhân duyên huân tập, nó rõ bày ra mỗi mỗi công dụng, như là thấy nghe hiểu biết, phân biệt nhớ ghi…

Kinh Đồng Tánh nói “Chúng sanh khi mà bỏ cái thân tiền ấm đây rồi, do sức mạnh của gió nghiệp(108) nó thổi dời thần thức đưa đi đến chỗ mà thức nó chịu nghiệp báo để thụ lấy quả”.

Hộc là thứ vải the rất mỏng mà lổ vuông, dùng bận mát mùa hạ.

Cơn vô thường là quỉ dữ, mỗi niệm mỗi niệm chẳng ngừng, sanh mạng chẳng thể kéo dài, thời giờ không thể chờ đợi!

Hai câu trên, cơn vô thường rất mau; hai câu dưới, thời gian sanh mạng rất chóng.

Lấy vô thường làm sát quỉ là cái vô thường kia, tuy nó không hình chất gì khá thấy được mà, nó hay dứt đứt cái mạng căn của con người, nên bảo nó là sát quỉ.

Sách Chỉ Quán nói “Cơn vô thường là quỉ dữ, vì nó chẳng chọn chừa bực anh hào, đấng hiền tài gì, thể nó ngặt nghèo, giòn bở không bền chắc, rất khó mà nương cậy! Thế mà, sao người ta yên đành nề nếp mong sống trăm tuổi!? Như mải miết rông tìm bốn phương, thu nhóm chứa chất, thu nhóm chưa đủ (thế vô bách tuế nhân, uổng tác thiên niên kế), thoạt chốc qua đời! Sở hữu bao của cải, đều luống làm cái có cho kẻ khác(109)!

Một mình ra đi trong cõi mờ mờ, có biết ai đâu hỏi thăm phải trái!”

Mỗi niệm chẳng ngừng, là nghĩa dời trôi không đình trú.

Trí Độ Luận nói “Vô thường có hai thứ: 1-Cái pháp tiếp tục nhau giữa sáu căn sáu thức bị hoại, nên gọi là vô thường; 2-Trong tâm thức mỗi niệm sanh diệt luôn, nên gọi là vô thường.

Kinh Niết-bàn nói “Bồ-tát tu pháp tử tưởng, là quán xét cái sanh mạng đương sống đây, thường bị vô lượng(110) điều oán thù theo vấn vít! Mỗi niệm hao bớt dần, chớ chẳng có niệm nào tăng trưởng! Dường như dòng nước nơi bộc bố(111) chẳng đặng đình trú. Cũng như sương móc ban mai, thế nó chẳng dừng lâu. Như đứa tù bị dẫn đến chỗ xử tử, mỗi bước kề cái chết.

Mạng chẳng khá dài, mạng là thọ mạng, chính là cái thân dị thục do nghiệp báo từ đời trước đã nhất định rồi, nên nay chẳng có thể kéo dài thêm nữa được.

Thời chẳng thể đợi, thời, tức là thời khắc, đã là do nghiệp đời trước quyết định cho báo thân nầy rồi thì, phi sức mọn của con người mà có thể cầm lại hay là chờ đợi gì được. Chính chỗ bảo rằng “Diêm vương chủ định tam canh tử, định bất lưu nhân đáo ngũ canh: Diêm Chúa đã phê giờ Tý chết, chẳng cho người hẹn đến canh năm”. Đấy là “với cái nghiệp đã tiền định nay khó trốn”, đây gọi thế chăng?

Ký: lung chủng lão hủ: lửng chửng già mục là khổ về tướng lão. Ngọa bịnh tại sàng: nằm đau tại giường là khổ về tướng bịnh. Vô thường sát quỉ: không thường quỉ giết là khổ về tướng chết.

Kinh Chính Pháp Niệm Xứ nói “Đến giờ sanh mạng cuối cùng, có luồng đao phong(112) đều chuyển động khắp thân thể, quá đau nhức như có ngàn mũi đao đâm xẻ cùng mình mẩy! Trong mười sáu phần, hãy chẳng còn một(113). Ai có nghiệp lành thì, ít khổ não (đời gọi là thiện chủng, sanh thuận tử an sách Phật gọi là hảo tử…)

Ba hữu, người, trời, hẳn chưa khỏi đặng thụ thân như thế chẳng kể kiếp số!

Hai câu trên khó trốn nghiệp quả. Hai câu dưới đường sanh tử không cùng tận!

Nói ba hữu thì đã bao gồm cõi người cõi trời rồi mà muốn cho văn và nghĩa lẫn chương, nên đã nói tam hữu, còn lại nói người và trời nữa.

Ba hữu: Tam hữu tức tam giới, là chúng sanh tạo tác những cái nghiệp nhân hữu lậu thiện, hữu lậu ác, trí sử chiêu cảm lấy cái quả báo hữu lậu thiện hữu lậu ác(114), vì nhân nào quả nấy, không sai không mất, nên gọi là hữu (có).

1-Dục hữu: Là bốn châu nhân loại, sáu cõi trời dục, bốn ác thú (a-tu-la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục), vì chúng sanh trong các cõi đây đều không lìa lòng dục nhiễm(115), nên gọi là Dục hữu.

2-Sắc hữu: Là sắc giới, có bốn loại trời thiền, tuy đã lìa được cái lòng dục nhiễm(116), nhưng còn cái thân sắc chất(117), nên gọi là sắc hữu.

3-Vô sắc hữu: Là vô sắc giới, có bốn cõi trời không, vì thân tứ đại đã không còn, nên chẳng có cái sắc chất, chỉ còn bốn uẩn (thụ, tưởng, hành, thức), nên gọi là vô sắc hữu.

Tất cả chúng sanh trong tam hữu đây, đều bởi gây cái nhân về hữu lậu, nên buộc cái quả về hữu vi, thì đã là vô thường, nên đi đầu thai và thụ thai, đều không rời tam giới, nên nói là hẳn chưa khỏi đặng.

Trong khi chịu quả, lại tạo ra cái nhân mới, đã có nhân đương thời, lại phải chịu quả sau nữa, cứ quanh đi quẩn lại luân hồi mãi như thế, không biết đâu là đầu cuối bờ mé, nên nói chẳng kể kiếp số(118)!

Ký: thế giới có bốn thời kỳ là thành, trụ, hoại và không (đó là bốn trung kiếp), mỗi một thời kỳ trung kiếp ấy, trải qua hai mươi tiểu kiếp, cả bốn thời kỳ ấy cọng là trải qua tám mươi tiểu kiếp.

Một tiểu kiếp cọng kể là một ngàn sáu trăm tám mươi vạn năm, tám mươi tiểu kiếp, gom lại là một đại kiếp, suốt kể là một chục ba vạn bốn ngàn bốn trăm vạn năm.

Hiện nay, loài người ở trong kiếp này là kiếp túc (trung kiếp) có hai mươi tiểu kiếp, cọng kể là ba vạn ba ngàn năm; mà nay là đương tiểu kiếp thứ chín, hãy còn mười một tiểu kiếp(119)nữa, qua rồi tức đến thời kỳ kiếp hoại.

Bốn uẩn(120): thụ, tưởng, hành, thức. Sáu cõi trời dục, bốn ác thú, bốn cõi thiền thiên, bốn cõi không thiên, đều giải thích như dưới.

II.A.1.m- Sách lệ khuyến tu (Gắng gỗ khuyên tu).

Quá thương tiếc uổng, rất đau đớn lòng, đâu nở làm thinh, cùng nhau nhắc nhở.

Hai câu trên: Cảm thương tiếc lắm! Hai câu dưới: Khuyên người gắng sức.

Tổ Qui Sơn ngài nhận thấy hàng truy lưu(121) này, phần nhiều ham ưa tài lợi, bỏ bê đạo, rồi phải xa chìm biển sanh tử! Thành thử Ngài cảm thương than thở, lòng thống thiết chẳng nở nín lời, nên phải chép thành văn Cảnh sách đây, hầu thay lẫn với nhau để mà nhắc thức và khuyến khích đấy.

Ký: Nhá là lời than vì lấy làm quái gở quá! Giam: Bịt niêm, như nói giam khẩu bất ngôn. Để người ta đạc đệ: truyền đệ, đem truyền cho nhau.

Hiềm vì! Đồng sanh nhằm thời tượng quí. Cách với thời Phật quá xa, bậc truyền Phật pháp thưa ít, người tu phần nhiều giải đãi!

Hai câu trên, thương vì chẳng còn Phật ở đời. Hai câu dưới, thương vì đời pháp rốt, lòng người ngoan cố!

Tượng quí, quí là ngọn, chót. Số là, do đức Thích-ca Như Lai, giáo pháp của Ngài để lại, có phân ra ba thời là chánh, tượng và mạt.

Chánh pháp, chánh như chứng, là sau khi Như Lai diệt độ, trong khoảng một ngàn năm đầu, phàm là người có bẩm giáo xuất gia, đều năng tu hành, tức năng chánh quán nên gọi chánh pháp, vì chánh tức chứng.

Tượng pháp, tượng tương tự, là có bẩm giáo cũ có tu hành, thời này tương tợ nhau với thời chánh pháp, nghĩa là sau đức Phật nhập diệt, trong khoảng nghìn năm thứ hai (thời chánh pháp là một ngàn năm thứ nhất, tượng pháp là một ngàn năm thứ nhì), người có bẩm giáo, có tu mà phần nhiều chẳng thể chứng quả, chẳng được chính đích, nên gọi là tương tự.

Mạt pháp(122), mạt là mạt hậu (rốt sau), cũng là nhỏ chót. Nghĩa là, đức Phật Niết-bàn, sau hai thời chánh và tượng, trong khoảng một vạn năm, đối với giáo pháp để lại đời người ta mặc dầu có bẩm giáo mà, phần nhiều chẳng thể tu hành chứng quả được mấy. Hoặc có chỗ nói đời mạt pháp có ba ngàn năm.

Tổ Qui sơn xuất thế nhằm đời Đường, cách với đức Như Lai diệt độ, hầu đã một ngàn tám trăm năm, nên nói “đồng sanh tượng quí”, là phần rốt đời tượng. Lại cách nhau với đức Như Lai hầu hai ngàn năm, nên nói là “khứ Thánh thời diêu”, là cách thời Phật đã xa.

Thời đại đã xa cách, bậc đại nhân truyền pháp đã dần dần ít thiếu, nên nói là “Phật pháp sanh sơ”. Đã như ông Lương Đạo(123), lại nhằm đời mạt kiếp, căn khí của người hạ liệt, không có chí hướng thượng, nên nói là “nhân đa giải đãi”.

Ký: Quí là cái thời ở sau thời mạnh, thời trọng, như quí xuân, quí hạ, lại mạt thế cũng kêu là quí thế, nếu lấy một ngàn năm của thời tượng pháp để nói thì, ba trăm năm sau là thuộc về quí; nếu lấy ba thời chánh, tượng, mạt mà nói thì quí là thời sau chánh và tượng.

Thánh thế là đời Phật, tức là ngày mà đức Như Lai còn hiện tại nơi đời. Lại cái thời chánh pháp cũng gọi là Thánh thế.

Xổi bày chỗ quản kiến, để hiểu rõ lớp sau nếu chẳng bỏ chừa (thói hủ bại), thực khó đem lại (đạo chánh chơn).

ai câu trên chỉ thị ra lời dạy (văn cảnh sách), hai câu dưới lời răn khuyên gắng.

Đã có chỗ cảm thương như thế, đâu chẳng có lời đưa ra để khuyên tu trì.

Lược thân quản kiến, (Xổi bày ống dòm) lược: hẹp, sơ lược, như chưa rộng. Thân là thân thuật lại. Quản kiến như chỗ thấy trong ống dòm trời.

Đấy là lời khiêm nhượng của tổ Qui Sơn.

Để hiểu rõ lớp sau nghĩa là, lấy văn cảnh sách đây, để hiểu dụ kẻ hậu học, cần phải răn chừa điều ác dời qua việc lành.

Hai câu “nhược bất quyên căn, thành nan luân hoán” là lời xâu kết văn trước, để mà khuyến tu. Nghĩa là, nếu chẳng chừa sạch các thói xấu như trên đã dẫn ác dục tập nhiễm, ngạo mạn và phóng dật… thì thực là khó mà vãn hồi lại chánh đạo!

Ký: Quyên: rửa giặt, chừa khỏi.

Căng là kiêu căng tự phụ. Lại là khoe khoang trau chuốt lấy mình.

Hoán là chuyển đổi, luân hoán, nghĩa như vãn hồi.

Giới miễn là khiến cho đoạn các cái hạnh ác tập mà gắng tu các việc thiện hạnh.

 


CHÚ THÍCH
1. Tổ sư nói: Tây Thiên đệ ngũ thế Tổ sư, tức Đề-đa-ca tôn giả, nói bài kệ phú pháp cho Di-cha-ca tôn giả làm đệ lục thế Tổ rằng:

Suốt thông vốn không tâm,
Không pháp không chẳng pháp,
Ngộ rồi đồng chưa ngộ,
Không tâm cũng không pháp. Thông đạt bổn vô tâm,
Vô pháp vô phi pháp,
Ngộ liễu đồng vị ngộ,
Vô tâm diệc vô pháp.

Ý nói cái tâm nó phi có hình sắc lớn nhỏ gì, mà tức pháp tức tâm, cũng pháp phi pháp, tâm phi tâm, vì là chân không bất không, diệu hữu phi hữu. Người được minh tâm kiến tánh rồi, cũng như khi chưa ngộ, vì bất tăng bất giảm, Thánh cũng tâm ấy, phàm cũng tâm ấy chớ phi Thánh mà tăng cái gì, phàm giảm cái gì, chỉ giác ngộ là Thánh, mê muội là phàm, nên nói “Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô tâm diệc vô pháp”. Cổ nhân phụ kệ rằng “Ngộ liễu hoàn đồng vị ngộ thì, phương thị ni cô vị nữ nhi, thuận nghịch tung hoành trí, vãng lai tam giới chứng Bồ-đề”.

2. Ngộ rồi đồng chưa ngộ: Cái tâm pháp đã nói như trên, hễ được giác ngộ là Phật mà còn đương mê là chúng sanh. Nhưng đâu phải giác ngộ rồi có thêm cái gì, còn đương mê bị bớt cái chi, nên nói “Ngộ rồi đồng chưa ngộ”. Đức Lục Tổ nói “Bồ-đề bổn vô thụ, minh cảnh diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”. Tâm kinh nói “…Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố…”.

3. Họ Tư Ma: Họ đôi là dùng hai chữ làm họ. Nhà Châu thuở vua Tuyên, cha ông Trình Bá Hưu là chức quan Tư Mã, có công lớn, vua ban cho họ quan là Tư Mã thị. Họ đôi như Chung Li, Khổng Minh, Hạ Hầu…

4. Đầu-đà: Du-già Luận Ký cuốn 6 nói “Đọc chính Đổ-đa, dịch là tu trị”. Hành pháp này để phủi giũ ba món tham trước là y phục, ẩm thực và chỗ ở. Người tục bảo Tăng sĩ đi hành cước, khất thực là tu hạnh đầu-đà cũng gọi là hành giả…

5. Thủ tọa (chức vị): Là ngồi đầu dòng giữa hội tọa. Tăng sử lược trung nói “Thủ tọa tức là Thượng tọa, ở nơi đầu pháp tịch, ngồi trên chúng tăng, nên kêu là thủ tọa”. Tùy địa vị có nhiều chức: 1-Tam giống áo thủ tọa (đời Đường, vua Tuyên Tôn tặng thưởng). 2-Giảng giáo thủ tọa (đời Đại Tống quan tặng). Trong thiền môn có những: 3-Tiền đường thủ tọa, 4-Hậu đường thủ tọa, 5-Lạp tam thủ tọa, 6-Danh đức thủ tọa, 7-Khước lai thủ tọa. Tổ Đình Sự Uyển cuốn 8 nói “Thủ tọa tức là vị Thượng tọa từ xưa. Phạm ngữ Tất-thế-da, đây rằng Thượng tọa… xưa nay lập chức vị đây, đều lựa dùng người có tuổi tác, đức hạnh cao độ đảm nhận…”
6. Điển tọa: Là chức vị chủ các việc cho đại chúng như giường, chỗ ngồi, cơm cháo… Luật Tăng-kỳ quyển 6 nói “Phật trú nơi thành Xá-vệ, bấy giờ có Tỳ-kheo tên là Đà-phiêu-ma-la-tử, chúng tăng đưa lên làm chức điển tọa, chủ hay chín việc: 1-Chủ thứ lớp phân phú sàng tòa. 2-Chủ thứ lớp sai đi mời họp nghị. 3-Chủ thứ lớp phân chia phòng xá. 4-Chủ thứ lớp chia y phục thập vật. 5-Chủ thứ lớp chia hoa hương. 6-Chủ thứ lớp chia quả phẩm. 7-Chủ thứ lớp biết ấm lạnh. 8-Chủ thứ lớp chia các thứ bánh. 9-Chủ hay tùy ý cử lên người biết việc. Thế, là chúng tăng cho làm chức điển tri cửu sự”. Điển là chủ hay giữ. Truyền Đăng Lục chép rằng Ngài Linh Hựu khi ở dưới pháp hội của Tổ Bách Trượng, được làm chức điển tọa… Xét, nhà Thích gọi điển tọa, như nhà cư sĩ gọi tư trù (chủ việc nhà khói). Đại phàm, các tăng chúng trong các tự viện, lệ thường phân ra làm Đông tự, Tây tự, những chức mà hay về các việc thô sơ, đều thuộc về Đông tự, như điển tọa… – Ngũ Đăng Hội Nguơn chép Ông Tuyết Phong làm chức Phạn đầu nơi Động Sơn; ông Khánh Chư làm chức Mễ đầu ở nơi Qui Sơn; ông Đạo Khuông làm chức Thông đầu ở nơi Chiêu Khánh; ông Quán Khê làm chức Viên đầu ở Mạt sơn; ông Thiệu Viễn làm chức Điền đầu ở nơi Thạch môn; ông Trí Thông làm chức Trực tuế ở nơi Qui sơn; ông Hiểu Thông làm chức Đăng đầu ở nơi Vân Cư; ông Kê Sơn làm chức Sài đầu ở nơi Đầu Tử; ông Nghĩa Hoài làm chức Thủy đầu ở nơi Túy Phong; ngài Phật Tâm làm Tịnh đầu ở nơi Hải Ấn. Các chức vụ trên, đều thuộc về Đông tự. Mà cái danh Điển tọa rất rõ nơi đời. Đông tự, Tây tự tức Đông đường, Tây đường.

7. Tượng lật: Tên một thứ trái cây (cây keo su), hột như hột su già, năm mất mùa, người ta hái trái ăn đỡ đói, năm được mùa, hái trái cho heo ăn. Tượng bì thọ tức keo su, quí hơn vàng, vì ngày nay người ta chế tạo vật dụng quá tiện lợi mọi điều. Lật: có trái, ăn được, tục gọi là trái chôm chôm.

8. Nhập thất: Pháp Thiền qui bảo rằng kẻ đệ tử nào tham học đã lâu, mới được vào tịnh thất của thầy để tham hỏi đạo, là khám xét đệ tử đã đắc phần, phi người tham học đã lâu thì chẳng cho vào. Ở về thời xưa, đến cơ duyên mới làm pháp nầy, chẳng có cái Thiền qui riêng; đến các Tổ như Mã Tổ, Bách Trượng về sau, mới riêng lập cái Thiền qui định ngày mà làm. Đời gọi là đắc Sư pháp là đệ tử đã nhập thất. Song người nhập thất đấy, cũng chưa chắc được hết sư pháp. Tổ Đình Sự Uyển cuốn 8 chép, Tổ sư truyền rằng “Đức Ngũ Tổ đại sư đến nửa đêm, bí mật sai thị giả đến nhà giã gạo mời ông Lư Hành Giả vào thất, Tổ truyền y pháp cho làm Đệ Lục Tổ… Sách Sắc Tu Thanh Qui Nhập Thất chép “Cái điều nhập thất là nhà Thiền khám xét kẻ học giả, sách phát chỗ chưa đến, nghiền nát chỗ luống dối cống cao, trị cái chỗ thiên trọng.” Hưng Thiền Hộ Quốc Luận nói “Nhập thất là gặp ngày nào mà Hòa thượng thầy được rảnh rỗi, mới lập cái nghi nầy”, đó là một việc của Thiền tông. Lại, pháp tu, bên Chân Ngôn Tông, vào cái thất quán đảnh, làm chịu pháp quán đảnh, gọi là nhập thất đệ tử.

9. Năm Thái Trung thứ 7: Tức là Đại Trung, niên hiệu của vua Tuyên Tông nhà Đường, năm Đại Trung thứ bảy, nhằm dương lịch 847.
10. Tuổi tăng lạp: Từ năm thụ Tỳ-kheo giới về sau, cứ mỗi năm đều cấm túc an cư ba tháng mùa hạ, hễ tu được một hạ, gọi là một tuổi, mấy hạ là mấy tuổi. Rằm tháng tư nhập hạ, rằm tháng bảy ra hạ, tháng bảy là lạp ngoạt của nhà Tăng, kêu là pháp lạp, tăng lạp. Lạp là tên của cuộc tế lễ; tức tế lạp; nhà Tần, nhà Hán đều lấy tháng 12 âm lịch làm tháng lạp để tế lễ, người thế thường lấy tháng cuối năm tức tháng 12 làm tuổi.

11. Tự biết: Là cái trí túc mạng thông. Luận Câu Xá nói “Túc trú tùy niệm trí chứng thông, là cái sức thần thông tự tại hiểu biết những sanh mạng và hành sự suốt các đời khác của mình, như biết những việc tự ngày qua về trước của đời hiện tại…

12. Trực chỉ Thiền: Là pháp Thiền nầy chỉ ngay cái tâm của người, để người kiến tánh thành Phật, chứ không dùng đến ngữ ngôn văn tự. Thiền pháp có hai: a-Như Lai Thiền: Trong kinh, luận từng nói đến, đời Tần, ngài Cưu-ma-la-thập ban đầu truyền ra, đến ngài Thiên Thai rất là tường tất. b-Tổ sư Thiền: Tức trực chỉ Thiền, ngoài kinh luận (giáo ngoại biệt truyền) Tổ trước Tổ sau đem tự tâm ấn tâm cho nhau; đời Ngụy đức Đạt-ma ban đầu truyền ra. Phật ở trên hội Linh Sơn, cầm một hoa sen đưa ra trước mặt tứ chúng, cả trăm vạn người và trời mà không ai hiểu ý Phật, chỉ có ông Ma-ha Ca-diếp chúm chím cười, vì lãnh hội được ý chỉ của Phật, nên Phật đem diệu tâm Niết-bàn truyền cho Ca-diếp làm Sơ Tổ. Đấy, niêm hoa vi tiếu mà truyền trao tâm ấn mà thôi, chứ chẳng dùng đến ngữ ngôn văn tự, nên gọi là Trực Chỉ Thiền, vì “bất lập văn tự giáo ngoại biệt truyền”. Ngài Thái Hư định nghĩa rằng “Lấy chỗ truyền mà lập tông, là Thiền tông bất y văn tự, tuyệt vô kinh điển, xích lỏa lỏa duy chính thị vụ”.

13. Hoa Lâm Hòa thượng: Ngài thủ tọa, sau đến trụ trì chùa Hoa Lâm, nên gọi là Hoa Lâm Hòa thượng; Ngài có đức cảm hóa hai con Đại hổ và Tiểu hổ, đặt pháp danh là Đại Không và Tiểu Không…

14. Nghiệp: Là người đời, ai cũng có chẳng nhiều thì ít giữa mười thiện nghiêp, mười ác nghiệp, hễ nghiệp lành thì nó dẫn đến tam thiện đạo là, thiên đạo, nhân đạo và A-tu-la đạo, vì hữu lậu thiện mà phân ra có thượng, trung và hạ. Còn nghiệp ác thì nó lôi tới tam ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, vì có thượng ác, trung ác và hạ ác. Sách gọi là lục đạo luân hồi.

15. Vô minh hoặc: Là một trong ba hoặc của Thiên Thai lâp ra. Người bị nó ngăn che không thấy được lý trung đạo. Bồ-tát bên Biệt giáo từ bực Sơ địa bắt đầu đoạn trừ hoặc này; Bồ-tát bên Viên giáo từ bực Sơ trụ bắt đầu dứt cái hoặc này, đều để dứt từ phần hoặc chứng từ phần lý trung đạo. Tuy kêu là Hoặc, phiền não, lậu, cấu, kiết, dù tên có lạ chứ cũng đồng thể là Hoặc cả. Thiên Thai Tông gồm tất cả vọng hoặc phân làm ba loại: 1.Kiến tư hoặc, 2.Trần sa hoặc, 3.Vô minh hoặc, lại tên là chướng trung đạo hoặc, vì nó ngăn che cái lý thực tướng trung đạo, nó khác với cái si hoặc trong tư hoặc, vì si hoặc kia nó làm ngăn che cái không lý, nên gọi là “Chi Mạt vô minh”; còn cái hoặc đây là nó làm mê mờ cái lý thể căn bản, nên gọi là “Căn Bản vô minh”. Đoạn được mười hai phẩm vô minh đây; tức là quả Phật của Biệt giáo. Đoạn được bốn mươi hai phẩm vô minh đây, tức là quả Phật của Viên giáo.

16. Khổ thụ: Tự lãnh nạp lấy cái cảnh trái với ý muốn mà sanh khởi ra cái cảm tưởng chịu khổ não. Thụ là lãnh nạp lấy ngoại cảnh đưa đến, cảnh ngộ có ba trạng thái là, thuận tình, nghịch tình và phi thuận phi nghịch. Thụ có ba: 1-Khổ thụ: như trên, 2-Lạc thụ: Lãnh nạp lấy cái thuận tình mà phát khởi ra cái cảm chịu thích sướng, 3-Bất khổ bất lạc thụ: lại gọi là xả thụ, lãnh nạp lấy cái cảnh trung bình là không thích không thuận không nghịch mà, cùng xả lìa cái cảnh khổ và vui, nghĩa là không khổ không vui.

17. Bịnh ái kiến: Chấp trước nơi người mà sanh khởi cái ý thức thương yêu. Kinh Duy-Ma phẩm Vấn Tật nói “Đối với chúng sanh, nếu sanh lòng ái kiến đại bi thì, lập tức phải xả ly”. Ngài La-thập chú giải rằng “Thấy có người mà lòng sanh quan niệm ái trước, nhân đó nảy cái tâm sở bi thương, gọi là ái kiến đại bi; Lại, ái và kiến là hai món phiền não, lòng mê lầm về sự gọi là ái; mê hoặc về lý kêu là kiến. Như các cái tâm sở tham dục, sân khuể là vọng hoặc về mê sự; còn các cái bịnh ngã kiến tà kiến… là vọng hoặc về mê lý”. Kinh Lăng Nghiêm quyển 6 nói “Nó khiến chúng sanh sa vào hầm ái kiến, mất cái đường Bồ-đề”. Trí Độ Luận cuốn 7 nói “Phiền não có hai món, một thuộc về ái, hai thuộc về kiến”.

18. Một niệm điên đảo: Một niệm tráo chác. Xem ở số 20 nói sau.

19. Các nhân duyên: Nghiệp thức của con là thân nhân duyên, tinh của cha, huyết của mẹ là sơ nhân duyên.

20. Ái làm giống, tưởng nên thai: Khi sắp đầu thai, cái thân trung ấm là giống trai thì nó khởi cái ái niệm yêu người sắp làm mẹ nó, còn nếu nó là giống gái thì, nó khởi cái ái niệm yêu người sắp làm cha nó, nên nói rằng “nhân ái vi chủng”. Kể đó, giống trai thì nó chỉ tưởng chính nó hành dâm với người sắp làm mẹ nó, chứ nó tuyệt nhiên không tưởng thấy có cha nó đương sự; còn gái thì trái lại… Đến đó, ba cái điện dục hỏa của ba đương sự đồng thời hít vào mà thành thai, nên nói rằng “nạp tưởng thành thai”. Lại, nó chỉ ái và tưởng chính nó yêu mẹ ghét cha, hay ghét mẹ yêu cha và nó tưởng chính nó hành dục, chứ nó không tưởng là cha mẹ nó hành dục. Đấy, cái tưởng trái nghịch như thế, nên nói là “Tối sơ nhứt niệm điên đảo”. Tối sơ là rốt trước, là khi sắp đầu thai (rút Du-Già Sư Địa Luận).

21. Báo phong: Cũng gọi là y phong, nghiệp phong. Trong bộ kinh Lăng Già mười quyển, cuốn 9 nói “Nghiệp phong trưởng tứ đại, như chư quả thành thục”. Nghiệp thiện ác nó thường khiến người di chuyển luân hồi tam giới, nên tỷ như gió lùa nghiệp đi. Nghĩa là trước cảm cái thân chánh báo nghiệp phong, nên bẩm thụ cái sanh thân có cái hơi thở ra hút vào, đó là báo phong. Còn khi ở trong mẫu thai, nương nơi hơi thở của mẹ thở ra hít vào, cái bào thai nó cũng phập phềnh theo đó, để nảy nở biến chuyển lớn lên, nên gọi là y phong. Nghiệp phong, y phong hòa hiệp, gọi là thọ mạng.

22. Thọ mạng: Sách Phụ Hạnh chép “Sống trong một kỳ hạn mấy chục tuổi đó, gọi là thọ; hơi thở tiếp tục liền luôn, gọi là mạng. Một kỳ hạn duy trì liên tiếp, cái gió là hơi thở chẳng đứt, gọi rằng thọ mạng”. Cái mạng căn là thể, cái sống, cái hơi ấm và cái thức biết làm tướng, hoạt động làm dụng, là thể tướng dụng của thọ mạng.

23. Ấm lửa dục. Noãn: ấm, tức lửa dục của thân trung ấm (đứa con), của cha và của mẹ, đồng thời xuất tinh khí huyết ra một lượt mới kết thành thai (xuất ra bằng cách xê xích thì không kết thành thai, vì ra không đồng thời, cái ra trước, dục hỏa đã kém nhiệt độ) được, ba nhiệt độ của dục hỏa ba đàng (trung ấm, cha mẹ) này, nó kết tinh thành một điểm sáng ở tại giữa hai thanh cật. Sách Đông y bảo “Nhất điểm chân dương, danh viết mạng môn tướng hỏa”. Cái nhiệt độ dục hỏa (mạng môn tướng hỏa) ấy, tức là nghĩa của chữ “noãn” trong câu “nhứt mạng nhị noãn tam thức” đây vậy.

24. Tứ chi bách hài. Tứ chi: bốn nhánh, thân thể của người, có hai tay, hai chân là tứ chi, nương đó để vận động; con thú có bốn cẳng là tứ chi; con chim có hai cánh hai giò là tứ chi. Bách hài là tiếng gọi chung cả cơ thể thân hình.

25. Nước tinh dịch: Dịch lưu chất, tức dịch thể. Lại, tinh dịch là một món dịch thể, nó kết sanh ở trong ngoại thận nơi “sanh thực khí” của hùng tánh (đàn ông). Tinh của cha; Dịch nhựa, chất nhớt, cha mẹ đều có; khí là hơi, cha mẹ đều có. Khi hành dâm đến cực độ, hai cái hơi ấy nó bắn tinh huyết ra. Huyết của mẹ. Tinh huyết của cha mẹ kết thành thai, tinh huyết ấy gọi là tiên thiên khí huyết. Ăn ngũ cốc, khoai, trái, trong ấy có chất tròng trắng, bảy ngày nó kết sanh được một điểm tinh, tinh này nó sanh ra huyết, tinh huyết này gọi là hậu thiên khí huyết. Trong tinh dịch nó hàm chứa tinh trùng (sanh nguyên), thể nó quá nhỏ, hình như con lăng quăng (nòng nọc), vì ở nơi tinh dịch trong “sanh thực khí” của nam tánh phân tiết ra, nên gọi là tinh trùng. Dùng gương hiển vi cao độ gấp năm, sáu trăm lần cho vào tinh dịch mới thấy nó; cùng với noãn châu trong sanh thực khí của nữ tánh, đồng gọi là nguồn sanh thực. Còn sách Phật bảo nghiệp thức là hột giống sanh hóa.

26. Noãn khí: Hơi ấm, tức là ôn độ. Sách Bản Thảo có mục chép “Tạng tâm (quả tim) cái thần làm quân hỏa, còn cái mà nó bao bọc chạy giáp vòng châu thân làm tướng hỏa”. Nhà Đông y xưa, lại gọi là thận hỏa, cũng bảo là dục hỏa (vị trí nó ở tại chính giữa hai quả nội thận là nơi xương sống dưới chỗ buộc dây lưng đó, kêu là mạng môn tướng hỏa, hễ khi mà người ta khởi dục lên thì, lửa ấy nó chạy ra nơi nam căn hay nữ căn đều ấm hiểm cả, nên gọi dục hỏa).

27. Bịnh tổng tập. Tổng: gom chung nhiều. Tổng tập gồm nhiều vì đối với biệt tập, nên nói là tổng tập. Biệt tập là chỉ bị riêng một chứng nào trong số 101 chứng của một đại. Tổng tập là bị nhiều chứng lộn xộn của cả bốn đại đều có. Như một người trong cơn một khí ban mà có nhiều chứng đồng thời phát sanh. Tỷ dụ sá hàn sá nhiệt, thoạt tỉnh thoạt mê, bịnh biến bất nhứt, nhiều chứng hàn nhiệt vãng lai…

28. Bịnh nghiệp báo: Trả cái nghiệp đã tạo từ đời trước, kêu là định nghiệp nan đào. Như tiền kiếp sanh sát quá thì, kiếp sau phải trả 1-Hoặc đau ốm rề rề. 2-Hoặc chết yểu, vì làm cho chúng sanh bị đau nhức nên nay phải đau hoài, và nó đương sống mà làm cho nó bị đoản mạng, nên nay phải chết non. Còn phóng sanh thì sau được trường thọ, vì nó sắp chết mà ta mua thả, cái sống của nó được kéo dài, nên ta được sống dai. Bịnh nghiệp báo như đức Như Lai bị bối thống dư ương; biến thước không khỏi họa hình, y gia đa quái tật. Kêu bằng “diệu dược nan y oan trái bịnh”.
Phụ chú: Với tứ đại, nhân nội thương về một đại nào bị suy tổn mà, trí thành bị ngoại cảm lấy cái khí tà khách của lục dâm: phong khí, hàn khí, thử khí, ôn khí, táo khí và hỏa khí. Địa đại thuộc tỳ thổ mà, huyết nó thất thường chẳng lưu động, nên thân thể phát sanh chứng trầm trọng. Thủy đại thuộc thận thủy mà, thủy nó chẳng đủ hạn chế được hỏa thắng thì, cái chứng hư vọng hỏa nó viêm nhiệt lên, nên sanh ra bịnh đàm ấm. Hỏa đại thuộc tim hỏa mà, hễ hỏa thạnh tức dương cang thì, nó làm hại cho thân thể tiêu khô, nên sanh chứng bịnh hoàng nhiệt. Phong đại thuộc phong khí bịnh, nguyên tỳ thận bị hư tổn mà, mạch can nó đi huyền cường, làm diêu động, hơi thở khò khè, phát sanh cái chứng khí phát.

29. Quên điều nguy sợ: Trong trường công danh phú quý, người ta phần nhiều ai cũng chỉ mê lấy ăn rất ngon, ngủ rất sang, si tình với tửu sắc, ngày đêm mài miệt truy hoan, vì hoàn cảnh cá tánh bắt thế phải thế, còn đâu là giờ tỉnh để biết được cái chết sắp đến, nên nói “toàn vong nguy cự”! Tức chỗ gọi “túy sanh mộng tử”!

30. Hai con chuột: Hoặc tỷ là ngày đêm, hoặc ví là nhật nguyệt. Ngài Tân-đầu-lô Đột-la-xà, vì vua Ưu-đà-diên mà nói pháp. Kinh (phi kinh đại tập vì chẳng có điển này) ấy chép rằng: Ngày xưa có người đi ngoài đồng hoang, gặp con ác tượng lớn, bị nó rượt chạy, hoảng kinh quá sợ! Thấy có giếng loạn, liền níu rễ cây thòng xuống giếng trốn. Có hắc thử, bạch thử, đều cắn rễ cây. Bốn bên hông giếng, có bốn rắn độc, muốn cắn người ấy. Dưới đáy giếng có con độc long lớn! Với bốn bên sợ bốn rắn, dưới sợ độc long, rễ cây bị níu lay động, làm cho ổ ong trên cây bị rung, rớt năm nhỏ mật vào miệng, bầy ong bay tứ tán, có dã hỏa cháy đến, đốt luôn cây rễ. Đồng hoang dụ tam giới sanh tử; người ấy tỷ chúng phàm phu; đại ác tượng ví vô thường; giếng loạn ám chỉ thân ngũ uẩn; rễ cây tượng trưng nhân mạng; hắc, bạch thử dụ trú dạ; cắn rễ cây tỷ mỗi niệm diệt luôn; bốn độc xà ví tứ đại; mật rơi miệng ám chỉ ngũ dục lạc; bầy ong là dụ ác giác quan; dã hỏa là chỉ cho cái già nua; con độc long là chỉ cho cái chết. Năm, tháng, ngày giờ rất chóng, người xưa đã có bốn câu dưới đây:

Ác vàng, thỏ bạc xâm xâm;
Bóng quang âm thoạt trăm năm mấy hồi!
Ngày nay thôi đã qua rồi!
Mạng căn, huyết mạch lần hồi khô khao!

Ngày tháng mỗi kém mòn qua, ngày tháng như thoi người đã già; tóc râu tợ nước thấy phi trẻ. Kinh Lăng Nghiêm chép chuyện vua Ba-tư-nặc trông thấy sông Hằng… Bạch phát tỷ bạch thủy; da nhăn tỷ những gợn sóng nhăn đùa trên mặt nước. Tức như kê bì, hạc phát. Thời gian của thân mạng con người tỷ như “thệ thủy hướng đông lưu”.

31. Cái tưởng điên đảo: Xem bài chú thích về câu “Ái làm giống, tưởng nên thai” ở số 20.

32. Không thân trung ấm: Người mà làm thập thiện được bực cực phẩm, nghĩa là làm lành nhiều tột bực thì, xả thân tiền ấm rồi, thần thức siêu ngay lên cõi lành, để thụ sanh, chứ chẳng thụ thân trung ấm. Người mà tạo một ác cực điểm, sau khi xả thân tiền ấm, lập tức đọa ngay xuống ngục Vô Gián ??? hỏa sanh ra cái thân chúng sanh dưới ấy chịu tội, nên cũng chẳng có thân trung ấm.

33. Sú lại: Phản bộ, là sú mồi lại. Phản bộ: báo thân cha mẹ. Sách Bản Thảo chép rằng “Từ ô, tức hiếu điểu (con quạ), nghĩa là, khi mới sanh thì, cha mẹ nó kiếm mồi về sú cho nó; lúc cha mẹ nó già, tự thân nó đi kiếm mồi về sú lại cho cha mẹ nó, nên kêu là hiếu điểu”. Lời thành ngữ “Dưỡng nhi đãi lão – “Bé cậy cha, già cậy con”.

34. Phụ mẫu là thiên địa: Kinh nói “Đức của nghiêm phụ sánh trời cao, ơn của từ mẫu ví đất dày”. Sách nói “Dục báo chi ân hạo thiên võng cực”.

35. Kinh Thi: Bộ Kinh Thi, thể Tiểu Nhã, thiên Lục Nga nói “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo chi ân, hạo thiên võng cực”.

36. Trời cao chẳng tột: Hạo thiên võng cực, nghĩa là ơn của cha mẹ rất lớn, như trời cao không cùng tột. Hạo thiên là nói nguơn khí rộng lớn.

37. Bốn việc cúng dâng: 1-Ẩm thực, 2-Y phục, 3-Ngọa cụ, 4-Y dược.

38. Túng phụ. Túng: Đồng tông, là hàng thứ với chí thân kia là túng, nghĩa là anh em ruột, gọi là “chí thân”; anh em con nhà chú bác ruột cách mới một thứ, gọi là “tái túng”, cách đã hai thứ, gọi là “tam túng”. Tức như túng huynh đệ, túng bá thúc… (chỉ tùng, ở đây phải đọc túng). Túng phụ tức là bá phụ, thúc phụ, là bác ruột, chú ruột.

39. Túng tổ: Túng tổ con đệ, đồng tằng tổ huynh đệ. Theo điển dẫn lời của ông Mã Dung nói rằng “Tằng tổ tôn, với bổn thân (mình) là tổ túng huynh đệ, thì đồng một tằng tổ mà ra, nên nói là túng tổ huynh đệ tục xưng là túng đường huynh đệ”.

40. Tằng tổ: Ông nội của cha, mình gọi là tằng tổ, sách Nhĩ Nhã gọi tắt là tằng tổ vương phụ. Tục rằng cha xưng hô bằng ông nội, mình xưng hô bằng ông cố.

41. Sắc mặt của cha mẹ: Kính nuôi sao cho cha mẹ đừng buồn. “Như Thục thủy thừa hoan, vấn an thị thiện, hòa nhan duyệt sắc, tất hạ…” nghĩa là, đậu nước vâng vui, hỏi an hầu bữa, vui mặt đẹp mày, dưới gối không trái. Thục là tên chung các thứ đậu. Kinh Lễ nói: Ăn đậu, uống nước lã mà hết sức là vui!”. Người nay nói “Kính nuôi cha mẹ, là thục thủy thừa hoan”. Tất hạ: Sách Hiếu Kinh nói “Nên ở dưới gối thân sanh (phụ mẫu) để nuôi cha mẹ”. Đường thư Cao Tôn Kỷ nói “Nguyện được ở dưới gối đấng Chí Tôn để phượng thờ”. Đời sau, đối với cha mẹ, kẻ làm con xưng là tất hạ.

42. Sợ bốn oán thù: Tức tứ oán. 1-Phiền não ma, 2-Sanh tử ma, 3-Ngũ ấm ma, 4-Thiên tử ma, tức Thiên ma Ba Tuần. Hành Sự Sao quyển thượng nói “Chân thành xuất gia giả, bố tứ oán chi đa khổ”. Đồng Tư truyện ký nói “tứ oán tức tứ ma”.

43. Giống họ Tam Bảo: Kính đức Thế Tôn làm cha, vì cha là Tứ sanh từ phụ; lấy kinh pháp làm mẹ, vì niệm pháp là tam thế Phật mẫu; bạn đồng học là anh em, vì là pháp huynh pháp đệ; người đồng chung giới (đồng cụ túc hay sa di) là bằng hữu, vì là xứ xứ đồng vi pháp lữ; vẫn đồng làm tử đệ của Như Lai, thường làm dòng họ với Phật Thánh. Chính chỗ bảo xuất gia là phụ mẫu, dữ Phật tổ nhi tôn. Đó là về phái xuất gia; còn phái tại gia thì Bát nhã vi thê, Bồ-đề vi tử, phương tiện vi phụ, Ba-la-mật vi mẫu. Nên có nói “Sanh sanh dữ Phật vi quyến thuộc, thế thế Bồ-đề kết thiện duyên”.

44. Vô Vi. Vi: Tạo tác, vô nhân duyên tạo tác, nói là vô vi. Lại, không sự tạo tác của bốn tướng sanh, trú, dị và diệt, nên nói là vô vi, tức tên khác của chân lý. Vô vi có ba món, sáu món… Vô vi xá là nhà vô vi, tức Niết-bàn, vì Niết-bàn là an trạch của người, nên nói là xá. Kinh Thiên Thủ nói “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện ngã tốc hội vô vi xá”. Lại, không làm mười điều ác là, những cái nhân đọa xuống súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục; không làm mười việc thiện hữu lậu là, những cái nhân phải luân hồi làm thân a-tu-la, nhân loại và các trời trong tam giới; nên gọi là vô vi; mà chỉ xây dựng đào tạo những chánh nhân vô trước, vô lậu, vô phân biệt, vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, để đồng nhau chứng quả Vô thượng Bồ-đề, nên nói là nhà vô vi. Đó là vô vi của nhà Phật, còn vô vi của nhà Nho thì là năng lấy để dạy nhân dân, không dùng đến chánh sách hình phạt. Như sách Luận ngữ nói “Vô vi nhi trị giả, kỳ duy Thuấn dã dư”.

45. Có mười hai pháp: 1-Áo nạp: lại kêu phấn tảo y, lấy những đồ mà chúng nhân đem bỏ nơi đống phân rác rến, giặt rồi chắp may thành áo bận. 2-Tam y: lại nói chỉ ba y chỉ bận y Tăng-già-lê, Uất-đa-la, An-đà-hội, ngoài ra, chẳng dùng gì dư nữa. 3-Khất thực: lại nói thường khất thực chính mình tự đi khất thực mà dùng, chớ chẳng dám thụ lãnh cơm của người mời đãi và cơm giữa chúng tăng. 4-Chẳng làm vật ăn dư: chỉ làm một lần chính thực vào giữa và trước giờ ngọ, chớ chẳng đặng làm vật chính thực từ hai lần nhẫn lên, vì món chính thực từ hai lần nhẫn lên, gọi là dư thực (làm món tiểu thực thì chẳng ở trong hạng nầy, bánh, trái, chè gọi là tiểu thực). 5-Nhứt tọa thực: lại nói nhứt thực làm một lần chính thực vào giữa và trưa giờ ngọ, ngoài ra, chẳng đặng lại làm tiểu thực nữa. 6-Ăn một vắt cơm: lại nói tiết lượng thực chỉ ăn một hoàn cơm trong bình bát mà thôi, chứ chẳng đặng thụ nhiều. Giả sử, ăn một vắt hay nhiều vắt thì, lấy làm có hại mà , phải dè ăn cho có chừng lượng. 7-A-lan-nhã xứ: dịch chỗ xa lìa, hoặc chỗ trống vắng ở chỗ trống vắng xa lìa nhà người. 8-Ngồi giữa gò mả: là trú ở nơi chỗ phần mộ. 9-Ngồi dưới cây: bên gốc dưới tàn cây che mát. 10-Ngồi chỗ đất trống: tức ngồi nơi chỗ đất lộ thiên giữa trời. 11-Tùy nơi chỗ ngồi chỗ đất nào có cỏ: tức là ngồi, bất tất dưới cây, ngoài trời. 12-Thường ngồi chẳng nằm: thường kiết-già mà ngồi, chứ chẳng đặng nằm.

46. Bổn thệ: Lời thệ nguyện xưa, tức là “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”

47. Món ăn tứ tà: (Tứ tà mạng) 1-Hạ khẩu thực: Trồng gieo ruộng vườn, nuôi tằm ươm kén, hòa hợp thuốc men, để tự nuôi sống. 2- Ngưởng khẩu thực: Xem sao, mặt trời, mặt trăng, mây sấm cả khí tượng thiên văn để sống. 3-Phương khẩu thực: Dua bợ nhà quyền hào thế lực, lảnh mạng đi sứ các nơi, xảo quyệt tham cầu để sống. 4-Duy khẩu thực: Bùa chú Lổ Ban, mách chuyện cát hung, để mà sanh hoạt.

48. Tăng kỳ vật. Tăng kỳ, dịch chúng, tức là Tỳ-kheo tăng, Tỳ-kheo ni, là bực đại chúng là vật của đại chúng chung có phần, nên gọi là tăng kỳ vật. Đại chúng đây, thể gồm thâu cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni ở nơi mười phương. Giả sử nhà thí chủ gởi phụ cúng các vật như ruộng vườn, phòng xá, gạo thóc…thì chia các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni nơi thập phương, đều có thể hưởng thụ đó thì, gọi là thập phương tăng vật, hay là tứ phương tăng vật. Danh Nghĩa Tập cuốn 7 nói “Tăng kỳ, thử vân “tứ phương tăng vật”. Đồ đạc vật mọn của năm chúng chết chia: đem tài vật của một người giữa năm chúng đã qua đời ra bố thí, tài vật ấy tuy khinh vi (mọn mà thể nó thông đồng thập phương tăng, nhưng thuộc ở nơi bổn xứ thì, hiện tiền tăng được chia, trong khi đương rõ chia tài vật của vong tăng, thập phương tăng đến trước lễ Yết-ma thì được lãnh phần, còn đến sau lễ Yết-ma thì chẳng đặng.

49. Hí luận: Những ngôn luận bằng cách phi lý và vô nghĩa, gọi là hí luận. Lại, với ngôn luận, bất luận có lý hay phi lý, đều quở là hí luận cả. Hí luận đây, nghĩa nó đồng với hoạt kê và nhũng đàm của thế tục thường nói. Đại Nhựt Kinh Sớ 19 nói “Như con hát hí kịch, lấy cái tâm tán loạn, mỗi mỗi điệu bộ thân múa, miệng ca, chỉ đẹp trước khán giả mà thôi, chứ chả có lý nghĩa gì. Đời nay, kẻ vọng kiến, đưa tác phẩm ra, cũng đồng như thế, nên gọi hí luận. Đại Thừa Huyền Luận 2 nói “Hí luận là danh từ mượn để thí tỷ, vì với đạo lý mà tâm chưa sở đắc gì hết, mà nghị luận nầy nọ, tỷ như tiểu nhi học nói giỡn chơi thế thôi. Kinh Pháp Hoa phẩm Tín Giải nói “Nay đức Thế Tôn khiến chúng con suy nghĩ dẹp bỏ những phấn uế của chư pháp hí luận”. Kinh Tối Thắng Vương quyển nhất nói “Cái tánh thực tế không có hí luận, chỉ có một mình đức Như Lai chứng pháp thực tế, dứt hẳn hí luận, gọi là Niết-bàn”.

50. Du ngôn: nghĩa như phù ngôn. Sách Kinh Lễ nói “Nên biết đại nhân, chẳng xướng lời phù (du) ngôn.” Du: lội trên mặt nước. Phù: nổi trên mặt nước. Lời nói mà vô căn cứ, thường có đổi thay, gọi là du, nghĩa là không có ý nhất định.

51. Đầy chén, ngập đầu: ý nói lổ mội nước mới bắt đầu chỉ bất quá chừng đầy một chén chung, mà rồi dần dần tràn lan, sâu nhẫy thành sông. Cũng như tội lỗi mới phát sanh chút đỉnh không ngăn dứt, để rồi đến sâu rộng, thành khổ hải mê xuyên. Thương: chung rượu. Lạm thương: đầy chén. Sách Gia Ngữ chép “Phù giang thỉ vu dân sơn, kỳ nguyên khả dĩ lạm thương” là ban đầu phát nguyên, chỉ đầy chừng một chung nhỏ. Ngày nay gọi phàm bắt đầu gầy dựng là lạm thương. Diệt đảnh: ngập đầu, tức trầm nịch. Kinh Dịch nói “Quá tiệp diệt đảnh” lội quá độ hụt giò ngập đầu.

52. Lửa khổ: các khổ phiền não nung đốt cả thân tâm của chúng sanh, mau khô héo điêu tàn, nên gọi là lửa khổ. Kinh Pháp Hoa phẩm Thí Dụ nói “Tam giới vô an, du như hỏa trạch, chúng khổ sung mãn, thậm khả bố úy, thường hữu sanh lão bịnh tử ưu bi khổ não, như thị đẳng hỏa xí nhiên bất tức”.

53. Đốt cháy tư bề: Lửa khổ não đốt cháy cả thân tứ đại. Kinh Pháp Hoa nói “Tứ diện câu phàn” tứ diện tức là tứ đại.

54. Bao điều ác giác quan: a-Tư tưởng hèn xấu, độc ác, tám thứ riêng biệt gọi là ác giác. Sách Đại Thừa Chương Nghĩa cuốn 5 sau rốt nói “Những suy nghĩ nhớ tưởng lòng tà bất chánh gọi là giác quan, trái nghịch chánh lý, nên xưng là ác, ác giác bất đồng nhau, chia rời có tám. Sách Chỉ Quán cuốn 5 nói “Tám gió ác giác, đều chẳng đặng vào”. Tám gió: bát phong, vì nó xao động nhân tâm, nên gọi là gió: 1-Lợi, 2-Suy, 3-Hủy, 4-Dự, 5-Xưng, 6-Uy, 7-Khổ, 8-Lạc. Nghĩa là đặng việc vừa ý, gọi là lợi; mất việc sự vừa ý gọi là suy; chẳng có mặt người, bài bác gọi là hủy; chẳng có mặt người, khen tặng gọi là dự; xưng: trước mặt khen tốt; cơ: bài bác trước mặt người; khổ: những tiếng nói ép ngặt khó chịu; lạc: thỏa thích lòng dạ. Rút ở sách Yếu Lãm. b-Giác quan: Tân dịch tầm từ. Cựu dịch: giác quan. Tư duy mà thô phù gọi là giác, tư duy mà tiêm tế gọi là quan. Hai ấy, đều làm phòng ngại cái định tâm. Nhơn đó, xét cái giác và quan có hay không, để chỉ phán cái định tâm sâu hay cạn. Trí Độ Luận 23 nói “Giác quan ấy, nó hay làm nhiễu loạn tam-muội, do thế, nên nói hai sự ấy, tầm từ là thiện mà là kẻ giặc của tam-muội, khó mà xả lìa”. Giác là cái tướng của thân tâm; quan là cái tướng của tế tâm. Giác và quan là cái nhân phát ra lời nói, lìa cái tâm giác quan thì không nói năng. Kinh Duy Ma phẩm Đệ Tử nói “Pháp không danh tự, vì dứt nói năng; pháp không có nói, vì lìa giác quan”. Tăng Triệu chú rằng “Giác quan là cái thô tâm, hai nó đều làm cái gốc cho lời lẽ nói năng”.

55. Thời kỳ cực dài: Một tiểu kiếp kể có mười sáu triệu năm (16.000.000 năm). Hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp kể có ba trăm hai chục triệu năm (320.000.000 năm). Bốn trung kiếp làm một đại kiếp: cọng có một ngàn hai trăm tám chục triệu năm (1.280.000.000 năm). Nên nói là thời kỳ cực dài.
56. Mười hai can chi: Tức mười can và mười hai chi. Thập can là giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí. Thập nhị chi là tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Dùng nghĩa theo như cái súc, cái nhánh của cây. Tương truyền rằng ông Thiên Hoàng sáng lập ra. Thuở ông Hoàng Đế, có họ Đại Náo bắt đầu lấy thiên can phối với địa chi, để làm giáp tý. Đại loại như giáp tý, ất sửu, giáp tuất, ất hợi… tục gọi là lục thập hoa giáp tý, đại phàm, ghi niên, ngoạt, nhựt, thời đều dùng đấy, như lịch ----.

57. Tam quang: Là ba hiện tượng sáng soi xuống nhân gian. Sách Bạch Hổ Thông chép rằng “Trên vòm trời có tam quang là mặt trời, mặt trăng và các vì sao.

58. Bách nhứt sở tu: Lại nói bách nhứt cung thân, bách nhứt vật, bách nhứt chúng cụ. Nghĩa là, ngoài tam y, lục vật, tất cả những món đồ đạc để trợ việc hành đạo. Chữ bách là nói tổng quát số nhiều, chứ phi hạn cuộc vào số một trăm. Là nói đối với ngoài ba y, sáu vật, Tỳ-kheo với mỗi vật dụng, chỉ mỗi thứ chứa dùng một cái, nên nói: Bách nhứt cung thân, ngoài một cái ấy, nếu có cái thứ hai thì gọi là trưởng vật. Giả như: chỉ được sắm một cái bình uống nước, nếu có cái bình thứ hai nữa, là trưởng vật. Với trưởng vật ấy, nếu chẳng làm một phép “thuyết tịnh” thì chẳng được chứa để. Sống, Tỳ-kheo có ba phẩm căn tánh: 1-Thượng phẩm chỉ chứa dùng ba pháp y; 2-Trung phẩm lại được chứa bách nhứt; 3-Hạ phẩm lại được chứa trưởng vật.
Lục vật: 1-Tăng-già-lê từ chín điều đến hai mươi lăm điều, chung gọi là một đại điều y. 2-Uất-đa-la-tăng là nhất điều y gọi là trung y. 3-An-đà-hội là ngũ điều y, gọi là hạ y. Tức là cùng trên chung gọi “đại, trung, hạ” và là tam y. 4-Ni-sư-đàn tức tọa cụ. 5-Bát-đa-la, tức thiếc bát. 6-Lự-thủy-nan là đồ hộ vi trùng trong nước. Thế là tam y lục vật. Tam y ở trong lục vật, song, lại là căn bản trong sáu vật, nên được nêu riêng ra, tỷ như gọi thi, thư, lục kinh, vì kinh Thi, kinh Thư cũng ở trong ngũ kinh mà được gọi riêng là ngũ kinh lại còn riêng có Thi Thư nữa.

59. Trải lâu năm tuổi. Động kinh niên tể, tể: năm tuổi, làm chủ, cầm quyền. Đọc tế thì có bốn nghĩa đó. Đọc tái: vâng, như câu thiên phú địa tái; tái: bắt đầu; Tái: ghi chép việc; đọc tải: chở như vận tải.

60. Chỉ cần hai đầu. Lưỡng đầu tạc khai. Tạc: tản ra, buông ra, như nói hai tay buông ra. Hai đầu: Tâm cảnh, nhân ngã, bỉ thử, oán thân, thiện ác, phú bần, quí tiện… tâm ta đều buông bỏ tất cả, không phân biệt, trú trước vào bên nào, như nói“Trung gian, lưỡng ngạn bất cư” “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.

61. Để tự tiêu tức: Để tự nghiệm xét coi, sự cần tu và ý thức của ta, khi thức, lúc nghỉ, đã được như thế nào mà, nhận xét tin tức giác hay mê, định hay loạn động? Tiêu tức: âm tín. Lại, việc người chỉ có cát hung, thiện ác, nên gọi thư tín là tiêu tức.

62. Cầm lửa quay tròn. Triền hỏa luân: đêm tối, cầm lửa quay tít làm thành hình vòng tròn, với cái vòng tròn ấy tợ hồ có mà phi thực, để tỷ dụ hiện tượng giả dối của tất cả sự pháp. Kinh Lăng Nghiêm cuốn 3 chép “Sanh tử tử sanh, sanh sanh tử tử, như vòng tròn quay lửa, chưa có thôi nghỉ”. Sách Chỉ Quán cuốn 6 nói “Vì bị cái ngã kiến đó mà, tạo ra các kiết nghiệp (kiết sử), sa xuống tam đồ, trầm luân không thôi, như vòng quay lửa, nếu muốn thôi dứt, cần phải dừng tay”. Trí Độ Luận cuốn 6 nói “Như vòng quay lửa, chỉ lầm mắt người”.

63. Tin chết: Đầu bạc, răng long, mắt lờ, tai điếc, đó là những cái tin chết đưa đến trước cho biết vậy! Hoặc trong bà con chòm xóm, những người nhỏ tuổi hơn ta mà họ đã chết trước ta, đó là cũng tin chết cho biết trước vậy!

64. Đứa nhụ phu. Nhụ: tài năng thấp yếu. Nhụ phu: đứa yếu kém là lời tự khiêm, kẻ nam tử không có khí tiết. Sách Mạnh Tử nói “Nhụ phu hữu lập chí”.

65. Bạc địa phàm phu. Bạc: ép bức, là bị áp đè ở sát nơi mặt đất, tức là địa vị bị các khổ bức bách, chính cái cảnh giới của chúng phàm phu. Tịnh Tâm Giới Quán cuốn hạ nói “Chúng phàm phu ở nơi bạc địa cái thân hôi hèn xấu, quả báo thấp lút”. Trong Phát Chân sao chép lời của Văn Tuyển chú thích rằng “Bạc: bức, là ở sát mặt đất mà thôi,đấy là chỉ cả nhân loại ở nơi tứ bộ châu”. Giới Độ Ký cuốn hạ nói “Bạc, âm Bác”. Đại Bộ Bổ Chú cuốn 11 nói “Bác địa rộng rãi, mênh mông, và nhiều, vì đất hạ phàm rộng nhiều”. Căn cứ thuyết trên thì, chữ Bạc là mượn thay cho chữ Bác đấy. Lục phàm phu: Thiên đạo, nhân đạo, a-tu-la đạo, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục đạo, gọi là lục phàm: sáu chúng phàm phu.

66. Phật trí hiểu suốt ba thế gian, thể tánh nó bất sanh bất diệt, gọi là “thường”; còn cái tướng nó có sanh, có trụ, có dị, có diệt, gọi là “vô thường”. Ba thế gian: 1-Chúng sanh thế gian, là thuộc về chúng hữu tình, vì có cái tình thức, hữu tri giác, thực hiện bằng bốn cách sanh noãn, thai, thấp, hóa, đó là số chúng sanh. 2-Tứ thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật, tức là trí giác thế gian. 3-Thế giới, núi sông, đất liền, cây cỏ, vàng, thiếc, sạn, đá là khí thế gian tức vô tình loại. Lại, phi chúng sanh số là trong địa ngục, dạ-xoa, la-sát, hổ lang, sư tử… đều là ác nghiệp của phi nhân biến hiện bằng cách huyễn hóa; còn những tượng mã, thú vật của các vị Hiền Thánh cỡi đó, đều là do phước nghiệp biến hiện bằng cách ảo hóa, nên nói là phi chúng sanh số.

67. Vô duyên từ: Đọc đủ là “vô duyên từ bi”, duy chỉ chư Phật mới có đủ từ bi đây. Số là, tâm của chư Phật, chẳng trụ trong tánh hữu vi, vô vi, chẳng trụ vào đời quá khứ, tam muội vị lai. Vì biết các duyên đều chẳng thực có, bởi điên đảo hư vọng, nên tâm của chư Phật chẳng duyên (trụ) vào chỗ nào cả, nhưng, Phật thấy chúng sanh chẳng biết thực tướng của các pháp, nên qua lại năm ngả (đạo), tâm chấp trước vào các pháp, vì thủ xả và phân biệt… mà chư Phật tâm không phan duyên (trụ trước, phân biệt) vào chúng sanh, mới giải thoát được chúng sanh, là khiến cho chúng sanh tự nhiên được cái lợi ích bạt khổ dữ lạc. Nên nói “vận vô duyên (trụ) từ, tức vô duyên từ bi tâm”.

68. Khinh, trọng, khai, giá, trì, phạm: Khinh giới, trọng giới, giả như, Sa-di giới bốn giới căn bản trước là trọng, sáu giới sau là khinh. Lại, giới sát sanh dù trọng, mà tùy theo trường hợp cũng có khinh, như cố ý sát là trọng, còn ngộ sát (giết lầm, hay rủi ro lỡ tay) là phạm khinh tội. Lại, với cố sát mà giết người có đạo đức, ảnh hưởng nhiều với xã hội, là phạm trọng tội; giết kẻ vô dụng với đời, là phạm khinh tội… Khai: mở ra cho làm. Giá: ngăn cấm không cho làm. Trì: hành trì, giữ giới. Phạm: phạm giới cấm.

69. Kiết-la: Đọc đủ là Đột-kiết-la, nghĩa là cái danh phạm tội. Giới Sớ cuốn nhất nói “Ố tác ố thuyết, đồng hiệu kiết-la”.

70. Thập sử: Chia ra năm lợi, năm độn. Lợi: do mê mất cái lý tánh của Tứ đế mà sanh khởi ra năm lợi sử, vì nó bén sướt, lanh lợi giữa tánh mê hoặc, nên gọi nó là lợi (bén). Năm lợi sử như dưới: 1-Thân kiến: Tức ngã kiến và ngã sở, nghĩa là, chẳng biết cái thân ta đây là giả tạm bởi năm uẩn hòa hợp mà, lại cố chấp là thực tế có ngã thân, đó là cái bệnh ngã kiến; lại chẳng biết các vật chất ở chung quanh nơi bên thân ta đều là không nhứt định sở hữu chủ mà, cũng chấp kể là thực có vật sở hữu của ta, đó là cái bệnh ngã sở kiến. 2-Biên kiến: Sự thấy thiên về một bên, là sau khi đã chấp có ngã thân sanh khởi ngã kiến rồi thì, với cái “ngã” hoặc kể rằng sau khi chết rồi đoạn diệt hẳn, không còn có chi cả; hoặc kể rằng sau khi chết rồi hồn vẫn thường còn mãi chẳng hề dứt mất; đó là cái mê vọng ở bên sau nơi thân kiến. Tức là cái bệnh chấp đoạn (đoạn kiến) và cái bệnh chấp thường (thường kiến). 3-Tà kiến: Cái kiến thức bất chánh, vì bác bỏ đi cho là không có cái lý nhân quả. Nghĩa là, chấp rằng trong đời không có cái nguyên nhân nào có kết quả, cũng không có cái kết quả nào do nguyên nhân để sanh, với điều ác chẳng đủ sợ, với điều thiện chả đủ ham, như thế là cái bệnh mậu kiến, vì đã tà mà lại còn tà hơn nữa. 4-Kiến thủ kiến: Lấy cái tri kiến hạ liệt làm đầu, chấp lấy mỗi mỗi sự hạ liệt khác, nghĩ cho đấy là tối thắng. Chữ kiến trên, tuy chỉ về các cái thân kiến biên kiến, song nó còn hàm súc mỗi mỗi sự vật khác nữa. 5-Giới cấm thủ kiến: Do cái kiến thủ kiến trên, mới nhận lấy điều giới cấm phi đạo lý, phi quá thất làm đầu trước, rồi nhận lấy mỗi mỗi phép tu hành khác, để làm cái nhân được sanh lên thiên đình, hoặc đắc đạo quả Niết-bàn. Trong đây có hai cách tu: 1-Giữ ngưu giới (ăn ở cách như trâu, bò), kê giới (hành động như gà) để làm cái nhân sanh lên trời, đó là với cái giới cấm thủ kiến phi nhân mà chấp lấy làm nhân. 2-Tu đạo Đồ-thán, Ni-kiền-tử… tuyệt thực, ở lõa thể, nằm trên đống gai, gieo mình vào lửa, mỗi mỗi cách khổ hạnh, để làm cái đắc đạo Niết-bàn, đó là cái giới cấm thủ kiến phi đạo mà chấp rằng đạo. Năm cái kiến thức trên đó, là do nơi một phần của ác trí huệ, nên gọi lợi-sử. Năm độn sử là tham, sân, si, mạn, nghi, bốn sử trước, đều là do nơi mê chấp lấy các sự vật giữa thế gian mà sanh tâm khởi vọng hoặc; cái sử sau là Nghi, là đối với lý tứ đế, không hiểu mà khởi ra cái hoặc vọng này, Nghi lấy do dự chẳng quyết là cái tánh của nghi mà tánh nó đều trì độn, nên gọi là độn sử.

71. Tam Kiết: 1-Thân kiến kiết là cái ngã kiến, vì với trong sắc uẩn, mê vọng chấp kể có thân, cưỡng lập làm có ngã chủ tể. 2-Giới thủ kiết là hành tà giới, tức trong phi giới mà lầm lấy làm giới, chấp lấy để tiến tu… 3-Nghi kiết là với chánh lý hồ nghi, chẳng tin tứ đế Tam Bảo, lòng do dự không quyết được. Đoạn được ba kiết này là quả Dự-lưu.

72. Đẳng phần hành: Tức thân kiến, giới thủ, nghi kiết, mạn kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến. Hành: hành động, như tham hành, sân hành, si hành, thân kiến hành, giới thủ hành… mấy cái ấy cũng đồng phần hành động như nhau, nên nói đẳng phần hành. Lại đối trị tham, sân, si và đẳng phần cũng như trên là tham hành, sân hành, si hành, thân kiến hành, giới thủ hành… Bốn món phiền não cũng kêu là trí hoặc, Thành Duy Thức Luận quyển 4 nói “Cái thức thứ bảy là Mạt-na, nó thường hằng tương nhau với bốn món căn bản phiền não. 1-Ngã si, tức là cái vô minh, nó ngu muội nơi cái tướng ngã mà quên mất cái lý vô ngã. 2-Ngã kiến, tức là ngã chấp với cái pháp phi ngã mà mê vọng kể là ngã. 3-Ngã mạn tức là kiêu ngạo giữ lấy cái ngã sở chấp, khiến tâm đề cao lên.4-Ngã ái tức là ngã tham với cái ngã sở chấp, sanh tâm chấp trước quá sân”.

73. Tam minh, Lục thông.
Tam minh: Ở nơi Phật gọi là tam đạt, ở nơi A-la-hán gọi là tam minh; cái trí mà biết rõ rành các pháp, nên gọi là Minh. Lại gọi trí minh, lại gọi trí chứng minh, chứng cái cảnh của trí một cách rõ ràng phân minh. 1-Túc mạng minh: biết được cái tướng sanh tử từ các đời trước của thân ta và thân người. 2-Thiên nhãn minh: thấy được cái tướng sanh tử nơi đời vị lai của thân ta và thân người. 3-Lậu tận minh: biết được cái khổ thân của đời hiện tại, dứt hết tất cả phiền não. Lậu là phiền não. Song, tam minh ấy, tức ba thông là túc mạng, thiên nhãn và lậu tận trong lục thông.

Lục thông: Thần thông của các Thánh trong tam thừa sở đắc có sáu món, là 1- Thiên nhãn thông, 2- Thiên nhĩ thông, 3-Tha tâm thông, 4-Túc mạng thông, 5-Thần túc thông, 6- Lậu tận thông. – Tác dụng tự tại vô ngại, gọi là thông. Đều là chỗ sở đắc của Phật, Bồ-tát, ngoại đạo, chư thiên, tiên nhân và quỉ thần – Có ba thứ riêng biệt: 1-Báo đắc thông lực, như các trời trong ba giới, đều có năm món thần thông, nhẫn đến quỉ thần cũng có một vài tiểu thông; vì các thông ấy đều y nơi quả báo mà tự nhiên cảm được. 2-Tu đắc thông lực: các Thánh tam thừa, tu tam học mà đắc lục thông; ngoại đạo tiên nhân tu thiền định mà hiện được ngũ thông. 3-Biến hóa thông lực: các Thánh tam thừa, dùng sức thần thông mà biến hiện ra mỗi mỗi phép lạ. 1-Thần cảnh trí chứng thông: Cũng gọi thân như ý thông, thân thông, thần túc thông tức là cái thông lực biến hiện ra cảnh giới bất khả tư nghị thì, gọi là thân cảnh thông; cái thông lực qua lại dạo chơi tự tại thì gọi là thần túc thông; cái thông lực mà tự thân được biến hiện tự tại, nên gọi là thân như ý thông; thế là đều đến một kêu mệnh danh. Trong đó cái danh thần cảnh thông, rất là phổ thông thường gọi.

2-Thiên nhãn trí chứng thông: Được cái con mắt của trời Sắc giới, chiếu lâu mà không ngại, gọi là thiên nhãn trí chứng thông. 3-Thiên nhĩ trí chứng thông: Đắc cái thính giác trời Sắc giới, nghe rõ vô ngại. 4-Tha tâm trí chứng thông: Biết được cái tâm niệm của người khác mà không chi ngăn ngại. 5-Túc mạng trí chứng thông: Biết được sự sanh nhai các đời trước của mình và chúng sanh cả lục đạo mà không chi chướng ngại. Năm thông trên, là hoặc tu thiền định hữu lậu, hoặc y nơi sức thuốc, sức thần chú mà chứng đắc, nên các tiên nhân, ngoại đạo đều cũng có thể chứng được; năm ấy đều tên là trí chứng thông, là do vì đều y nơi trí mà chứng được thông lực. 6-Lậu tận trí chứng thông: Phép tột bực của các Thánh tam thừa, vì các lậu (tất cả phiền não) đã đoạn sạch hết, không chi làm chướng ngại; thành tựu được cái thông thứ sáu đây là, chỉ hạn riêng về các thánh tam thừa, chứ các vị trí tiên nhân, ngoại đạo thần quỷ đều không có, bởi không có nên còn phải luân hồi. Trí Độ Luận cuốn 2 “Hỏi: Thông với Minh có khác nhau những gì? Đáp: Chỉ biết ngay được việc túc mạng từ đời quá khứ thì gọi là thông; biết được những nhân duyên, hành nghiệp đời quá khứ thì gọi là minh; chỉ biết ngay được tử nơi đây, sanh nơi kia là thông; biết hành nghiệp nhân duyên phải gặp gỡ nhau, ảnh hưởng chẳng mất, là minh; chỉ mới dứt hết tam kiết, thập sử, chẳng biết còn phải sanh lại hay chẳng sanh, là Thông; nếu biết những hoặc lậu hết, chẳng còn sanh trở lại nơi tam giới nữa, là Minh.” Bà-sa Luận 77 “Hỏi: Với lục thông, ba cái kia sao chẳng gọi là Minh? Đáp: Thân như ý (thần cảnh thông) nó chỉ hay về công xảo; thiên nhĩ thông nó chỉ hay về nghe tiếng; tha tâm thông nó chỉ biết được tâm niệm của người khác. Nên ba ấy chẳng lập làm minh; còn ba cái kia, sở dĩ là minh ấy, là thiên nhãn thông nó gồm thấy biết được cái khổ của vị lai; túc mạng thông nó gồm thấy biết được cái khổ của quá khứ; đều hay chán lìa sanh tử. Lậu tận thông nó kiêm hay làm chánh quán mà dứt sạch hết các phiền não.”

Tam minh lục thông là A-la-hán đầy đủ tài đức ấy. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói “Nghe những âm thanh, khen pháp tứ đế, tức thời đắc A-la-hán đạo đầy đủ tam minh, lục thông và bát giải thoát”.

74. Huyền đạo: Là cái đạo huyền diệu, tức thông thường gọi đạo Phật là đạo huyền diệu.

75. Tuế hoa: Nghĩa như tuế thời. Sách Cựu Đường, truyện Trương Duyệt nói “Tích thị xuân tụng, trù mù tuế hoa” (xưa hầu xuân tụng, triền miên năm mùa).

76. Chân phong: Cái thói giáo hóa chân thực. Phong ở đây có ba nghĩa: 1-Giáo hóa, kinh Thư nói “Hàm ngưỡng trẫm đức, thời nãi phong: đều ngửa trông đức của ta, theo thời giáo hóa”. 2-Tục thượng: đời chuộng, kinh Lễ nói “di phong dịch tục”. 3-Cảnh tượng, như nói “phong quang, phong cảnh”.

77. Chỉ nam: Dụ, là nói chỉ dẫn định theo hướng, khiến kẻ hậu học chẳng đến nỗi quên lầm. Chỉ nam xa: chiếc xe có cây kim cứ chỉ ngay về hướng nam. Hoàng đế cùng đánh nhau với Xuy Vưu tại nơi cánh đồng trạc lộc, Xuy Vưu làm trận mù lớn tối cả trời đất, tướng sĩ đều chẳng biết đâu là phương hướng, Hoàng đế chế tạo ra chiếc xa chỉ nam, để chỉ phương hướng. Lại, thuở nhà Châu, họ Việt Thường Thị (tức nay là Chàm hay Chiêm Thành ở tại Phan Rang Phan Thiết Trung Việt) qua cống con Bạch Trĩ, chừng về sứ giả quên đường, Châu Công làm chỉ nam xa cho về nước (nước của họ Việt Thường xưa, tức là toàn cõi Trung Việt của Việt Nam ngày nay).

78. Trí Vô Sư: Là cái Phật trí không do thầy dạy trao mà chỉ một mình mình giác ngộ ra, kinh Pháp Hoa phẩm Thí Dụ nói “Nhứt thế trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí”. Gia Tường Sớ cuốn 6 nói “Vô sư trí ấy, là ba trí trước đều chẳng do nơi thầy mà đặng, nên nói là vô sư trí”. Kinh Đại Nhật cuốn nhứt lời sớ nói “Như thế, với cái cảnh tự chứng, kẻ nói không lời, người xem không thấy, cái mà không lời, không thấy đó, nó chẳng đồng như quả am-ma-lặc trong tay có thể chuyển trao cho người khác được; nếu có thể lấy lời nói trao cho người thì, khi mà Thích-ca Bồ-tát nhờ Phật Định Quang trao quyết, liền được thành Phật mới phải. Cớ sao còn đợi tu đủ phương tiện, đến chừng do vô sư tự giác ngộ, mới gọi là thành Phật ư?” Trí: với sự, lý đều quyết đoán được cả. Đại Thừa Nghĩa Chương cuốn 9 nói “Cái tâm huệ an pháp, gọi là nhẫn, với cảnh quyết đoán, nói là trí”. Duy Thức Thuật Ký cuốn 9 nói “Vì nhẫn là nói cái trí để quyết đoán”.

79. Đạo Thiên Chân: Là cái đạo lý thiên nhiên mới là chân thật, cái chân lý thiên nhiên, phi người tạo tác ra. Sách Chỉ Quán cuốn nhứt nói “Cửa pháp trong mầu, là thiên chân độc lãng”. Phụ Hạnh nói “Lý phi tạo tác, nên gọi thiên chân, chứng trí viên minh, nên nói độc lãng”. Thiên chân tức pháp thiên.

80. Can qua: Can, tức cái thuẫn là cái khiên, làm bằng da, xưa, khi ra trận, dùng mang để che đỡ mũi tên bên địch bắn, phóng qua. Qua: mũi nhọn mà có một chi chỉa ngang ra gọi qua, còn hai chi đều chỉa ngang, gọi là cái kích, đều là đồ binh khí xưa. Can qua là tên chung của vũ khí. Can qua là gọi chiến tranh. Như nói “Nhựt tầm can qua”. Nghĩa là, thuộc về người phản bạn thì nói đảo qua tương hướng. Còn đồng nhơn mà tự tranh đấu nhau thì nó đồng nhất thao qua. Người học Phật mà phân môn biệt phái với nhau, học đâu chấp đó, lấy kinh luận tranh đấu công kích, nên nói là lấy kinh luận làm can qua.

81. Hàm thỉ: Hàm, vỏ áo để giắt gươm hay giắt tên. Hàm nhân: thợ thuộc da làm vỏ áo giắt gươm tên đem bán, chưa mấy ác nghiệt. Thỉ: mũi nói tên hoặc mũi lao. Thỉ nhân: thợ chuốt vót tạo mũi tên đem bán. Sách Mạnh Tử nói “Thỉ nhân duy khủng bất thương nhân: người làm mũi tên chỉn e chẳng hại người” thì cũng chưa mấy là ác. - Người mà mua hai món ấy, để làm điều sát hại, mới là đại ác! - Cũng như các nhà trứ tác xưa, chưa chi là thực ác; chỉ có các người hậu học chấp lấy các tác phẩm của tác giả, rồi phân biệt, chấp nhứt công kích lẫn nhau, mới là thực ác! Nên nói tình ở nơi hàm thỉ mà đổi dời. Hàm thỉ là áo giắt mũi tên.

82. Chuẩn đích. Chuẩn: bình, cái ni, cái cỡ, cái ống thủy dùng để lấy mực bình, tục gọi là cái thủy bình chuẩn. Đích: chắc, cái phiêu chuẩn để nhắm bắn, mục đích. Nên nói “Người tham thiền phải lấy kinh luận làm chuẩn đích”.

83. Xem kinh xưa rộn trong lòng: Tổ Dược Sơn xem kinh Niết Bàn. Có một nhà Tăng thấy hỏi: - Thường thường Hòa thượng không cho học giả coi kinh, nay sao Hòa thượng lại tự coi? Đáp: - Chỉ vì để che con mắt. Hỏi: - Học giả này xem có được không? Đáp: - Ông nếu xem, dù da trâu cũng lủng, huống là giấy!

Đấy, chỗ gọi là “vị miễn tâm náo”! Cổ nhân nói kệ:

Bộ trụ đăng lung xí nhiên thuyết,
Mạc học lư niên chỉ thượng toàn.
Khán kinh tu cụ khán kinh nhãn,
Đa kiến khán kinh kị nhãn man!

84. Gương xưa chiếu tinh: Thuở nhà Tùy, ông Vương Độ, có đặng một mặt bửu kính. Khi ông được thuyên chuyển đi nhậm Huyện lịnh, ghé trọ nơi lữ quán, thấy trong nhà hàng này có một thiếu phụ rất kiều diễm, hỏi chủ quán: - Nàng ấy phải chăng là con dâu gì của chủ nhân?. Đáp rằng: - Trước kia, có một hành khách dắt nàng đến, xin tạm gởi, rằng vài ngày sẽ lại làm lễ cưới, nhưng đã vài tháng rồi chả thấy người trở lại. Quan huyện nghi là phi nhân, liền lấy bửu kính ra. Nhanh như chớp, thiếu phụ liền thấy, rất sợ hãi! Xin thú thực rằng: -Tôi là Lão hồ tinh, bấy nay đánh lừa đã nhiều người mà, chừ phải chịu chết nơi tay Quan huyện, vì Ngài có cái gương báu, xin Ngài cất bửu kính đi. Vương Độ nói: - Cất gương, đặng ngươi trốn sao? Hồ tinh nói: - Bửu kính là thần vật soi sáng thì, còn chỗ nào ẩn hình được! Thôi trăm lạy quan lớn, làm ơn cho tôi no say một tiệc rồi chết. Vương Độ bảo chủ nhân cho nó một mâm rượu thịt, nó ăn uống rồi nằm ngủ, coi lại thì chỉ thấy nó lộ nguyên hình là con chồn cáo cái già…

85. Cổ giáo chiếu tâm: Như nói đem ngọc minh châu để xuống chỗ nước đục thì, nước đục chẳng đặng chẳng trong; pháp niệm Phật ấn vào nơi loạn tâm thì, loạn tâm không đặng không Phật. Nên nói “Cổ giáo chiếu tâm kỳ tâm tự minh”.

86. Thượng trung hạ tọa: Tỳ Ni Mẫu nói “Thụ giới Cụ túc rồi, từ chưa có tuổi hạ (chưa kiết hạ an cư) đến 9 hạ an cư, là bậc Hạ tọa; 10 hạ đến 19 hạ, là bậc Trung tọa; 20 hạ đến 49 hạ, gọi là bậc Thượng tọa. 50 hạ nhẫn lên, là bậc Kỳ túc Trưởng lão, đối với bậc này, tất cả sa-môn, các quốc vương, đều phải tôn kính.

87. Ngày tiết hội: Phong tục của nước Ấn Độ, cứ hai tháng làm một tiết, một năm kể có sáu tiết hội, với ngày tiết hội, tập họp tổ chức một cuộc tiệc hí lạc…

88. Đông miệng nát vàng: Là câu chữ “chúng khẩu thước kim” của sách Quốc Ngữ. Thước: lấy lửa thét (đốt nướng) vàng cho tiêu tan ra, phàm những tiêu tổn là nghĩa chữ thước. Đông miệng nát vàng: ý nói dụm miệng nói ồn ào, làm cho người ta động niệm thì, mình phải bị tiêu tổn phước đức rồi!

89. Thoại đầu: Đầu câu chuyện; đầu câu chuyện tức là cái tâm, vì tâm nó không hình tướng ngữ ngôn, mà hình dung lời nói, đều do tâm niệm phát sanh, nên thoại đầu là cái tâm. Đọc đủ là thoại đầu công án là cái công án về thoại đầu chi. Thoại đầu là một câu vô nghĩa, vì do nhà thầy trao cho học giả nghiên cứu. Như khô mộc lý long ngâm…; Nam-mô A-di-đà Phật, cũng là niệm Phật thoại đầu. Công án: Bên nhà Thiền đối với cái cơ duyên của Phật Tổ sở hóa, mà đề khởi ra lời nói vượt hẳn ra ngoài cách thức, để chỉ thị cho động tác. Người đời sau gọi đó là công án. Công án tức là nhân duyên. Công án là án độc của công phủ, tức là luật lịnh, vì rất nghiêm mà chẳng thể phạm, khá dùng làm phép tắc, khá dùng đoán điều thị điều phi. Từ trước Phật Tổ để lời chỉ thị, là chính lịnh của tông môn, để phán quyết điều mê điều ngộ, nên giống với công án kia, thành thử người ta kêu là công án, bảo là một ngàn bảy trăm phép công án. Thực thế.

90. Cát đằng. Cát: Dây cỏ Cát, Đằng: dây mây, hai thứ dây cỏ này, đều là thực vật mà, sanh trưởng cả lùm bụi, tàn lan. Lại, cát đằng thí dụ là phiền não; lại chê là sự phiền toái của pháp môn. Lại gọi là ngôn ngữ (lời lẽ chữ nghĩa), lời của nhà Thiền thường nói. Kinh Xuất Diệu cuốn 3 nói “Phàm là chúng sanh mà đọa vào lưới ái, ắt làm hư chánh đạo… dường như cát đằng leo quấn lên cây, bò lên tới ngọn, khắp bủa phủ che thì cây phải chết khô”. Chủng Điển Sao quyển nhứt nói “Cát đằng là ngữ ngôn”. Tùng Lâm Thạnh Sự nói “Các tu sĩ bên Thiền tông, hễ thấy nói việc chi mà phức tạp như nhánh dây tràn lan không chóng tắt thì, gọi cát đằng”.

91. Hồ Hán. Ho: Dưới hàm thịt no thòng xuống và râu mọc dưới hàm. Đối với các giống dân ở phía bắc Trung Hoa, người Tầu gọi là các nước Hồ, vì địa các (dưới hàm) phong hậu, râu mọc. Các nước mà người gọi là Hồ như Hung Nô, Tiêu Ty, Yết, Đê, Khương. Với các nước ấy, họ gọi là Ngũ Hồ, đời Đông Tấn có cơn giặc loạn Ngũ Hồ. Sách chép là Ngũ Hồ loạn Hoa. Với Ngũ Hồ họ cũng gọi là Bắc địch. Hồ ngôn: nói tiếng nước Hồ, vì học tăng lúc bấy giờ, phần nhiều thiên về đua học tiếng ngoại ngữ, nên bị Tổ quở; còn học tăng Việt Nam ngày nay cũng nhiều người, nội điển chưa thông mà, ý ức đua học ngoại ngữ thì, Tổ nào quở đây!? Hán: người nước Trung Hoa, họ tự xưng nước họ là Hán, như Hán địa, xưng dòng giống là Hán tộc, xưng nam tử là Hán tử, gọi người bổn bộ là Hán nhân, gọi văn tự là Hán văn, Hán ngữ, Hán tộc là vì đối với Mãn, Mông, Hồi, Tạng và Miêu tộc.

92. Hoạt kế: Là cái kế hoạch để sanh hoạt. Vương Kiến thi rằng “Vạn sự phong xuy quá nhĩ luân, bần nhi hoạt kế diệc tằng văn”. Tục ngày nay, người ta cũng bảo nữ hồng (công) là hoạt kế.

93. Tánh thiên chân: Là cái tánh thiên nhiên, là nói tự thị mình có cái tánh thông minh sẵn có, chấp trước cái không (ác thủ không), thế là thông minh nhẫn bị thông minh ngộ.

94. Thô giải: Đối với Phật pháp chỉ hiểu thô thiển, nên gọi là thô giải pháp sư.

95. Giáo nhãn: Tức pháp nhãn, là con mắt coi giáo pháp, chỉ hiểu biết nông cạn bằng cách như bì phu chi học!

96. Hư đầu: Cái đầu óc trống lép. Hư đầu tức không đầu.

97. Hạnh môn: Tức hành môn công vụ, nhưng hư đầu thiền khách này chỉ ỷ lại vào trực chỉ thiền mà, chưa được chân tham thực ngộ, lại hay nói bướng là không cần hữu vi, nên ăn rồi ngồi không, chả có một mảy vận thủy ban sài gì cả, nên nói “bất quí hạnh môn”. Người mà như thế, quá ư vô ích, chẳng bằng cục phẩn, vì phẩn còn có chó ăn, cá ăn, hoặc người ta dùng làm phân bón.

98. Bịnh thiên khô: Là thiên lệch về cái bịnh khô tâm, vì chẳng được có pháp thủy, huệ lưu triêm nhuận gì! Như Ngũ Đăng Hội Nguơn nói “Xưa có một nhà tín nữ, thường tứ sự cúng dường một ông khất sĩ mà bà rước về ở nơi tịnh xá của bà lập trong vườn, trải qua hai mươi năm, thường sai một thiếu nữ mười sáu tuổi đem cơm hầu họ. Bữa nọ, bà bảo con gái của bà ôm ông Sư và hỏi rằng: - Chính lúc này như thế nào? Sư đáp: - Khô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí (Cây khô nương núi lạnh, mùa đông không hơi ấm). Con gái về thuật lại với mẹ. Bà than: - Hai chục năm nay, ta cúng một ông sư chết khô . Bà buộc sư phải tìm thầy hỏi học đã, rồi hãy tu. Người đời bấy giờ thêm hai câu nữa, thành một bài kệ: Khô mộc ỷ hàn nham tam đông vô lãnh noãn, khả tích nhị thập niên, dưỡng nhứt cá tử hán (Khá tiếc hai chục năm, nuôi một thằng cha chết!)”

99. Đoạn hoặc chứng chân. Hoặc: cái tâm mê vọng, mê với cái cảnh sở đối mà, điên đảo sự lý, gọi là hoặc, là cái tên gọi chung các tham, sân, si mọi phiền não. Tham Huyền Ký 13 nói “Tâm mê tiền cảnh, gọi đó là hoặc”. Nhân Vương Kinh Hiệp Sớ nói “Hoặc là cái tâm mê vọng”. Đoạn hoặc: là đoạn cái vô minh hoặc, vì nó là căn bản vô minh, hay làm che ngăn cái lý trung đạo (chân như). Bên Biệt giáo, các Bồ-tát bực Sơ địa bắt đầu đoạn nó, các Bồ-tát bên viên giáo, từ Sơ trụ bắt đầu đoạn nó, đều nghĩa là mỗi bực địa dứt một phần vô minh là, chứng một phần chân như (Trung đạo, Pháp thân, Niết-bàn), cứ thế tiến lên, mỗi địa mỗi địa mỗi đoạn hoặc chứng chân, mãi cho đến bực Đẳng giác Bồ-tát đoạn một phần rốt sau là vi tế hoặc, cũng kêu là tối hậu nhứt phần sanh tướng vô minh, cũng rằng tối hậu phẩm vô minh, đến đây mới là dứt sạch hết vô minh hoặc chứng cứu cánh tam giáo viên minh, tức thành Phật quả.
Phu: Tối hậu phẩm vô minh là cái phần vô minh này thể nó cực vi tế; đối với thứ lớp sanh khởi thì, gọi nó là “vô thỉ vô minh”, “căn bản vô minh”, “ngươn phẩm vô minh”; về thứ đệ đoạn diệt thì, kêu nó là “tối hậu phẩm vô minh”, “chung phẩm vô minh”.

100. Tác gia: Là danh từ để xưng hô bực “Đại hữu cơ dụng” bên Thiền tông, Bích Nham nhị tắc bình xướng nói “Ngài Triệu Châu là bậc tác gia”. Lại nói “tác gia tông sư”. Tác gia: làm nhà, tức Phật pháp đống lương, Phật Tổ gia phong. Nghĩa là bậc thầy của nhân, thiên.

101. Thuyết dục: Nói muốn, là thay vì nói kia muốn đồng sự. Dục nghĩa là hi cầu. Duy Thức Luận 5 nói “Dục là tánh nó hi vọng, tác dụng nó là cần y”. Thuyết dục: với các pháp sự như thụ giới, thuyết giới… mà mình vì có lý do sự duyên, chẳng thể thân đến pháp hội được, nhưng với pháp sư mình sẵn có cái hi vọng tùy hỉ cọng đồng với việc ấy, gọi là Dục, đem cái dục ý ấy trao lại cho một vị Tỳ-kheo khác, gọi là Dữ dục, vị Tỳ-kheo ấy chịu lời ủy thác, gọi là thụ dục, ra giữa chúng tăng để trình bày nói, gọi là thuyết dục.

102. Sáu tình: Các kinh luận của Cựu dịch, phần nhiều gọi lục căn là lục tình, do vì căn nó có tình thức, tình là một của ý, là cái danh đương thể, do vì ý căn là tâm pháp, còn năm kia sanh ra tình thức, nên do nơi quả sở sanh mà gọi là tình. Thập Trụ Tỳ-bà-sa nói “Cấm sáu tình như buộc cột chó, nai, cá, rắn, vượn và chim”. Gia Tường Trung Luận Lục Tình phẩm nói “- Hỏi: với ý, có thể gọi là tình, còn năm kia, sao gọi tình được? - Đáp: ý, đương thể nó gọi là tình, còn năm kia là cái quả sanh ra tình thức, thế là do theo quả xưng tình. Lục tình, cũng bảo là lục căn, vì năm căn năng sanh ra năm thức, ý căn năng sanh ra ý thức. Lục tình cũng gọi là lục y, vì chỗ sở y của lục thức”.

103. Day mặt vào vách: Kinh Thư nói “Bất học diện tường: chẳng học mặt vách”. Lời chú “Người mà không học, như kẻ đứng day mặt vào bức tường”. Hán Thư nói “Học thói mặt vách, chả biết phải chăng!”

104. Cốt đổng: Nghĩa là xăng lộn, món ăn bằng cách nấu chung lộn nhiều thứ, như xứ ta gọi là nấu kiểm, hay xà bần. Bên Tàu gọi là Cốt đổng canh. Sách Phi Tuyết Lục nói “Ông Tô Đông Pha thường nấu canh cốt đổng”. Sách Cừu Trì bút ký nói “Tại xứ La Phù Sơn, các người già yếu, phần nhiều ưa dùng cá thịt các vị nấu chung mà ăn, gọi là cốt đổng canh”. Ở đây nói “Đáo lão toại thành cốt đổng” ý rằng già lẫn lộn, hết biết dơ sạch, xấu hổ, phải chăng gì ráo!

105. Núi La Phù: Vị trí tại phủ Huệ Châu (Huệ Dương huyện), tỉnh Quảng Đông.

106. Cái thời dị thục. Thục: chín. Bổ Chú 11 nói “Cựu dịch quả báo (cái thân là quả báo), Tân dịch dị thục, Duy Thức Thuật Ký cuốn 2 nói “Nói dị thục ấy, là hoặc dị thời (thời khác) mới thục hoặc biến đổi khác lạ mà thục, hoặc khác loại mà thục”. Nên nói cái thời dị thục đã đến. -Nương nơi nghiệp thiện hay ác của đời quá khứ mà đặng cái tên chung của thân quả báo đời nay. Nghĩa là cái quả nó khác với tánh chất của cái nhân mà thành thục. Như tạo thiện nghiệp thì cảm lấy lạc quả; tạo ác nghiệp cảm lấy khổ quả, là cái lạc quả phi thiện tánh mà là vô ký tánh (phi thiện phi ác là vô ký), đối với cái nghiệp thiện tánh có thể nói là dị loại (thiện tánh loại nó khác nhau với vô ký tánh), khổ quả đối với ác nghiệp thì, khổ quả phi ác tánh mà là vô ký tánh, thế cũng là tánh chất của nhân nó khác nhau với quả (hai quả khổ lạc đều là vô ký tánh). Nhân đó, gọi rằng dị thục quả. Là nghĩa nhân cùng quả ắt cách đời với thời khác mà thục. Nên Câu Xá Luận cuốn 6 nói “qua loại khác mới thục (chín), là nghĩa của dị thục”.

107. Lâm khát quật tỉnh: Sách Yến Tử Xuân Thu nói “Để cho chết chìm rồi mới hỏi cách sa đắm, quên lối đi rồi mới hỏi thăm đường, tỷ như lâm nạn rồi mới đúc binh khí, khát khô nghẹn rồi mới đào giếng, dẫu có cần cấp đến đâu, cũng không kịp nào!” Đời nói lâm khát quật tỉnh là điển trên đây. Xứ ta họ nói “Để nước đến trôn rồi mới nhảy!”

108. Gió nghiệp: Cái nghiệp thiện ác, nó thường khiến người chuyển di để luân hồi trong tam giới, nên tỷ là gió. Kinh Chánh Pháp Niệm cuốn 10 nói “Trong tất cả gió, gió nghiệp là đệ nhất”. Đại Thừa Nghĩa Chương cuốn 7 nói “Sức nghiệp như gió, nghiệp thiện, gió đưa chúng sanh ấy đến chỗ tốt mà thụ lạc; ác nghiệp, gió thổi chúng sanh ấy đến chỗ xấu mà chịu khổ”.

109. Làm cái có kẻ khác: Ông Trang Tử ca rằng “Nhà bị người khác ở, ruộng bị người khác cày, ngựa bị người khác cưỡi, con bị người khác khiến, vợ bị người khác yêu…”. Chính chỗ bảo rằng “tòng tiền kim ngọc phú tha nhân, thế thượng dĩ canh tân nghiệp chủ!”

110. Vô lượng: Sách Thống Tôn toán pháp, ghi số vô lượng này “100.000.000.000.000.000.000.000.000.000”.

111. Dòng nước bộc bố: Suối bay, là nước do trên đầu tảng đá đứng cao chót vót đổ ngay xuống, thế nó dội vọt trào, bọt nước bay văng tung tóe, ở xa trông thấy như lụa bạch kê bức giăng thả xuống, nên gọi là bộc bố. Bên Trung Hoa có chín, mười bộc bố mà suối bay ở huyện Tinh Tử tỉnh Giang Tây là thắng cảnh hơn cả. Ở nước ta có bộc bố (thác) Prenn trong Đà Lạt, cũng là thắng cảnh.

112. Đao phong: Thân mạng của con người khi sắp cuối cùng, có cái phong khí nó giải phẫu cả chi tiết như dao xẻ, gọi là đao phong, chỗ gọi là cái khổ “đoạn mạt-na”. Kinh Chánh Pháp Niệm 66 nói “Khi mà cái hiện mạng cuối, đao phong đều động, da thịt gân xương mỡ tủy tinh huyết, tất cả đều bị như xẻ dứt”. Kinh Ngũ Vương nói khi muốn chết, đao phong xẻ hình, không chỗ nào chả đau!” Hành Sự Sao Tư Trì Ký nói “Hay róc chi tiết, nên dụ như dao”. Đoạn mạt na Dịch là chi tiết, lại dịch là tử huyệt, trong thân của con người có những chi tiết (huyệt) lạ hẳn, vật khác chạm đến thì, đau rất nguy kịch, sanh mạng ắt phải chết; khi con người sắp chết, trong ba đại thủy, hỏa, phong, hễ một đại tăng phồn thạnh lên, nó chạm đến cái mạt-na, khiến cái mạng phải dứt hẳn, gọi là đoạn mạt na. Đoạn: phi cắt dứt mạt-na, chính là một đại nào (trong ba đại) chạm đến cái tử huyệt (mạt-na) mà cái mạng nó đoạn tuyệt. Câu Xá Quang Ký 10 nói “Mạt-na là cái tử huyệt trong thân thể con người, cái lượng nó rất nhỏ, chạm đến phải chết!”. Trong Pháp Tạng nói “Trong thân chúng sanh, có cả trăm chỗ (huyệt) tên là mạt na, đụng nhằm phải chết”. Tụng Sớ nói “Ba đại thủy, hỏa, phong hễ một nào tăng thạnh thì bén như gươm dao, chạm đến mạt na, nhân đó mạng chung nên gọi là đoạn. Đoạn: phi như chặt củi, đứt thành hai khúc; chỉ do một nào trong ba đại cho đến mạt na, khiến thân không biết nên gọi là đoạn”.

113. Mười sáu phần hãy chẳng còn một: Là nói, hằng ngày lúc bình thường, sự khỏe khoắn vui sướng đầy đủ mười sáu phần thư thái mà, khi sanh nghiệp cuối cùng chả còn một phần nào cả! Vì, từ trước chẳng làm thiện nghiệp, như là ưa thốt lời châm biếm dèm pha làm cho người bị đau đớn thốn tim, nên lúc cuối cùng, bị cái quả khổ đao phong đủ cả mười sáu phần! Bên Chân ngôn Mật giáo, dùng con số 16, để tiêu biểu cho số viên vô tận. Các kinh đều lấy số 16, để gồm thâu cho tất cả, như Bát-nhã thì thập lục không, mặt nguyệt thì thập lục phần mãn. Giả tỷ như nói một thù đủ mười sáu lượng…

114. Hữu lậu thiện ác: Tỳ Bà Sa Luận nói “Hữu tức có nghiệp, cái nghiệp nó thường khiến tiếp tục sanh qua đời sau, nên gọi là tức có sanh. Lậu: lọt, rịn ra, là sáu căn lọt rịn ra sáu trần, tức là nghĩa lưu ở lại khiến chúng sanh lưu ở lại trong tam giới”. Kinh Niết Bàn nói “Pháp hữu lậu có hai (1-Nhân, 2-Quả), hữu lậu quả thì gọi là khổ, hữu lậu nhân thì gọi là tập”. Hữu lậu thiện pháp: nghiệp nhân hữu lậu có thiện và ác là tam qui ngũ giới, thập thiện, tức thiện pháp; tam độc, ngũ nghịch, thập ác là ác pháp. Hữu lậu thiện pháp thì, đưa đến kết quả vui hữu lậu, như đắc quả làm người làm trời; ác pháp hữu lậu, chiêu cảm lấy khổ quả hữu lậu, quả báo làm ngạ quỷ súc sanh. Lậu là cái tên khác của phiền não, nó hàm có sự vật phiền não nên gọi là hữu lậu; những sự thể của tất cả thế gian, đều là pháp hữu lậu, sự thể xuất thế gian đều là lìa phiền não, đều là vô lậu pháp.

115. không lìa lòng dục nhiễm: Loài vũ tộc đều có giống trống mái, loài mao quần đều có giống cái đực; cả nhân loại trên bốn quả địa cầu là Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lư Châu đều có nam tánh nữ tánh; đến cả sáu cõi trời Dục giới, cũng cùng đều có thiên nam, thiện nữ; tất cả đều do lòng dục nhiễm để sanh, nối nòi với nhau. Kinh Lăng Nghiêm nói “Nhứt thế chúng sanh giai do dâm dục nhi chứng tánh mạng”.

116. Lìa lòng dục nhiễm: Trong bốn thiền thiên, gồm có một cõi trời Phạm, toàn là thiên nam, chứ chẳng có thiên nữ, do tu bốn thiền định mà, cảm cái quả báo sanh nở bằng cách hóa sanh, nghĩa là tự nhiên biến hóa xuất hiện ra, chứ phi thai sanh như chúng sanh ở cõi Dục giới này, nên Sơ thiền thiên đã được gọi là “Xả dục thanh tịnh địa”; cả đến mười tám Phạm thiên, đều bội phần thanh tịnh, vì đã lìa sự dâm dục, nên không phạm, nghĩa là thanh tịnh.

117. Thân sắc chất: Trường Thủy Khan Định Ký cuốn nói “Các trời Hữu sắc, tức là lấy sắc uẩn làm thân, nên gọi là sắc chất. Các trời Vô sắc, tức là lấy bốn uẩn thụ, tưởng, hành, thức làm thân, nên gọi là “Vô sắc”.

118. Chẳng kể kiếp số: Kinh nói “Đời sanh tử về quá khứ như số thạch kiếp khôn cùng, vòng luân hồi về vị lai như số giới thành chẳng hết”. Thạch kiếp: Lấy bàn thạch, giới tử để tỷ dụ cái lâu của kiếp. Trí Độ Luận cuốn 5 chép “Phật lấy thí dụ để nói nghĩa của kiếp, tỷ như một quả núi đá cao, lớn tư vuông bốn mươi dặm, có người sống lâu, cứ mỗi một trăm năm đến một lần, lấy cái áo tế nhuyễn lau qua một bận, như thế mãi chừng nào núi đá ấy tiêu mòn hết mà cái kiếp chưa hết. Lại, một cái thành lớn bằng bốn mươi dặm, hột cải chứa đầy trong thành ấy, có người trường thọ cứ mỗi một trăm năm đến một lần, bốc bỏ ra một hột cải, như thế mãi chừng nào hết thành hột cải mà cái kiếp cũng chưa hết, nên gọi là kiếp bàn thạch, kiếp giới thành”.

119. Đương tiểu kiếp thứ chín, còn mười một tiểu kiếp nữa là đến hoại kiếp. Cái biểu dưới đây:

Biểu đồ

Hai lần tăng và giảm: Trong mỗi tiểu kiếp, thuở mà cả nhân loại mọi người đều chỉ sống còn có mười tuổi là trọn đời, đó là thời giảm đã cực độ; từ đấy, cứ qua trăm năm là mỗi người được tăng lên một tuổi, mãi như thế; đến thuở mà cả nhân loại mỗi người đều sống đủ tám vạn bốn ngàn tuổi, đó là thời tăng đã cực điểm. Từ đó, cứ qua trăm năm giảm một tuổi, mãi cho đến chỉ sống mười tuổi. Một giảm một tăng như thế là một tiểu kiếp…

120. Bốn uẩn: thụ, tưởng, hành, thức. Thụ: Đối với cảnh mà, cái tác dụng của tâm nó thừa thụ sự vật. Tưởng: Đối với cảnh mà, cái tác dụng của tâm nó tưởng tượng lấy sự vật. Hành: Đối với cảnh mà, cái tác dụng của tâm nó quan hệ với tham, sân, si, thiện, ác tất cả. Thức: đối cảnh mà, bản thể của tâm rõ riêng hiểu biết sự vật.
Sắc uẩn: Gồm trùm cả năm căn, năm cảnh là vật chất có hình trạng. Lấy một hữu tình để tượng trưng, thì, một sắc uẩn tức là thân, cả bốn uẩn tức là tâm. Trong tâm: thụ, tưởng, hành ba ấy trên tâm tánh, chúng đều là mỗi một uẩn tác dụng đặc biệt, nên gọi là tâm sở hữu pháp, tức cái pháp sở hữu của tâm. Một cái thức ấy là tự tánh của tâm, nên gọi là Tâm vương. Số là, ngũ uẩn là hai pháp thân và tâm, như chúng hữu tình ở Dục giới, Sắc giới thì có cái thân là do cả ngũ uẩn mà thành thân; như chúng hữu tình ở Vô sắc giới thì không có cái thân bằng hình sắc, mà từ nơi bốn uẩn để thành cái thể bằng tư tưởng, nghĩa là bằng tinh thần, chứ phi vật chất.

121. Truy lưu. Truy: vải nhuộm màu thâm thâm, là có hơi đen (phi thực đen) mà ửng đỏ, tức tục gọi là màu đà. Nhà tăng mặc truy y, nên gọi Truy lưu, hoặc Truy đồ. Lưu là nghĩa lưu loại, tức chúng loại mặc y. Thích Thị Yếu Lãm nói “Truy lưu, đấy là do nơi màu áo mà đặt tên”.

122. Đời mạt pháp: Mạt pháp là một trong ba thời (chánh, tượng, mạt). Nghĩa là cách với đời Phật còn tại thế rất lâu dài mà, cái thời kỳ giáo pháp thỏn mỏn cuối rốt. Kinh Pháp Hoa Gia Tường Sớ cuốn 5 nói “Lại cuối mảy rốt, gọi thời mạt pháp”. Ba thời, có nhiều thuyết, như nói “Thời chánh pháp năm trăm năm; thời tượng pháp một nghìn năm; thời mạt pháp một vạn năm. Phần nhiều dùng thuyết này”. Ba thời chánh, tượng, mạt, nghĩa là, sau khi Phật nhập diệt, bảy chúng đệ tử chân thật tu hành đúng chánh pháp, gọi là thời chánh pháp. Sau thời chánh pháp, thất chúng đệ tử tu hành mường tượng giống với chánh pháp, là thời tượng pháp. Cái thuở mà pháp của tượng pháp dần dần suy diệt, là thời mạt pháp.

123. Ông Lương Đạo: Lương là thiện (hay, khéo) hơn người; đạo: dẫn dắt. Lương đạo là vị tăng sĩ có đức hạnh, tài năng hơn người, có thể thay Phật làm đạo sư để hướng đạo cho học chúng.

QUI SƠN CẢNH SÁCH
CUỐN THƯỢNG HẾT

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8763)
Vì “Giới luật là nền tảng của Phật giáo" (Vinayo Buddhànasàsanamùlam) nên chư Tăng Phật giáo Nam Tông dù ở bất cứ quốc gia, khu vực địa lý nào trên thế giới, cũng đều có chung một đặc điểm là yêu cầu nghiêm trì giới luật. Chư Tăng Phật giáo Nam Tông Kinh tại Việt Nam, xưa nay cũng đặt nặng yêu cầu đó, ở cùng mức độ, và không chấp nhận một biệt lệ nào trong việc giữ gìn giới luật của Phật chế.
24 Tháng Hai 2014(Xem: 13241)
phong_sinh_chim_300Tâm hay trách móc, hay hờn tủi, tâm đó sẽ làm cho chúng ta khổ đau. Không sợ già, không sợ chết, chỉ sợ chúng ta không có trí tuệ, chúng ta không biết tu tập, nên chúng ta không có khả năng để vẽ đời sống của chúng ta, cái dáng dấp đẹp đẽ của chúng ta trong tương lai.
06 Tháng Chín 2013(Xem: 16597)
30 Tháng Bảy 2013(Xem: 9777)