Phẩm 16: Quán Về Trói, Mở

02 Tháng Tám 201000:00(Xem: 17994)

TRUNG LUẬN 
(MADHYAMAKA SASTRA)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản: TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM XVI: QUÁN VỀ TRÓI, MỞ.

(Gồm 10 bài kệ)


Hỏi: Sinh tử chẳng phải hoàn toàn không có cội gốc, mà ở trong đó có chúng sinh (người) qua lại, hoặc các hành (pháp) qua lại. Vậy vì lẽ gì ông nói chúng sinh và các hành đều không, không có qua lại ?

Đáp:

1. Các hành qua lại nếu là thường, thời không thể qua lại, nếu là vô thường cũng không thể qua lại. Chúng sinh cũng như vậy.

Các hành qua lại trong sáu đường sinh tử là tướng các hành thường mà qua lại hay tướng các hành vô thường mà qua lại. Cả hai đều không đúng. Nếu tướng thường mà qua lại thời không có nghĩa sinh tử tương tục, vì nó đã quyết định rồi, tự tính ở yên không thay đổi. Nếu tướng vô thường qua lại, thời cũng mất cái nghĩa sinh tử qua lại tương tục, vì không quyết định, vì không có tự tính. Nếu nói vì chúng sinh qua lại, cũng có các lỗi như vậy.

Lại nữa,

2. Nếu chúng sinh qua lại trong năm uẩn, mười tám giới, mười hai nhập, song theo năm cách tìm tướng chúng sinh trong năm uẩn hoàn toàn không có, vậy ai qua lại.

Sinh tử và năm uẩn, mười tám giới, mười hai nhập là một nghĩa. Nếu chúng sinh qua lại trong năm uẩn, mười tám giới, mười hai nhập thì như trong phẩm Đốt bị đốt, theo năm cách (năm cách tìm tướng ta trong năm uẩn là: 1. Sắc không phải là ta. 2. Lìa sắc không có ta. 3. Không lìa sắc cũng không có ta. 4. Trong ta không có sắc. 5. Trong sắc cũng không có ta. Thọ không phải là ta, tưởng không phải là ta v.v… cũng như vậy), tìm tướng chúng sinh không thể có được, vậy ai đối với trong năm uẩn, mười tám giới, mười hai nhập mà có qua lại.

Lại nữa,

3. Nếu từ thân này đến thân khác, qua lại tức là không có thân, nếu không có thân thời không có qua lại.

Nếu nói rằng chúng sinh qua lại, vậy chúng sinh có thân mà qua lại hay không có thân mà qua lại. Cả hai đều không đúng, vì sao ? Nếu có thân qua lại, từ một thân đến một thân. Như vậy thời kẻ qua lại là không có thân (từ một thân đi đến một thân, giống như từ một nhà đi đến một nhà, nhưng từ một nhà đi đến một nhà là phải có người đi, còn từ một thân đi đến một thân thì kẻ đi là ai, nếu có thì kẻ ấy không có thân). Lại nếu trước đã có thân thời không thể lại từ thân đi đến thân. Nếu trước không có thân, thời tức là không có, nếu không có thời làm sao có sinh tử qua lại.

Hỏi: Kinh nói có Niết-bàn diệt hết thảy khổ, diệt đây là hoặc các hành diệt, hoặc chúng sinh diệt ?

Đáp: Cả hai đều không đúng, vì sao ?

4. Các hành hữu vi, nếu tiêu diệt là việc hoàn toàn không đúng, chúng sinh nếu tiêu diệt, việc ấy cũng không đúng.

Ông nói hoặc các hành diệt, hoặc chúng sinh diệt. Việc ấy trước đã đáp rồi. Các hành không có tự tính, chúng sinh cũng không có tự tính, đủ cách suy tìm việc sinh tử qua lại không thể có được, thế nên các hành không diệt, chúng sinh cũng không diệt.

Hỏi: Nếu như vậy, thời không có trói buộc, không có giải thoát, vì căn bản không thể có được?

Đáp:

5. Tướng sinh diệt của các hành, không trói cũng không mở, chúng sinh như trước đã nói, không trói cũng không mở.

Ông cho rằng các hành và chúng sinh có trói có mở, việc ấy không đúng. Vì các hành niệm niệm sinh diệt, không thể có sự trói hay mở, chúng sinh như trước đã nói theo năm cách truy tìm tướng chúng sinh không thể có được, thời làm sao mà có trói có mở.

Lại nữa,

6. Nếu thân năm uẩn gọi là trói, nhưng chỉ có một mình thân thời không trói, không có thân cũng không trói. Vậy nơi chỗ nào có trói.

Nếu cho rằng thân năm uẩn là trói, nhưng nếu chúng sinh trước đã có thân năm uẩn thời không thể trói, vì sao ? Vì nếu trói thì một người mà có hai thân. Không có thân cũng không thể trói, vì sao? Vì nếu không có thân thời không có năm uẩn, không có năm uẩn tức là không, làm sao trói được. Như vậy có thân, không thân đều không trói buộc.

Lại nữa,

7. Nếu trước cái bị trói đã có cái năng trói, thời có thể trói cái bị trói, nhưng thật tế trước không có cái năng trói. Ngoài ra như đã giải đáp trong phẩm Đi lại.

Nếu cho rằng trước cái bị trói đã có trói, thời có thể trói cái bị trói, nhưng thật tế lìa cái bị trói thời không có trói. Thế nên không được nói rằng chúng sinh có trói buộc, hoặc nói chúng sinh là bị trói. Năm uẩn là trói, hoặc nói các phiền não trong năm uẩn là trói, còn ngoài năm uẩn là bị trói. Việc ấy không đúng, vì sao ? Vì nếu lìa năm uẩn trước có chúng sinh, thời có thể do năm uẩn trói chúng sinh, nhưng thật tế lìa năm uẩn không riêng có chúng sinh; hoặc lìa năm uẩn riêng có phiền não, thời có thể do phiền não trói năm uẩn, nhưng thật tế lìa năm uẩn không riêng có phiền não.

Lại nữa, như trong phẩm Khứ lai đã nói đã đi không đi, chưa đi không đi, đang đi không đi, như vậy chưa trói không trói, đã trói không trói, đang trói không trói. Lại nữa cũng không có mở, vì sao ?

8. Bị trói không có mở, không trói cũng không có mở, khi đang trói có mở, vậy thời trói và mở cùng một lúc.

Trói thời không có mở, vì sao ? Vì đã trói; (đã đi vào quá khứ), không trói cũng không có mở, vì sao ? Vì không có trói. Nếu bảo khi đang trói có mở, thời trói và mở cùng một lúc, việc ấy không đúng. Lại trói và mở trái nhau.

Hỏi: Có người tu đạo, hiện tại vào Niết-bàn được giải thoát, làm sao nói không mở ?

Đáp:

9. “Nếu không chấp thọ các pháp, ta sẽ chứng được Niết-bàn”, người nào nghĩ như vậy, trở lại bị chấp thọ trói buộc.

Nếu người nào nghĩ rằng “ta xa lìa tâm chấp thủ chứng được Niết-bàn” thì tức người ấy đã bị tâm chấp thủ Niết-bàn trói buộc.

Lại nữa,

10. Không lìa ngoài sinh tử mà riêng có Niết-bàn, nghĩa thật tướng là như vậy, làm sao có phân biệt.

Trong các pháp thật tướng Đệ nhất nghĩa, không nói rằng lìa sinh tử riêng có Niết-bàn. Như kinh nói Niết-bàn tức sinh tử, sinh tử tức Niết-bàn. Trong thật tướng các pháp như vậy, làm sao nói nhất định đó là sinh tử, đó là Niết-bàn.

*

 Tóm tắt phẩm XVI: Quán về trói mở.

Trói là sinh tử lưu chuyển, mở là Niết-bàn giải thoát. Phẩm quán về có không là xét về nghĩa "cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không" của lý duyên khởi. Phẩm này quán về trói mở tức là xét về nghĩa "cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt" của lý duyên khởi. Cái này sinh nên cái kia sinh, như vô minh sinh nên hành sinh, hành sinh nên thức sinh v.v… đó là mặt sinh tử lưu chuyển trói buộc; còn cái này diệt nên cái kia diệt, như vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt v.v… đó là mặt Niết-bàn hoàn diệt giải thoát. Vì không ngộ được sinh và diệt, trói và mở đều là duyên sinh vô tự tính, sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu, nên chấp đã có sinh có diệt, có sinh tử trói buộc, có Niết-bàn chứng đắc, mà mục đích của người học Phật là cầu giải thoát sinh tử chứng đắc Niết-bàn, vậy tại sao lại nói các pháp không có tự tính ? Phẩm này xét phá kiến chấp cho rằng thật có giải thoát sinh tử, thật có chứng đắc Niết-bàn.

Phẩm này: 1. Xét về lưu chuyển (kệ 1 đến kệ 3). 2. Xét về hoàn diệt (kệ 4). 3. Xét chung về trói mở (kệ 5). 4. Xét về trói buộc (kệ 6,7). 5. Xét về giải thoát (kệ 8,9). 6. Bày chính nghĩa (kệ 10).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Sáu 2015(Xem: 5473)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ” tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp. Theo đó, dharma là danh từ phái sinh của động từ căn dhṛ: duy trì, gìn giữ. Nếu là thắng nghĩa Pháp, hay Pháp siêu việt, thì Pháp ấy duy chỉ là Niết-bàn. Còn nếu là Pháp tướng Pháp hay Pháp thuộc hiện tượng dùng để chỉ các tính chất của các pháp; trong trường hợp ở đây thì pháp đó chỉ chung cho tất cả bốn Thánh đế.
17 Tháng Sáu 2015(Xem: 5997)
Định và nguyện vô lậu tư trợ nghiệp hữu lậu khiến cho quả thành tựu tiếp nối lâu dài, càng lúc càng phát triển thành vi tế thù thắng. Theo ý nghĩa đó mà nói một cách ước lệ là chiêu cảm. Khi có sự chiêu cảm như vậy, là do sở tri chướng làm duyên trợ lực,...
06 Tháng Sáu 2015(Xem: 9551)
Sự gieo hạt giống, sự tăng trưởng của cây và sự cho quả là ba giai đoạn khác nhau. Trong đạo cũng giống như thế, thân tương tục nhập đạo, trở nên thuần thục và được giải thoát theo một tiến trình tiến lên từ từ: Trong đời sống thứ nhất là gieo trồng các thiện căn có tên giải thoát phần; trong đời sống thứ hai là sinh khởi các quyết trạch phần; và đời sống thứ ba là sinh khởi thánh đạo. Giải thoát phần được thành tựu từ văn và tư chứ không phải định...
15 Tháng Chín 2014(Xem: 8471)
Tiếp theo phần A Tỳ Đàm nơi Tập 26 (ĐTK/ĐCTT, Tập 26, từ N0 1536 đến N0 1544) toàn bộ Tập 27 là nêu dẫn Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma – mahavibhàsà – sàstra). Đây là Bộ Luận đồ sộ nhất hiện có trong Hán tạng. Tác giả của Luận là 500 vị A La Hán. Nói rõ hơn: Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa là một Bộ Luận Thích. 500 vị A La Hán, dưới sự chỉ đạo của Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra),
03 Tháng Chín 2014(Xem: 8979)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộ là bộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ, căn bản và đồ sộ nhất mà nay vẫn còn giữ lại được phần lớn. Cũng như trường hợp của Thượng Toạ Bộ, A Tỳ Đàm Tạng của Hữu Bộ được xem là một đề tài bàn cải lớn giữa các nhà học Phật xưa nay.
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6260)
Như một viên đá trong một công trình hoằng dương Phật Pháp, như một thể hiện khiêm nhường trong tinh thần nối truyền huệ mạng của Chư Phật ba đời, ngưỡng mong công đức phiên dịch bản kinh này hãy là một động lực nâng bước chúng tôi - người dịch - tiến bộ nhanh hơn nửa trên hành trình tìn tới sự chiến thắng chính mình và mong sao, trong một hậu thân xa xôi nào đó đối với chúng tôi - Người dịch - Phật vức sẽ không là một đích điểm bất khả đạt...!
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 13398)
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 14192)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li, vi tế những vận hành, diễn tiến của tâm. Không thực tế vì nó bàn đến những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết bình thường của con người; ở ngoài chuyện áo cơm, tiền bạc, thế sự và thế tình...