Danh Từ Bụt

15 Tháng Chín 201000:00(Xem: 58821)

DANH TỪ BỤT
(Trích Lá Thư Làng Mai 25 ngày 12-02-2002

buddha-0011Từ những năm 1970, Thầy đã bắt đầu dùng từ Bụt để thay thế cho danh từ Phật trong nhiều trường hợp. Trong các danh từ Hán Việt, từ Phật vẫn còn được Thầy sử dụng, như Phật giáo, Phật học, Phật tính, Phật tử, v.v.. nhưng từ Bụt như một từ Nôm đã được Thầy sử dụng trong tất cả mọi trường hợp khác. Ví dụ: ‘Bụt gọi thầy A Nan ‘ hoặc ‘ Thầy Xá Lợi Phất lên gặp Bụt’.

Dân tộc ta đã từng gọi Buddha là Bụt ngay từ đầu thế kỷ thứ nhất của Tây lịch và vẫn còn sử dụng từ ấy cho đến ngày nay trong văn chương truyền khẩu. Phát âm ‘Phật’ là do ảnh hưởng Trung Quốc, và ta chỉ bắt đầu phát âm như thế từ lúc quân nhà Minh sang xâm chiếm nước ta.

Chính thầy Khuy Cơ, cao đệ của thầy Huyền Trang cũng đã từng nói rằng Buddha phiên âm là Bột mới đúng, phiên âm thành Phật là sai. Nhận thức ấy đến hơi trễ, thành ra người Trung Quốc không sửa sai lại kịp (*).

Không có lý do gì mà một dân tộc phải đi theo sự sai lầm của một dân tộc khác. Các dân tộc khác trong vùng đều phát âm Buddha là Bụt như Thái Lan, Nhật Bản, Miến Điện, Tây Tạng, v.v..

Thầy nói sử dụng cách phát âm Bụt không có nghĩa là mình không còn sử dụng những danh từ Hán Việt có chữ Phật, và như vậy ta chỉ là làm giàu thêm cho tiếng Việt. Ví dụ ta có thể sử dụng cả hai danh từ tâm Bụt (tâm Bụt không đâu không từ bi) và Phật tâm (Phật tâm vô xứ bất từ bi). Mãi đến thế kỷ thứ mười bốn, dân ta vẫn còn sử dụng danh từ Bụt trong văn chương bác học, như vua Trần Nhân Tông đã sử dụng trong các bài phú Đắc Thú Lâm Truyền Thành Đạo Ca. Chúng ta chỉ mới bắt chước người Trung Quốc phát âm chữ Phật từ sau đó, nghĩa là chỉ mới sáu trăm năm. Chỉ mới trôi qua hai chục năm từ ngày ta sử dụng âm Bụt trở lại mà danh từ này đã trở thành sống động, mọi người nghe đã quen tai và cảm thấy rất gần gũi với Bụt khi nghe và sử dụng lại cách phát âm này.

Sư Cô Chơn Không

Chú Thích:
(*) Đại Sư khuy Cơ, cao đệ của Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, đời Đường, trong sách Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương, quyển thứ sáu, có nói ‘Bột Đà (Buddha) là tiếng Phạn, gọi tắt một cách sai lầm là “Phật” (Phạn văn Bột Đà, ngọa lược vân Phật)’

 

Vài ý mọn về danh từ Bụt hay Phật

(trích Lá Thư Làng Mai 25 ngày 12-02-2002)

1. Cụm từ đạo Bụt đã hiện diện trong tự điển Việt Bồ La (1651) ... hay trong ấn phẩm "Bụt Sử Liệt Biên Thiệt Truyện" (xuất bản ở Sài Gòn, 1913) - xem thêm chi tiết trang http://www.trangnhahoaihuong.com/files/ButSuLuocBien_quyen_1.pdf - so với địa danh được ghi khoảng cùng thời là Bụt Sơn (A) ...v.v...

2. Câu trích "Phạn văn Bột Đà, ngoạ lược vân Phật" ở phần trên - nên phiên âm Hán Việt là "Phạn vân Bột Đà, ngoa lược vân Phật" (梵雲馞陀, 訛略雲佛) Học giả Lê Quý Đôn (1726-1784) cũng đã nhận ra rằng ' ... Kinh nhà Phật có Kinh, Luật, Luận và Tam Tạng. Từ Hán về sau, đời nào cũng có phiên dịch, tưởng cũng chưa được đúng, vì thanh điệu không thông. Nhà sư Huyền Trang, triều Đường, dịch kinh Phật. Vua Cao tông hạ chiếu cho đại thần xem lại những bản dịch ấy, nếu thấy chỗ nào chưa ổn, thì cho tuỳ ý sửa chữa. Thế thì Phạn bại (các bài tụng kinh Phật) đời Đường có phải đều là lời của Đại Hùng Thị (một danh hiệu của đức Phật Tổ) đâu? ...' - trích từ ‘Vân Đài Loại Ngữ’, tác giả Lê Quý Đôn - Trần Văn Giáp biên dịch và khảo thích, Trần Văn Khang (làm sách dẫn), Cao Xuân Huy (hiệu đính và giới thiệu) - NXB Văn Hoá Thông Tin (Hà Nội, 2006). Tiếng nói con người thay đổi theo thời gian đến nỗi ta khó nhận ra khả năng cùng nguồn gốc, đúng như Lê Quý Đôn đã nhận xét về 'thanh điệu không thông' : thí dụ như Phọc Sô (Vaksu) là một trong 4 con sông lớn nhất ở Diêm-Phù-đề đã từng có âm cổ hơn là Bắc-xoa (biến âm b > ph - xem phần trên); Vậy mà cũng có tài liệu Phật học ghi là "...Xưa gọi Bắc-xoa là sai ..." ("Tự điển Phật Học Hán Việt" NXB Khoa Học Xã Hội - Hà Nội, 1998), và ngay cao đệ của Pháp Sư Huyền Trang là Khuy Cơ còn nhận xét rằng 'Phạn vân Bột Đà, ngoa lược vân Phật'! Chính những dạng phát âm khác nhau là cánh cửa hé mở cho ta nhiều thông tin về nguồn gốc và lịch sử của các chữ này ... Tương quan Bụt Phật là kết quả tự nhiên của vật lí (định luật âm thanh, âm mạnh/strong trở thành yếu/weak - b > ph - như định luật Grimm chẳng hạn).

3. Từ Hán Việt Phật đã dùng trước thời nhà Minh (1368-1644) xâm chiếm Đại Ngu (1407): như trong Cư Trần Lạc Đạo Phú của vua Trần Nhân Tông (1258-1308) dùng từ Bụt 10 lần so với Phật (Tổ) 1 lần, Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo dùng từ Bụt 2 lần so với Phật 1 lần, Vịnh Chùa Hoa Yên dùng từ Bụt 2 lần so với Phật 1 lần ... Ngay cả tên thật của Hậu Lý Nam Đế (? -602) là Lý Phật Tử (李佛子), tên của một nữ tướng của hai bà Trưng là Phật Nguyệt, truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương thời Sĩ Nhiếp (Lĩnh Nam Chích Quái) ...v.v....
(A) Bụt Sơn 侼 山 là tên núi ở Tuyên Quang (xã Hướng Minh, huyện Vị Xuyên, phường Tương Yên) theo Đồng Khánh Địa Dư Chí; Phật Sơn 佛 山 là một địa danh nổi tiếng ở Quảng Đông (được ghi nhận trong thư tịch TQ từ thời Đông Tấn).

Vài hàng kính gởi và cùng đóng góp Nguyễn Cung Thông

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Giêng 2015(Xem: 5990)
Trong các pháp thoại của Thế Tôn, những hình ảnh trực quan luôn được vận dụng để minh họa cho thính chúng dễ hiểu, dễ liên hệ, nhận rõ ý nghĩa những lời dạy của Ngài. Nước sông Hằng đã được Thế Tôn dùng để chỉ cho nước mắt của chúng sanh khóc thương nhau trong những lần tử biệt sanh ly, chuyển lưu sanh tử trong nhiều đời kiếp.
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 6540)
Trong Tam tạng giáo điển nhà Phật, giới luật có vai trò rất quan trọng, được xếp thành một tạng riêng, tạng Luật. Trong nội dung tu tập của hàng đệ tử Phật, dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cả xuất gia lẫn tại gia, đều phải thành tựu giới; nhân giới mà sanh định, nhân định mà phát tuệ.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 8665)
Xưa, Đức Thế Tôn dạy các đệ tử: “Chớ ngủ hai đêm, dưới cùng một gốc cây”. Lời dạy, thoạt nghe có vẻ ngộ nghĩnh, gần như chẳng quan trọng gì, nhưng khi được Thầy chỉ rõ hơn, đệ tử mới biết rằng, một lời, dù đơn sơ, từ kim khẩu Đức Thế Tôn, đều là một bài pháp.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 7405)
Lịch sử là một vở kịch mà trong đó các diễn viên luôn thay đổi và trình diễn không ngừng. Trên sân khấu đó, cái nhìn của người thưởng ngoạn- cũng là diễn viên- được nhận diện khác biệt giữa Tây phương và Đông phương.
30 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8322)
Đi chùa, dâng hương, lễ Phật là một trong những pháp tu căn bản của hàng Phật tử tại gia. Hàng xuất gia cũng nhờ lễ Phật mà nghiệp chướng tiêu trừ, công đức tăng trưởng, thành tựu đạo nghiệp.
21 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 5955)
Tuổi tác rất quan trọng nhưng phẩm hạnh còn quan trọng hơn rất nhiều đối với nhân cách của một người. Nhất là trong nhà đạo thì phẩm hạnh đặc biệt được xem trọng. Chính phẩm hạnh và tuệ giác đã tạo nên tính cách trưởng lão chứ không phải là tuổi tác. Thế Tôn đã xác quyết điều này như tinh thần pháp thoại dưới đây:
17 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6856)
Cuộc đời này có vui không? Có, nhưng vui thì ít mà khổ thì nhiều, vui rất khó tìm mà lại dễ mất, vui không bao giờ là quà tặng cho số đông. Nhờ có chút niềm vui trong năm dục mà an ủi phận người, tiếp thêm nghị lực và sức sống cho con người. Tuy có vui nhưng Đức Phật dạy niềm vui ấy thật mong manh,
07 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6878)
Chúng ta đều biết, người ta sống ở đời mỗi người đều có một thế mạnh, sở trường và sở đoản khác nhau. Biết khai thác và phát huy thế mạnh đồng thời biết khắc phục và tránh né những thế yếu của mình là nền tảng của mọi thành công.
04 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7926)
Người tu tuy mang hạnh nguyện “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, nhưng sau nhiều năm tu học nhờ công đức làm lợi mình lợi người nên phước báo ngày càng lớn lên. Phước báo có công năng diệu kỳ, dù người tu không vọng cầu nhưng tứ sự (thực phẩm, y phục, thuốc men, sàng tòa) luôn đầy đủ, sung mãn. Và cũng từ đây, lợi dưỡng cùng cung kính bắt đầu đoanh vây đời sống xuất gia.
03 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7418)
Vì sao người tu phải tránh “những điều luận bàn của thế tục”? Thực ra luận bàn để trau dồi và nâng cao tri thức thế gian cũng rất tốt, cần thiết cho cuộc sống nhưng nó không dẫn người tu đến các pháp lành, không đi đến Phạm hạnh, không đến được chỗ tịch diệt. Đây là chỗ người tu hướng đến giải thoát, Niết-bàn cần hết sức lưu tâm. Người tu thì nên nói chuyện tu, không nói chuyện đời mà chỉ “bàn luận về mười việc công đức”, chính là lời căn dặn của Thế Tôn.