Tránh xa thầy tà, bạn xấu

30 Tháng Sáu 201402:25(Xem: 6989)

TRÁNH XA THẦY TÀ, BẠN XẤU

Quảng Tánh


blankLà người con Phật, ai cũng nguyện trọn đời quy y Tăng và nhất quyết không quy y thầy tà, bạn xấu. Dĩ nhiên, với tâm từ, chúng ta không trách móc hay oán hận hoặc tẩy chay bất cứ vị thầy, bạn nào không xứng đáng nhưng quyết không thân cận, hợp tác với họ, vì Thế Tôn đã từng khuyến cáo “chớ cùng ác tri thức tùng sự”.

Thời Thế Tôn tại thế, bấy giờ Đề-bà-đạt-đa manh tâm hại Phật, chia rẽ Tăng đoàn. Trong một lần khất thực, lúc sắp chạm mặt với Đề-bà-đạt-đa, Thế Tôn đã quyết định tránh duyên, không gặp vì một lẽ đơn giản là “kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ”. Dĩ nhiên là Thế Tôn đã tìm đủ mọi cách để giáo huấn Đề-bà-đạt-đa hồi tâm, phục thiện nhưng không kết quả thì phải tránh duyên mà thôi. Pháp thoại dưới đây đã cho chúng ta một bài học về ứng xử tuyệt vời đối với “thầy tà, bạn xấu”.

“Một thời Phật ở thành La-duyệt tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát vào thành La-duyệt khất thực. Lúc đó, Đề-bà-đạt-đa cũng vào thành khất thực. Đề-bà-đạt-đa đi vào trong ngõ xóm, Phật cũng đến chỗ đó. Nhưng Phật từ xa trông thấy Đề-bà-đạt-đa đến liền muốn thối lui mà đi.

Khi ấy A-nan bạch Phật: Cớ sao muốn xa lìa xóm này?

Thế Tôn bảo: Nay Đề-bà-đạt-đa ở xóm này, nên Ta tránh đi.

A-nan bạch Phật: Thế Tôn! Há sợ Đề-bà-đạt-đa sao?

Thế Tôn bảo: Ta chẳng sợ Đề-bà-đạt-đa, nhưng kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ.

A-nan thưa: Nhưng, bạch Thế Tôn! Có thể khiến cho Đề-bà-đạt-đa này tới phương khác.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này: Ta trọn không tâm này/ Khiến Đề-bà ra đi/ Rồi sẽ tự tạo hạnh/ Và tự ở chỗ khác.

A-nan bạch Phật: Nhưng Đề-bà-đạt-đa có lỗi với Thế Tôn.

Thế Tôn bảo: Người ngu hoặc chẳng nên gặp gỡ.

Bấy giờ Thế Tôn nhìn A-nan mà nói kệ: Chẳng nên thấy người ngu/ Chớ cùng ngu làm việc/ Cũng chớ nói năng cùng/ Nói những việc thị phi.

Khi ấy, A-nan lại dùng kệ đáp Thế Tôn: Người ngu làm gì được? Người ngu có lỗi gì? Ngay cho cùng nói chuyện/ Lại có những lỗi nào?

Thế Tôn lại dùng kệ đáp A-nan: Người ngu tự tạo hạnh/ Chỗ làm là phi pháp/ Chánh kiến trái luật thường/ Tà kiến ngày càng thêm.

Thế nên, A-nan, chớ cùng ác tri thức tùng sự. Vì cớ sao? Cùng ác tri thức tùng sự thì không tín, không giới, không văn, không trí. Cùng thiện tri thức tùng sự thì tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ. Như vậy, A-nan, hãy học điều này!

Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Địa chủ,

VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.432)

Đúng là “tránh voi chả xấu mặt nào”! Với một người mà ta đã cảm nhận sâu sắc, đã nhiều lần trải nghiệm về họ là “không chơi được” thì tốt nhất là phải tránh xa. Ngay cả như Thế Tôn mà không muốn dây vào hạng ác tri thức như Đề-bà-đạt-đa thì huống gì chúng ta. Không phải Thế Tôn bất lực trong việc này, nhưng có lẽ, đó là cách thức giáo hóa thực tiễn và sinh động nhất cho hậu thế chúng ta về cách thức ứng xử với thầy tà, bạn xấu.

Nhẫn nhịn một tí, tránh duyên một tí, và có thể chịu thua thiệt một tí nhưng chắc chắn ta sẽ bình an. Trong bối cảnh đời sống tu học vốn không ít uẩn khúc, thăng trầm thì đối đầu hay va chạm thêm chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Nếu chúng ta tự thấy mình chưa đủ duyên giáo hóa người xấu thì hãy tránh duyên. Thị phi, phân bua, biện biệt đúng sai, luận tranh hơn thiệt… chỉ làm cho sự việc càng rối thêm, chướng ngại sự chuyên tâm thiền định.

Không những tránh mặt, Thế Tôn còn xác quyết là không thân cận, bất hợp tác với người ác tri thức. Dù cho họ có nhân danh là ai, giữ chức phận gì trong đạo hay ngoài đời, hứa hẹn giúp ta nhiều điều tốt lành… nhưng nếu thực sự biết họ là ác tri thức thì quyết không tùng sự, bất hợp tác. Vì sao? Vì kết quả cuối cùng của “liên minh” này có thể được nhiều điều (đối với thế gian) nhưng chắc chắn là trắng tay với đạo quả. Thế Tôn nói thẳng là về sự mất trắng này là “không tín, không giới, không văn, không trí”, điều này cũng đồng nghĩa với quả báo không lành nơi ác đạo, tam đồ.

Thế nên, người nào hay hội chúng nào mà thiếu kém phẩm chất thanh tịnh và hòa hợp của Tăng-già, không giúp cho chúng ta tiến bộ trên đường đạo thì phải tránh xa, mạnh dạn nói không hợp tác với họ. Ngược lại, chúng ta cần quyết tâm nương tựa lâu dài nơi các bậc thiện tri thức để tu học, nếu thực sự muốn “tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ”.

Nguyên văn kinh văn:
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

XXIII. Phẩm Địa chủ

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát vào thành La-duyệt khất thực. Lúc đó, Đề-bà-đạt-đa cũng vào thành khất thực. Đề-bà-đạt-đa đi vào trong ngõ xóm, Phật cũng đến chỗ đó. Nhưng Phật từ xa trông thấy Đề-bà-đạt-đa đến liền muốn thối lui mà đi.

Khi ấy A-nan bạch Phật:

- Cớ sao muốn xa lìa xóm này?

Thế Tôn bảo:

- Nay Đề-bà-đạt-đa ở xóm này, nên Ta tránh đi.

A-nan bạch Phật:

- Thế Tôn! Há sợ Đề-bà-đạt-đa sao?

Thế Tôn bảo:

- Ta chẳng sợ Đề-bà-đạt-đa, nhưng kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ.

A-nan thưa:

- Nhưng, bạch Thế Tôn! Có thể khiến cho Đề-bà-đạt-đa này tới phương khác.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:

Ta trọn không tâm này,
Khiến Đề-bà ra đi,
Rồi sẽ tự tạo hạnh
Và tự ở chỗ khác.

A-nan bạch Phật:

- Nhưng Đề-bà-đạt-đa có lỗi với Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

- Người ngu hoặc chẳng nên gặp gỡ.

Bấy giờ Thế Tôn nhìn A-nan mà nói kệ:

Chẳng nên thấy người ngu,
Chớ cùng ngu làm việc,
Cũng chớ nói năng cùng,
Nói những việc thị phi.

Khi ấy, A-nan lại dùng kệ đáp Thế Tôn:

Người ngu làm gì được?
Người ngu có lỗi gì?
Ngay cho cùng nói chuyện,
Lại có những lỗi nào?

Thế Tôn lại dùng kệ đáp A-nan:

Người ngu tự tạo hạnh,
Chỗ làm là phi pháp,
Chánh kiến trái luật thường,
Tà kiến ngày càng thêm.

Thế nên, A-nan, chớ cùng ác tri thức tùng sự. Vì cớ sao? Cùng ác tri thức tùng sự thì không tín, không giới, không văn, không trí. Cùng thiện tri thức tùng sự thì tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ. Như vậy, A-nan, hãy học điều này!

Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(http://dieungu.org/p13273a31635/4/tu-pham-23-den-pham-24)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Chín 2014(Xem: 6144)
Chúng ta đang sống trong cõi dục, sinh ra từ tham ái nên mọi người, mọi loài trên thế gian này đều chịu kiềm tỏa và chi phối của dục vọng. Sự khác nhau giữa các chúng sanh là dục vọng nhiều hay ít tùy theo biệt nghiệp của mỗi người. Có không ít trường hợp vì nghiệp lực, dục vọng quá nặng nề đã che lấp tâm trí biến họ thành loại chẳng phải người, mất hết lương tri và nhân tính.
08 Tháng Chín 2014(Xem: 5712)
Ai cũng biết rằng, có thực mới vực được đạo. Dĩ nhiên, nếu thiếu thốn và khốn khó quá thì tu tập cũng bị trở ngại nhưng ngược lại đầy đủ và sung mãn quá đôi khi lại không phải là điều hay. Nhất là hành trình chứng đạt giải thoát thì luôn đi ngược với sự chấp thủ, cần phải xả ly và buông bỏ đến tận cùng. Nếu một hành giả chưa thành tựu A-la-hán, thiết nghĩ cũng rất cần tỉnh giác đối với cung kính và lợi dưỡng, vì đó thực sự là một chướng ngại.
31 Tháng Tám 2014(Xem: 5986)
Một trong những phẩm hạnh cao đẹp của người đệ tử Phật là biết ơn và đền ơn. Ơn nghĩa trong cuộc đời thật bao la rộng lớn, bao trùm khắp tất cả mọi chúng sanh và hết thảy sự vật. Giáo điển nhà Phật khái quát ơn nghĩa trong đời thành bốn ơn sâu nặng: Ơn cha mẹ sanh dưỡng, ơn chúng sanh vạn loại, ơn quốc gia xã hội, ơn Tam bảo thiêng liêng.
25 Tháng Tám 2014(Xem: 6079)
Đời người, nếu nói chung ai cũng ước chừng khoảng trên dưới “ba vạn sáu ngàn ngày”, ngót nghét cả trăm năm. Nhưng trong thực tế thì mỗi người có một tuổi thọ khác nhau, tùy nghiệp duyên của chính mình. Có người trường thọ, trăm tuổi còn dư. Có người cũng bước lên ngưỡng tuổi “bảy mươi xưa nay hiếm”. Tuy vậy, có không ít người ra đi lúc tuổi còn xanh hoặc vẫn còn thơ bé. Thậm chí, có người không có được cơ hội chào đời cũng phải chóng vánh kết thúc một đời.
23 Tháng Tám 2014(Xem: 6604)
Nhìn theo hướng lạc quan, hiện chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng phát triển và kiện toàn về nhiều phương diện. Bình tâm mà suy xét thì tuy có phát triển nhưng đời sống nhân loại lại luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và hiểm họa. Không ai có thể dám chắc bất cứ điều gì ở tương lai khi mà mâu thuẫn, xung đột, chiến tranh, thảm họa, dịch bệnh, thiên tai… cứ chực chờ, đoanh vây, hủy diệt sự sống con người.
14 Tháng Tám 2014(Xem: 6946)
Là Phật tử, chúng ta đều tin hiểu lời Phật mà thực hành hiếu đạo trong đời sống hàng ngày. Cha mẹ, hai đấng sanh thành có một địa vị quan trọng trong tâm thức của người con Phật, ngang bằng với Phật và các vị Đại Bồ-tát, nên “gặp thời không có Phật, khéo phụng thờ cha mẹ tức là phụng thờ Phật vậy”(Kinh Đại tập).
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 7063)
Nhằm hộ trì Chánh pháp cũng như để vun bồi phước báo cho mai hậu, pháp hành phổ biến nhất cho hàng Phật tử là bố thí và cúng dường. Dĩ nhiên có tài vật thì chúng ta có thể thực hành bố thí. Tuy vậy, nếu khéo léo hơn, thì cũng chừng ấy tài vật, nhưng việc bố thí của chúng ta sẽ gặt hái được nhiều lợi ích hơn.
14 Tháng Bảy 2014(Xem: 6346)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây. Thấy rõ như vậy để biết rằng những gì mà mình hay nhận lầm là ta và của ta, là vĩnh hằng bất biến, thực ra không có gì bền chắc cả.
06 Tháng Bảy 2014(Xem: 10029)
Niệm Phật là pháp môn tu khá phổ biến hiện nay. Pháp môn này được những người con Phật thực tập rất tinh chuyên từ thời Thế Tôn còn tại thế. Những cách tu niệm Phật như trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật… đã có từ thời Phật Thích Ca, do chính Ngài chỉ dạy.
02 Tháng Bảy 2014(Xem: 6060)
Mỗi người được sinh ra ở trên đời với một thân phận, hoàn cảnh khác nhau. Họ không có quyền chọn lựa cho mình nơi để sinh ra vì đó là nghiệp dĩ. Tuy nhiên, con người hoàn toàn có thể phấn đấu cải tạo nghiệp lực, chuyển hóa thân tâm và hoàn cảnh theo hướng tích cực, tốt đẹp hơn. Cuộc sống là một quá trình đấu tranh giữa cái thiện và cái ác.