Khóa Hư Lục

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 55339)

KHÓA HƯ LỤC
Tác giả: Hoàng Đế Trần Thái Tông
Dịch giả: HT. Thích Thanh Kiểm

Lời Tựa

Bộ sách này có thể gọi là kinh "Khóa Hư" vì là cả một đời thực nghiệm về chân lý sinh tồn của tác giả. Tác giả là một vị vua khai sáng ra triều đại nhà Trần, oanh liệt nhất trong lịch sử dân tộc, ba phen đánh đuổi quân xâm lăng Mông Nguyên, từng chinh phục thế giới từ Á sang Âu "đi đến đâu cỏ không mọc lên được".

Nhà vua đã trải qua cuộc đời bi kịch, bố mẹ mất sớm, một mình đối phó với ông chú Phụ-chính, cùng với Thiên-Cực Công chúa bày mưu lập vợ Hoài-Vương đang có mang lên thay Lý-Chiêu-Hoàng vì Chiêu Thánh đã 20 năm chưa có con. Do đấy mà Trần Liễu (Ân Sinh Vương) mất vợ, nổi loạn và Trần Thái Tông bất nhẫn bỏ cung điện trốn vào núi An-Tử, hòng cầu Phật giáo để giải thoát. Đây chính là lời Trần Thái Tông viết:

"Bấy giờ ý chí của Trẫm đã nhất quyết. Hiệu Thiên-Ứng Chính-Bình thứ 5 (1245), năm Bính-Thân, đêm 3 tháng 4. Trẫm nhân mặc áo mỏng thường đi ra cửa cung, bảo tả hữu "Ta muốn đi chơi, nghe trộm lời dân để xem nguyện vọng của chúng, họa may biết được sự khó nhọc của họ. Lúc ấy đi theo bên trẫm bất quá bảy tám người. Đến đêm vào giờ hợi, một mình một ngựa cất lẻn ra đi. Khi đã qua sông Nhị, liền hướng phiá đông mà tiến mới thật tình bảo cho tả hữu biết. Họ kinh ngạc, đều ứa nước mắt khóc. Sáng hôm sau vào giờ mão thì đến bến Đại-Than chân núi Phả-Lại. Trẫm e có kẻ nhận biết, nên phải lấy vạt áo che mặt mà qua sông, rồi theo đường tắt lên núi. Đến tối, vào nghỉ trong chùa Giác-Hạnh đợi sáng lại đi. Trèo lội vất vả, núi hiểm, suối sâu, ngựa mệt không tiến được nữa. Trẫm bèn bỏ ngựa, vịn vách đá mà đi. Đến giờ mùi mới tới An-Tử. Qua hôm sau, trèo thẳng lên đỉnh, vào ra mắt Quốc-Sư Trúc-Lâm là vị đại Sa-môn ở đây.

Thấy Trẫm Quốc Sư (Phù Vân) mừng hớn hở thong thả nói: "Lão tăng ở núi rừng lâu, xương cứng, thể gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui thú cảnh rừng, nhẹ như mây nổi nên theo gió đến đây. Nay nhà Vua bỏ địa vị nhân chủ, nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn có ý tìm hỏi điều gì mới tới đây?".

Trẫm nghe Sư nói, hai hàng nước mắt tự nhiên khôn cầm, nhân mới đáp: "Trẫm còn thơ ấu, sớm mất hai thân; bơ vơ đứng trên sĩ dân, không nơi nương tựa. Nghĩ lại sự nghiệp của đế vương đời trước thịnh suy không thường, cho nên vào núi chỉ cầu làm Phật không cầu chi khác!" Sư đáp: "Núi vốn không có Phật. Phật ở nơi tâm người, tâm lặng mà biết ấy là chân Phật. Nay nếu nhà vua giác ngộ được tâm thì lập tức thành Phật không phải cầu tìm khó nhọc ở bên ngoài vậy" (Thiền Tông Chỉ Nam Tự).

Đoạn vấn đáp trên đây lời nói tự sự chính xác thành khẩn, không cho phép ta nghi ngờ không phải Trần Thái Tông đã bỏ ngôi để vào núi cầu Phật tìm giải thoát cho nỗi lòng ưu phiền bi đát. Sử gia Ngô thời Sỹ đã nhận thức:

"Vua Thái-Tông... làm ra sách" Khoá Hư Lục "mến cảnh sơn lâm, coi sống chết như như nhau tuy ý tứ gần với đạo Phật không tịch mà chí thì rộng xa cao siêu cho nên bỏ ngôi báu như trút dép nát vậy". (Việt Sử Tiêu Án Q.III).

Thái độ hỷ xả của nhà vua thực là tinh túy của tôn giáo thực hiện.

Vì Tể tưởng Thủ-Đô và toàn thể quần thần yêu cầu và nhất là lời khuyên chính đáng của Quốc Sư: "Phàm làm đấng nhân quân phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn và tâm thiên hạ làm tâm. Nay thiên hạ muốn đón nhà vua về cung, nhà vua không về sao được?".

Và Trần Thái Tông phải trở về gượng gắng lên ngôi. Và ngài đã giác ngộ khi đọc kinh "Kim Cương" đến câu: "Ưng Vô Sở trụ nhi sinh kỳ tâm" (Nên có cái tâm không chấp vào đâu cả). Chính với cái tâm minh ấy mà nhà vua đã nhất quán tam giáo: "Vị minh nhân vọng phân tâm giáo, liễu đắc thể đồng ngộ nhất tâm!" (Chưa giác ngộ thì lầm phân biệt có ba giáo lý, hiểu thấu triệt thì cùng giác ngộ chỉ có một tâm linh).

Không những Thái-Tông có tinh thần khai phóng. Ngài còn khoan nhân đại độ, đã khoan thứ cho Trần Liễu nổi loạn, anh em ôm nhau khóc trước mũi kiếm của Trần Thủ Độ, nên về sau Dụ-Tông có thơ ca tụng:

Đường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông

Đường xưng Trinh-Quán, ngã Nguyên Phong

Kiến Thành chu tử, An Sinh tại

Miếu hiệu tuy đồng đức bất đồng

(Nhà Đường, nước Việt mở nước có hai vua Thái Tông, Nhà Đường xưng là Trinh-Quán, Ta xưng là Nguyên-Phong; Kiến-Thành, em Thế-Dân bị anh giết còn An-Sinh là anh Thái-Tông vẫn sống và được phong ấp. Tuy, đều Thái-Tông mở nước nhưng không cùng có nhân đức).

Sau khi trình bày "Vietnamese Humanism (ở Đại-Học Hawai năm 1957, có đăng ở Hawai University Press, October 1959, January 1960) tôi có đưa cho D.T. SUZUKI danh tiếng về "Zen" Nhật-Bản, ông ta đã hết sức ca tụng bộ sách "Khóa Hư" và tác giả của nó nhất lại là một nhà vua.

Sách "KHÓA HƯ" được Hòa-Thượng Thanh-Kiểm chùa Vĩnh-Nghiệm dịch lại đầy đủ, chú giải minh bạch, đáng là bộ kinh Phật-Giáo Việt-Nam hiếm hoi của Tông-giáo thực hiện, một tập đại-thành triết học tôn giáo thế giới.

Nay tựa 

NGUYỄN ĐĂNG THỤC 
Saigon, ngày 4 tháng 6 năm 1992


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Giêng 2015(Xem: 5031)
30 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6074)
Nhân đọc các phát biểu thiếu tôn kính pháp môn Tịnh Độ và kinh luận Đại Thừa PG của một số Phật tử-đăng trên một số trang mạng.
06 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6559)
Có người nói: “Tịnh độ là do tâm hiện ra, không thể có Tịnh độ Cực Lạc ngoài mười muôn ức cõi Phật”. Câu “Duy tâm Tịnh độ” này, vốn xuất phát từ kinh điển, hoàn toàn chân thật, chẳng sai lầm. Nhưng nếu căn cứ theo câu nói trong kinh mà cho rằng không có Tịnh độ Cực Lạc, lại là hiểu sai ý chỉ của kinh.
18 Tháng Mười 2014(Xem: 6382)
Hồi đức Phật còn tại thế, các Phật tử thường hướng về trú xứ mà Ngài và chúng Tăng đang cự ngụ để đảnh lễ và xưng niệm danh hiệu của Như lai, đầy đủ mười hiệu, để tỏ lòng cung kính, tri ân, và cầu nguyện Nam-mô Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn.
11 Tháng Mười 2014(Xem: 14004)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thể và hiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập, giúp người học Phật nhận thức thêm một nẻo về suối nguồn Chân như theo quan điểm Phật giáo Đại thừa.
01 Tháng Mười 2014(Xem: 7073)
Chúng tôi có nghe nói về một cõi gọi là Tịnh Độ, nơi đó người ta sống rất hạnh phúc và bình an. Xin Thầy rộng lòng nói cho chúng tôi nghe về cõi ấy. Làm sao mà những người dân ở xứ đó có thể sống hạnh phúc và bình an như thế, và bằng cách nào chúng tôi có thể đi về cõi ấy?’’ Thầy mỉm cười, mời cô ngồi xuống, và sau đó nhẹ nhàng trả lời: ‘‘Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian. Nói theo danh từ Phật học thì cõi ấy nằm trong phương ngoại và kiếp ngoại. Bất cứ ai có mang hộ chiếu của Niệm, Định, Tuệ đều có thể đi vào cõi ấy.
30 Tháng Chín 2014(Xem: 15465)
Đạo Phật nước Việt Nam chúng ta ngày nay có hai pháp môn tu chính là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông. Hai pháp môn Thiền và Tịnh cùng xuất phát trong hệ kinh tạng Đại Thừa, nói có hai pháp môn nhưng cùng cứu cánh cùng đi đến thành quả là hết khổ đau sanh già bệnh chết cho chính mình và cho mọi người.
14 Tháng Chín 2014(Xem: 8961)
Trong xã hội mà đạo đức băng hoại, độc ác, bạo tàn, vô cảm và cuồng tín xảy ra khắp nơi thì một tình thương, một việc lành, một nghĩa cử cao đẹp đều như viên ngọc quý, có ai tu hành dầu theo pháp môn nào cũng đều làm cho con người trở nên tốt hơn. Và quả thật, từ hơn hai nghìn năm trước cho đến nay, Phật giáo đi đến đâu thì mang lại trí tuệ và từ bi đến đấy, chưa làm tổn thương ai, dù là con sâu, cái kiến.
10 Tháng Chín 2014(Xem: 10192)
Phật là bậc Giác ngộ toàn triệt, nhìn thấu chúng sanh cơ bản do vọng tưởng che lấp tự tánh, nên giới thiệu pháp môn Niệm Phật cho thời mạt. Đó là di ngôn tối thượng, căn bản nhất dành cho hậu thế.