Chương 2: Nguồn Gốc Của Hội Phật Đà

28 Tháng Mười 201000:00(Xem: 17344)

Nhân Vật Phật GiáoThế Giới 

PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG 
Người Có Công Phục Hưng Tông Tịnh Độ Thời Hiện Đại
Thích Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2003

Chương 2
Nguồn gốc của Hội Phật Đà

Cảm thông với sự đau khổ của chúng sanh, Phật Thích Ca đã xuất hiện ở thế gian này để truyền dạy cho chúng sinh phương pháp giải khổ và thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Mục đích của Ngài giúp cho chúng sinh hiểu được chân lý để đạt đến giác ngộ. Trong thời mạt pháp, ác nghiệp của chúng ta quá nặng, tạo nhiều chướng ngại cho việc tu tập. Do thiếu trí tuệ và duyên lành, chúng ta đã gặp khó khăn trong việc tìm gặp một bậc minh sư, người có khả năng hướng dẫn mình và giảng giải chính xác lời dạy của Phật. Vì biết như vậy nên Đức Phật đã truyền dạy một pháp môn đặc biệt cho loài người trong thời đại chúng ta, đó là pháp môn Tịnh Độ. 

Cố học giả Phật giáo nổi tiếng Mai Nam Xương (Guang Xi Mei) từng nói: “Nếu có thể chấp nhận và đề cao giáo lý Tịnh Độ, không những chúng ta sẽ giải trừ những đau khổ tương lai và lại còn có thể đạt được sự an lạc ngay trong hiện tại. Ai không nhất tâm thọ trì giới pháp thì sẽ không bao giờ thấu hiểu hay chứng nghiệm phúc lạc trong việc thực hành pháp môn kỳ diệu này. Tương tự, người nào không thực hành giáo lý sẽ không bao giờ chứng nghiệm sự thâm diệu của chân lý ấy. Nếu muốn truyền bá giáo lý của Đức Phật trong thời đại này, chắc chắn chúng ta cần phải ủng hộ và xiển dương pháp môn Tịnh Độ”. 

Về nguồn gốc, Hội Phật Đà được Lão Cư Sĩ Hạ Liên Cư thành lập lần đầu tiên sau Thế chiến thứ 2 (tức sau năm1945), Lão Cư Sĩ Hạ Liên Cư là một giảng sư Phật học nổi tiếng, quảng bá việc học và tu tập đặc biệt về Tịnh Độ Tông. Pháp Sư Tịnh Không là người tiếp tục duy trì và phát triển Hội này đến ngày nay. Với hơn bốn mươi năm kinh nghiệm truyền bá PG, Pháp sư Tịnh Không đã hiểu rõ rằng Tịnh Độ là pháp môn tốt nhất để giúp đỡ chúng sinh giải thoát. Trong những năm gần đây, Ngài đã thuyết giảng không mệt mỏi về giáo lý này khắp thế giới, phần lớn ở Á châu, Úc châu và Bắc Mỹ. 

blank
Lão Cư Sĩ Hạ Liên Cư (Lian Ju Xin) 

Ngài đã thành lập Hội Giáo Dục Phật Đà (The Corporate Body Of The Buddha Educational Foundation, 11Fl., No. 55, Hang Chow S. Rd., Sec. 1, Taipei, Taiwan, Tel: (02) 395-1198, Fax: (02) 391-3415)ø để ấn tống kinh sách miễn phí cho PG thế giới. Ước nguyện thật sự của Ngài là hỗ trợ thiết lập các Hội Phật Đà độc lập trên khắp thế giới. Ngài kỳ vọng những tổ chức này sẽ cổ động một nền giáo dục chân chính, giảng giải Luật Nhân Quả, phát Bồ đề tâm và khuyến khích mọi người niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà và nguyện cầu vãng sinh Tịnh Độ.
Tôn chỉ của Ngài là Phật tử đồng tu của các Hội Phật Đà nên tu tập theo năm bộ Kinh Tịnh Độ: 

1. Kinh Vô Lượng Thọ (Infinite Life Sutra,), 

2. Kinh A Di Đà (The Amitabha Sutra, )

3. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật (The Sutra on Observing Amitabha Buddha and His Pure Land, ),

4. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Bồ Tát (Kinh Hoa Nghiêm) (Universal Worthy Bodhisattva's Conduct and Vows, ).

5. Phẩm Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông (Kinh Lăng Nghiêm) (the Foremost Attainment of Great Strength Bodhisattva through Buddha Recitation ). 
Và một bộ luận: là Luận Vãng Sanh (, Vasubandhu Bodhisattva's Commentary on the Way to Reaching Pure Land) của Bồ Tát Thiên Thân) 
 Pháp Sư Tịnh Không cũng nhấn mạnh sự quan trọng trong việc tu tập và phát triển Chánh kiến và thực hành giới hạnh của mọi hành giả ngang qua việc áp dụng Năm cửa công đức bao gồm Sáu pháp hòa hợp, ba vô lậu học, Sáu ba la mật và Mười đại nguyện. 

Cửa công đức thứ nhất là hiếu kính đối với cha mẹ, Thầy tổ và các bậc sư trưởng, từ bi không sát sinh và thực hành mười điều thiện lành; quy y Tam Bảo, trì giới và có oai nghi, tế hạnh; phát tâm Bồ đề, tin sâu giáo lý Nhân quả, tụng đọc Kinh điển Đại Thừa và khuyến khích người khác tinh tấn tu tập để đạt được giải thoát. 

Cửa công đức thứ hai là Lục hòa (six harmonies) tức là sáu pháp hòa kính, bao gồm chia xẻ cùng quan điểm và mục tiêu, giữ cùng những giới luật, cùng sống và tu hành với nhau trong hòa hợp, không tranh chấp, cùng chứng nghiệm sự an lạc trong thực hành và chia đều cho nhau phúc lợi có được. 

Cửa công đức thứ ba là thực hành và phát triển ba môn vô lậu học bao gồm trì giới, thiền định và trí tuệ. 

Cửa công đức thứ tư là áp dụng sáu Ba La Mật bao gồm Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ vào trong đời sống hằng ngày. 

Cửa công đức thứ năm là Mười đại nguyện (Ten Great Vows):

1. Tôn trọng mọi người và xử sự một cách cẩn trọng;

2. Khen ngợi đức hạnh của người;

3. Thực hành bố thí một cách vô uý;

4. Biết hối hận những lỗi lầm của mình, vốn là những chướng ngại cản trở chúng ta thấy được chân tâm của mình và phát nguyện không tái phạm;

5. Hoan hỷ với đức hạnh của người, tuyệt đối không ganh tyï;

6. Thỉnh cầu các bậc thiện tri thức truyền bá Chánh Pháp;

7. Thỉnh cầu các bậc Minh sư ở bên cạnh mình để hướng dẫn mình tu tập;

8. Mãi mãi giữ những lời dạy của Đức Phật ở trong tâm thức mình;

9. Sống hòa hợp với mọi hoàn cảnh và mọi người xung quanh;

10. Hồi hướng công đức có được từ những việc trên cho chúng sanh, cầu mong chúng sanh đạt được giác ngộ vô thượng. 
Chúng ta nên nhất tâm niệm hồng danh Phật A Di Đà, không nghi ngờ, không pha trộn với các pháp khác hay những ý nghĩ khác và không gián đoạn, mong siêu sinh về Tây Phương Tịnh Độ, rồi tái sinh ở thế gian để giúp đỡ người khác. 

Chúng ta thành tâm cầu mong cho mọi người sẽ nhận ra rằng nguồn gốc của những nguyên nhân gây ra đau khổ là ở ngay trong tâm nhiễm ô của chính mình. Chúng ta sẽ tinh tấn tu tập để giải trừ những phiền não mê lầm và tà kiến theo lời dạy trong Kinh Vô Lượng Thọ (Infinite Life Sutra): 

“ Người đời phần đông phước mỏng, cùng tranh dành nhau những sự không cần thiết, ở tại trong chỗ cực ác tột khổ mà nhọc nhằn làm ăn để tự cung cấp. Không luận là người tôn, kẻ ti, người nghèo, kẻ giàu, trẻ già, nam nữ đều lo nghĩ về tiền tài, vất vả sầu khổ, mãi nghĩ mãi lo, không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, có trâu ngựa, lục súc, nô tỳ, tiền của, y thực trăm ngàn thứ, lại lo trăm ngàn thứ. Toan tính, cầu lợi, lo nghĩ, buồn sợ, bỗng chốc bị trộm cướp, nước cuốn, lửa cháy, sung công, tài sản tiêu tan, thân mang tai họa, lại sầu khổ phẩn uất. Nếu tài sản không bị tiêu tan, nhưng cuối cùng vô thường kéo đến, thân chết mạng chung, tay không ra đi, không mang được món gì. Do những việc như thế nên không thể đắc đạo. Các vị phải suy nghĩ chín chắn, nên xa lìa những điều ác, chọn những điều lành rồi siêng năng thực hành. Ái dục vinh hoa là những thứ không thể bảo tồn mãi mãi, rồi sẽ ly tan, không có gì đáng để vui thích. May mắn gặp Phật tại thế, phải cần kíp tu hành, người nào có chí nguyện sanh về cõi nước An Lạc thì được trí tuệ sáng suốt, công đức thu thắng. Không nên buông lung theo dục vọng mà quên mất lời dạy trong Kinh Pháp, giới luật, để rồi phải rơi lại ở phía sau”.

Nếu đọc và làm theo lời dạy của Kinh này, công đức và trí tuệ của chúng ta sẽ phát sinh, giải trừ được ác nghiệp, sống lâu, mạnh khỏe và hạnh phúc. Thêm nữa, nếu Kinh này được phân phát rộng rãi và được đón nhận thì mọi người sẽ trở nên hiền lành và tử tế hơn. Kinh này là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề của chúng ta và thiết lập cho nền hòa bình thế giới.

Chúng ta thành lập các Hội Phật Đà để các hành giả tu theo năm cửa công đức và hợp với lời dạy của Pháp Sư Tịnh Không để tu theo pháp môn Tịnh Độ và học Kinh Vô Lượng Thọ. Làm như vậy chúng ta có thể báo Phật ân đức, trả ơn Quốc Gia, ơn Cha Mẹ, ơn Thầy Tổ và chúng sinh. Chúng ta sẽ có khả năng giúp những người nào còn chịu đau khổ. Chúng ta đang có ở trước mặt một cơ hội hiếm có và quý báu chỉ có thể gặp một lần trong vô số đại kiếp. Hỡi các bạn đồng tu, chúng ta nên trưởng dưỡng đạo tâm, thanh tịnh, bình đẳng, hiểu biết và từ bi để thông suốt, xả ly, đạt được giải thoát, hợp với hoàn cảnh và quán tưởng Phật A Di Đà, làm theo lời dạy của Ngài và nguyện cầu vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ. 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Giêng 2015(Xem: 5047)
30 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6087)
Nhân đọc các phát biểu thiếu tôn kính pháp môn Tịnh Độ và kinh luận Đại Thừa PG của một số Phật tử-đăng trên một số trang mạng.
06 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6571)
Có người nói: “Tịnh độ là do tâm hiện ra, không thể có Tịnh độ Cực Lạc ngoài mười muôn ức cõi Phật”. Câu “Duy tâm Tịnh độ” này, vốn xuất phát từ kinh điển, hoàn toàn chân thật, chẳng sai lầm. Nhưng nếu căn cứ theo câu nói trong kinh mà cho rằng không có Tịnh độ Cực Lạc, lại là hiểu sai ý chỉ của kinh.
18 Tháng Mười 2014(Xem: 6407)
Hồi đức Phật còn tại thế, các Phật tử thường hướng về trú xứ mà Ngài và chúng Tăng đang cự ngụ để đảnh lễ và xưng niệm danh hiệu của Như lai, đầy đủ mười hiệu, để tỏ lòng cung kính, tri ân, và cầu nguyện Nam-mô Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn.
11 Tháng Mười 2014(Xem: 14102)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thể và hiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập, giúp người học Phật nhận thức thêm một nẻo về suối nguồn Chân như theo quan điểm Phật giáo Đại thừa.
01 Tháng Mười 2014(Xem: 7092)
Chúng tôi có nghe nói về một cõi gọi là Tịnh Độ, nơi đó người ta sống rất hạnh phúc và bình an. Xin Thầy rộng lòng nói cho chúng tôi nghe về cõi ấy. Làm sao mà những người dân ở xứ đó có thể sống hạnh phúc và bình an như thế, và bằng cách nào chúng tôi có thể đi về cõi ấy?’’ Thầy mỉm cười, mời cô ngồi xuống, và sau đó nhẹ nhàng trả lời: ‘‘Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian. Nói theo danh từ Phật học thì cõi ấy nằm trong phương ngoại và kiếp ngoại. Bất cứ ai có mang hộ chiếu của Niệm, Định, Tuệ đều có thể đi vào cõi ấy.
30 Tháng Chín 2014(Xem: 15482)
Đạo Phật nước Việt Nam chúng ta ngày nay có hai pháp môn tu chính là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông. Hai pháp môn Thiền và Tịnh cùng xuất phát trong hệ kinh tạng Đại Thừa, nói có hai pháp môn nhưng cùng cứu cánh cùng đi đến thành quả là hết khổ đau sanh già bệnh chết cho chính mình và cho mọi người.
14 Tháng Chín 2014(Xem: 8975)
Trong xã hội mà đạo đức băng hoại, độc ác, bạo tàn, vô cảm và cuồng tín xảy ra khắp nơi thì một tình thương, một việc lành, một nghĩa cử cao đẹp đều như viên ngọc quý, có ai tu hành dầu theo pháp môn nào cũng đều làm cho con người trở nên tốt hơn. Và quả thật, từ hơn hai nghìn năm trước cho đến nay, Phật giáo đi đến đâu thì mang lại trí tuệ và từ bi đến đấy, chưa làm tổn thương ai, dù là con sâu, cái kiến.
10 Tháng Chín 2014(Xem: 10217)
Phật là bậc Giác ngộ toàn triệt, nhìn thấu chúng sanh cơ bản do vọng tưởng che lấp tự tánh, nên giới thiệu pháp môn Niệm Phật cho thời mạt. Đó là di ngôn tối thượng, căn bản nhất dành cho hậu thế.