Phần I: Lưỡi Kiếm Thế Gian

06 Tháng Mười 201712:45(Xem: 5197)

NIỆM PHẬT KIẾM
(SỰ TÍCH NGÀI CƯU MA LA THẬP)

 

         PHẦN I: LƯỠI KIẾM THẾ GIAN

 

Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử.

Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.

         Lúc ấy, ở phía Tây Bắc trung nguyên, có năm giống rợ gọi là Ngũ Hồ, gồm rợ Hung Nô, rợ Yết, rợ Tiên Ri, rợ Chi và rợ Khương thấy nhà Tấn có nội loạn, rợ Ngũ Hồ bèn cất quân vào chiếm giữ dần dần cả vùng lưu vực sông Hoàng Hà và phía Bắc của Trung Nguyên, uy hiếp các vua nhà Tấn. Rồi Ngũ Hồ lần lượt nối nhau xưng đế, xưng vương, dựng thành 16 nước.

         Tư Mã Duệ là tằng tôn của Tư Mã Ý, phải chạy về dựng nghiệp ở Đông Nam, lên làm Hoàng đế, sử sách đời sau gọi là Đông Tấn.

Nhưng uy thế Đông Tấn quá kém cỏi, nên các thân vương, chư hầu nổi lên giành giật địa khu và quyền lực, tranh chấp không ngớt. Chiến tranh dấy động liên miên, sưu cao thuế nặng, dân tình ly tán và thảo khấu lộng hành, cường hào tác tệ, áp chế muôn dân rất khắc nghiệt. Gặp những năm hạn hán mất mùa, người dân nghèo phải đổi con nhau mà ăn thịt cho qua cơn đói. Có ai quan tâm đến thịnh suy của xã tắc và an nguy của người đồng bang, thì không khỏi ngậm ngùi rơi nước mắt.

         Bậc chí nhân ra khỏi ngõ, thấy thây người như rạ, nằm đầy thị thành, phơi khắp sông chợ, bèn kinh tâm động phách, bàng hoàng xúc cảm, nhưng chẳng biết phải làm thế nào để chuyển đổi vận nước. Bậc trí giả cũng muốn tay kiếm tay cờ, mưu đồ đại sự, nhưng cũng đành khoanh tay bó gối, chẳng biết làm thế nào để đưa xã tắc trở nên thịnh trị, giúp bá tánh an cư lạc nghiệp.

         Trong sự hoài vọng của muôn dân, kẻ hiền tài thì khát khao chân chúa, người dung ngu thì chờ đợi áo cơm, nhưng chân chúa hoặc minh quân dường như không bao giờ xuất hiện. Thay vào đó, là những kẻ gian hùng biết thao túng thời cuộc, lợi dụng máu xương quần chúng và sự ngu muội của dân đen để thỏa mãn tham vọng bất tận của mình.

         Thời bấy giờ, ở phía Bắc Trung Nguyên, ngoài ải Nhạn Môn Quan, là một vùng đất rộng lớn bao la, gồm sa mạc, đồi núi và thảo nguyên mênh mông bạt ngàn. Nơi đó, ban ngày trời nóng như thiêu, ban đêm lạnh buốt thấu xương, sinh sống phần đông là giống dân Hung Nô, một dân tộc man dã, hiếu chiến quen săn bắn, chài lưới và cướp đoạt gia súc lẫn nhau. Người Hung Nô cỡi ngựa bắn cung rất tài, ham thích chém giết, thay đổi chỗ ở quanh năm giữa Bắc Long Giang và sa mạc Qua Bích (Gobi).

         Một trong các tù trưởng có thế lực của dân tộc Hung Nô thời đó, là Phù Kiên. Ngoài việc tranh chấp quyền lực với các bộ lạc khác, hoặc đón đường cướp bóc các đoàn viễn khách, thương nhân sang các nước Vu Điền, Quy Tư, Cao Xương buôn bán, Phù Kiên thường xuyên củng cố binh bị, rèn luyện quân tướng dự trữ lương thảo, tuyển chọn hiền tài, chờ đợi thời cơ để thực hiện ý đồ nam chinh và thỏa mãn giấc mộng vương bá của mình.

         Hôm nọ, Phù Kiên chỉ huy bộ hạ giết sạch một đoàn thương nhân người Hán, gồm hơn một trăm người, đoạt được vô số ngọc ngà, tơ lụa châu báu. Y bèn mở tiệc rượu, giết trâu dê để ăn mừng chiến thắng. Tiệc nửa chừng bọn tùy tướng dâng lên một thanh kiếm màu đen tuyền, dài ba thước sáu tấc, hình dạng cổ quái với những hàng chữ lổn nhổn ngoằn ngoèo như con nòng nọc. Đó là chiến lợi phẩm đặc biệt vượt ngoài dự liệu.

         Phù Kiên cầm thanh kiếm màu đen lên ngắm nghía rất lâu, thấy nó nặng trịch, thô sơ và cũ kỹ. Trên lưỡi kiếm có nhiều hàng chữ khoa đẩu chi chít, khắc sâu bằng những nét sần sùi, không rõ ý nghĩa như thế nào. Nơi chuôi kiếm là những hàng hoa văn với hình vẽ con rồng chầu uốn lượn, dáng dấp cục mịch, cứng cỏi, chẳng có chút điêu luyện.

         Phù Kiên chẳng hiểu đây là thứ khí giới gì, và lai lịch ra sao, hỏi bọn thủ hạ thì chúng cũng mù tịt, bởi lẽ kiến thức của kẻ ngồi trên lưng ngựa thì không bao giờ vượt quá tầm mắt của mình, nên chẳng có đứa nào trả lời một câu xứng ý. Phù Kiên bèn sai người gọi Vương Mãnh, một tên mưu sĩ dưới trướng.

         Sau khi xem xét thanh kiếm lạ rất kỳ lưỡng, Vương Mãnh quỳ tâu:

         - Thưa chủ tướng, đây quả là thanh kiếm Can Tương của nước Ngô bên Trung Nguyên đời xưa. Can Tương kiếm là một bảo kiếm vô giá, và là một thần vật hiếm thấy, quý báu không biết đâu mà lường. Mong chủ tướng giữ gìn cẩn thận, sẽ có ngày hữu dụng.

         Phù Kiên nghe lời, truyền lưu vào kho.

         Ngờ đâu đêm ấy, một luồng hồng quang đỏ như máu từ thanh kiếm Can Tương xông vụt lên thấu chòm sao Ngưu Đẩu, làm chói rực cả một vùng không gian lớn rộng, khiến cho mọi người đều nhớn nhác, kinh nghi, và bầy ngựa khiếp hãi kêu ré lên từng tràng dài. Tên thủ kho hốt hoảng đi tìm Phù Kiên, vội vã trình tâu chủ tướng hiện tượng kỳ dị ấy. Vừa nghe xong, Phù Kiên tức tốc triệu ngay Vương Mãnh.

         Vương Mãnh đốt đuốc tới ngay, mừng rỡ quỳ tấu:

         - Khải tấu chủ tướng, nô tài xin chúc mừng chủ tướng được Ngọc Hoàng ban cho thần kiếm Can Tương tuyệt thế vô song, với điềm lành hi hữu này. Nó vốn là bảo vật trấn quốc của người Hán ngày xưa, bất cứ ai diễm phúc sở hữu nó, sẽ thành tựu đế nghiệp. Nay Can Tương thần kiếm lại lọt vào tay chủ tướng, còn phát ra tia hồng quang rực rỡ như vậy, quả nhiên đức Ngọc Hoàng Thượng đế đã chỉ định chủ tướng sẽ làm bá chủ thiên hạ, gồm thâu cả Trung Nguyênlên ngôi thiên tử thống trị chư hầu.

         Phù Kiên vô cùng khoái chí, nhưng vẫn thắc mắc:

         - Nhưng ta thú thật chưa hiểu rõ uy lực của Can Tương thần kiếm như thế nào, Vương tiên sinh là bậc thông kim bác cổ, học rộng hiểu nhiều, vậy tiên sinh có cao kiến gì, cứ mạnh dạn trình bày cho ta nghe thử xem.

Vương Mãnh ngẫm nghĩ một lát, tâu:

         - Thưa chủ tướng, thủa nhỏ nô tài may mắn được tham khán mấy cuốn cổ thư cũng như nghe các vị tôn túc trưởng lão đồn rằng: Can Tương thần kiếm vốn có uy lực phi thường ngoài sức hiểu biết của phàm nhân. Nhưng thật ra, nô tài chưa hề chứng kiến tận mắt những hiệu năng ghê gớm của nó.

         Chi bằng, ngày mai là ngày đại cát, xin chủ tướng ra lệnh khẩn cấp lập một cái đàn lớn, dưới chân núi A Mục Nhĩ Sơn, để tế trời và chủ tướng đích thân thử kiếm. Đồng thời, mời tất cả tù trưởng ở các bộ lạc xung quanh đến chứng kiến, tham dự. Trước để thấy rõ năng lực siêu phàm của Can Tương thần kiếm, một khí giới độc nhất vô nhị này, sau là để diệu võ giương uy và nhân cơ hội này, hàng phục những tù trưởng khác bằng thanh thần kiếm nhiệm mầu mà Ngọc Hoàng Thượng đế riêng ban cho chủ tướng.

         Phù Kiên chuẩn tấu, trọng thưởng Vương Mãnh, và sai bộ tướng Diêu Trành sắp đặt mọi việc cho cuộc lễ trọng đại vào sớm mai.

         Hôm sau, nhận lời mời của Phù Kiên, mấy trăm tù trưởng cùng thuộc hạ tùy tùng, đều tề tựu đông đủ dưới chân núi A Mục Nhĩ Sơn, cờ xí gươm giáo sáng lòa.

Diêu Trành y lệnh nổ pháo, giết dê ngựa tế trời, Phù Kiên đốt nhang khấn vái, xong bước lui ra.

         Diêu Trành bưng một cái hộp lớn bằng sắt màu đen, dài năm thước, dâng lên. Phù Kiên quỳ mọp cúi lạy thiên địa ba lần, rồi đứng lên cung kính mở hộp, lấy ra một lưỡi kiếm đen tuyền, láng bóng, xấu xí, và chẳng có chi kỳ đặc. Phù Kiên trịnh trọng giơ lưỡi kiếm lên cao, nói lớn:

         - Thưa chư vị tù trưởng huynh đệ, những đứa con dũng mãnh và uy hùng của sa mạc Qua Bích, gần đây, Phù Kiên này được Ngọc Hoàng Thượng Đế ban cho một thanh thần kiếm uy lực vô song, cổ kim hi hữu. Hôm nay lập đàn tế trời, thử kiếm để tạ ơn thiên địa, và cũng để chư vị huynh đệ mở rộng tầm mắt.

         Nói xong, Phù Kiên cầm kiếm nhắm đỉnh núi A Mục Nhĩ Sơn vung tay, vung một nhát thật nhẹ, như con tuấn mã quẫy đuôi trước khi lao bốn vó  về phía đích nhắm ở đằng xa.

         Hốt nhiên, trời đất u ám, hắc khí xông lên mù mịt. Một loạt tiếng nổ ầm ầm vang dội làm rung chuyển không gian, đồng thời, một cây cột lửa đỏ rực phun thẳng lên cao chói lòa một vùng rộng lớn. Sau cây cột lửa đứng sừng sững giữa trời, là một làn khói, dày đặc, hình cây nấm đen như mực bốc lên, bốc lên, và trụ giữa không trung rất lâu.

         Đỉnh núi A Mục Nhĩ Sơn bị sạt lở quá nửa, cánh rừng kề bên rộng hàng ngàn mẫu bị bốc cháy dữ dội, chim chóc và hươu nai vùng vằng chạy ùa tứ tán, kêu réo inh tai. Các nguồn suối bỗng dưng khô cạn lập tức, các thảo nguyên bạt ngàn bị thiêu rụi dưới làn kiếm quang khủng khiếp của lưỡi kiếm Can Tương. Cây cối trong rừng thì bị luồng kiếm phong ghê rợn ấy chấn động đến nỗi ngả rạp trên đồi cát đỏ, nằm cong queo la liệt và chồng chất lên nhau.

         Các tù trưởng mặt mày tái xanh, mồ hôi toát ra ướt cả lớp lông thú, dường như bị đinh tai nhức óc vì những tiếng nổ long trời lở đất ấy, và cặp mắt xốn xang nhòe nhoẹt vì bị làn kiếm quang gay gắt quét phải. Bọn họ bàng hoàng run rẩy, hồn vía rụng rời, vội vã quỳ xuống tung hô:

         - Vạn tuế! Vạn tuế! Phù Kiên Đại Vương!

         Phù Kiên đắc ý, phóng lưỡi kiếm bay thẳng lên trời. Tức thì, thanh Can Tương thần kiếm hóa thành một con hỏa long, toàn thân đỏ như lửa đảo qua đảo lại, bay liệng trên mây, há mồm đỏ như chậu máu, phun ra những tia chớp xanh lè, cùng những tiếng sấm rền giáng xuống, bao phủ cả sơn hà đại địa. Mây đen bỗng dưng tỏa khắp bầu trời, và cuồng phong ào ào rú liên miên, âm thanh rờn rợn như tiếng nghiến răng, kêu khóc của oan hồn, quỷ mị.  

         Bấy giờ, bọn tù trưởng và tùy tùng đều vỡ mật bay hồn, tay chân luống cuống, không thể nào giữ vững thần trí cho định tĩnh nữa, quăng cả khí giới, gục đầu lên cát bỏng, đôi mắt nhắm nghiền chẳng dám hé ra.

         Phù Kiên cười ha hả, khẽ lấy tay ngoắc nhẹ, lập tức con hỏa long bay trở lại, hóa thành lưỡi kiếm Can Tương nằm trên tay mình.

         Đất trời trở nên lặng yên.

         Bọn tù trưởng liền ngóc đầu dậy, chưa dứt bàng hoàng, khuôn mặt ai nấy còn vương nét ủ dột, vội vàng đưa tay phủi những vệt cát dính trên quần áo. Rồi sực tỉnh, lượm khí giới huơ lên cao, la hét ầm vang, tỏ vẻ thán phục:

         - Vạn tuế! Vạn tuế!

         - Vô Địch Thần Kiếm Đại Vương vạn vạn tuế!

         Phù Kiên khoan khoái thở phào:

         - Can Tương thần kiếm vạn tuế!

         Bọn thủ hạ dưới trướng cũng bị kích động trở nên hân hoan cùng tột, cũng ném cả cung nỏ, giáp trụ, ôm nhau nhảy nhót hò reo như vừa thu hoạch một thắng lợi to tát.

         ...

         Chờ cho cơn huyên náo của đám đông qua đi, Phù Kiên xoa tay, cười lớn:

         - Thưa chư vị tù trưởng huynh đệ chí thiết, những con hổ chúa bất khuất của sa mạc Qua Bích, những con kình ngư cuồng nộ của sóng nước Hắc Long Giang, hãy lắng nghe, hãy lắng nghe những lời chân thật từ trái tim nóng hổi của Phù Kiên này.

         Các dân tộc Bắc phương chúng ta, suốt cả ngàn năm nay luôn luôn bị lũ người Hán tộc chèn ép, bức hiếp, khinh khi và bóc lột. Bọn Hán tộc thường gọi chúng ta là man di mọi rợ và đem binh mã từ trung nguyên chinh phạt, cướp bóc, chém giết, bắt các tù trưởng phải nộp lụa là, gấm vóc, vàng ngọc, châu báu và lùa các đàn bà con gái trẻ nít mang về trung nguyên làm nô bộc, tỳ thiếp. Thảm trạng này còn kéo dài mãi, nếu huynh đệ chúng ta cứ chia rẽ tranh chấp lẫn nhau, không biết đoàn kết lại để tập hợp thành một khối sức mạnh duy nhất.

         Nay, Ngọc Hoàng Thượng Đế thương xót chúng ta, nên ban cho Phù Kiên này một thành thần kiếm năng lực phi thường, ắt hẳn giúp chúng ta một cơ hội chuyển đổi thời vận, phục hồi uy thế. Trung nguyên hiện đang ở trong cơn đại loạn, binh hèn tướng yếu, triều đình hủ bại, vua quan vô đạo, dân chúng điêu linh, chính là dịp may ngàn năm một thuở.

Mong chư vị tù trưởng huynh đệ hãy cùng Phù Kiên này đoàn kết với nhau, tập hợp binh mã, mài giữa gươm đao, thẳng tiến Trường An, tóm thâu bờ cõi, đạp phá kinh thành lấp sông xẻ núi, rửa sạch thù xưa, làm cho lũ Hán tộc mở cặp mắt đục ngầu gân máu mà thấy rõ cái trí dũng của người Hồ chúng ta! Với thanh thần kiến Can Tương thiên hạ vô địch, Phù Kiên này quyết đưa chư vị huynh đệ đến chỗ toàn thắng vinh quang!

         Các tù trưởng vô cùng khiếp hãi trước uy lực ghê gớm của thần kiếm Can Tương, lại nghe Phù Kiên phủ dụ hết sức mềm mỏng, ngọt ngào, bèn đồng tâm nguyện ý suy tôn Phù Kiên làm Vô Địch Thần Kiếm Hoàng Đế, lấy quốc hiệu là Tần, thống lãnh tất cả các lộ quân mã, cùng nhau bàn bạc, hẹn ngày xuất quân kéo vào Trung Nguyên chiếm thành đoạt ải, phục hận báo cừu, hiển vinh Hồ tộc.

         Phù Kiên cả mừng, phong cho Vương Mãnh làm Đại Quân Sư, phong Diêu Trành là Xa Kỵ Tướng Quân chỉ huy đạo quân tiên phong, các vị tù trưởng đều được phong chức Đại Tướng, đặt dưới quyền điều động của Hoàng Đế, trực tiếp chỉ huy đạo quân tập hậu, dốc hết toàn lực nam tiến.

         Trước ngày xuất quân Đại Quân Sư Vương Mãnh quý tấu:

         - Khải tấu Đại vương, chuyến xuất binh lần này một hảo sự trọng yếu nhất, ảnh hưởng to tát đến vận mệnh Hồ tộc và đế nghiệp của Đại vương. Tất cả mọi thắng lợi mai hậu, đều nương cậy hoàn toàn vào uy lực hiển linh của Can Tương thần kiếm. Vì là thứ bảo vật vô giá của Thượng đế ban cho, nên không thể dùng máu trâu dê để làm lễ tế cờ như lệ thường được!

         Hoàng đế Phù Kiên hỏi:

         - Vậy theo cao kiến của đại quân sư thì phải dùng thứ máu gì để hiến cúng Thần kiếm và làm lễ tế cờ cho thập phần long trọng?

         Đại quân sư Vương Mãnh tâu:

         - Khải tấu đại vương chí tôn chí kính, nên lấy máu huyết của những người yêu quý nhất của đại vương để làm lễ tế cờ và hiến cúng Thần Kiếm Can Tương, như vậy mới cảm ứng đến Thượng đế, cũng như phát huy cùng tận hiệu quả phi thường của thứ khí giới vô địch ấy. Nhờ thế, được quỷ thần ám trợ cho đến chiến thắng vẹn toàn.

         Hoàng đế Phù Kiên ngẫm nghĩ giây lâu, rồi gật đầu:

         - Quả nhân y theo lời tấu của đại quân sư. Hãy lấy máu của hoàng hậu và tám ái phi để hiến cúng Thần Kiếm Can Tương và thiết lễ tế trời, cho buổi lễ xuất quân tăng thêm khí thế và làm Thần Kiếm hài lòng!  Xa kỵ tướng quân Diêu Trành hớt hải dập đầu xuống đất, lớn tiếng can ngăn:

         - Khải tấu Đại vương, xin Đại vương tha tội, cho tiện thần được bày tỏ ngu ý...

         Phù Kiên khoác tay:

         - Khanh hãy bình thân, có điều gì muốn tâu thì cứ thong thả giải bày!

         Diêu Trành đứng dậy, thưa:

         - Khải tấu Đại vương, tiện thần thiết nghĩ rằng, Đại vương là bậc chí tôn trong thiên hạ, là chỗ về nương của trăm họ muôn dân, nhất cử nhất động của đại vương đều phải lấy nhân đức làm cột gốc, bủa ân lành khắp bốn biển, cho nên đại vương không thể khinh xuất làm một việc nhẫn tâm như thế. Lại nữa, vợ chồng xưa nay vốn là thiên kinh địa nghĩa, giềng mối của xã tắc, chẳng thể vì bất cứ nguyên cớ nào mà hy sinh tánh mạng của Hoàng hậu và tám phi tần một cách rẻ rúng. Mong đại vương xét nghĩ!

         Hoàng đế Phù Kiên vuốt râu, cười nhạt:

         Quả nhân cho rằng, lời tấu của đại quân sư thật là hợp đạo lý và mang lại lợi ích cụ thể cho đế nghiệp của quả nhân. Trong công cuộc tranh bá đồ vương cùng lũ Hán tộc, chỉ nghĩ  đến đại sự mà chớ nên câu chấp tiểu tiết.

         Muốn phát huy tất cả năng lực siêu phàm của Can Tương thần kiếm, dẫu hy sinh hết thảy những gì ta đang có, ta cũng đành tâm chấp nhận, huống hồ mạng sống của Hoàng hậu và tám phi tần? Lại nữa, để thuận với ý trời, để nắm được ngai vàng Trung nguyên, quả nhân phải cho Thần Kiếm uống máu những kẻ thân yêu nhất. Ngươi chớ nên phí lời...

         Diêu Trành chưng hửng, quỳ lạy:

         - Đội ơn Đại vương xá tội!

         Tức khắc, Hoàng đế Phù Kiên sai thủ hạ lôi cổ hoàng hậu Kỳ La cùng tám vị phi tần ra giáo trường chặt đầu, lấy máu tươi thoa lên lên Can Tương thần kiếm, xong hứng đầu chén ngọc, đặt trên hương án, làm lễ tế cờ, Phù Kiên đích thân vận triều phục khom mình đảnh lễ thiên địa rất chí thành. Xong, Hoàng đế hạ lệnh xuất quân vào sớm mai.

         Ngoại trừ Vương Mãnh ra vẻ hí hửng, vui tươi, còn tất cả tướng sĩ đều lấm lét trông nhau, mặt mày tái mét chẳng dám hé môi, bước lui khỏi giáo trường với những bước chân khó nhọc nặng nề.

         Đêm hôm ấy, Diêu Trành về tư dinh với nỗi bất an về cuộc viễn chinh thần tốc sắp tới. Y bèn gọi công tử Diêu Hưng vào thư phòng. Thoáng thấy khuôn mặt nhớn nhác thất thần của phụ thân, công tử Diêu Hưng hỏi:    

- Hài nhi trông khí sắc của phụ thân có vẻ tiều tụy, hẳn phụ thân ưu não điều chi?

         Diêu Trành đưa tay chỉ vào chiếc ghế đối diện:

         - Hài nhi hãy ngồi xuống đây, cùng ta đàm luận giải khuây đôi chút!

         Công tử Diêu Hưng cúi đầu, vòng tay thi lễ, rồi khép nép ngồi xuống ghế, yên lặng.

         Diêu Trành thở dài, đưa cặp mắt ủ rũ ngó mấy bức thủy mặc treo trên tường. Lại buông thêm mấy tiếng thở dài nữa, rồi thừ người ra, ngả đầu vào thành ghế, mệt mỏi. Công tử Diêu Hưng chồm người sang, nắm tay cha:

         - Hay là... hay là hài nhi thỉnh lương y thăm mạch bốc thuốc cho phụ thân nhé?

         Diêu Trành lắc đầu:

         - Đừng... đừng, ta chẳng hề ốm đau gì đâu, chẳng qua... quốc quân đại sự lắm chuyện rối rắm khiến ta phiền muộn đó thôi!

         Diêu Hưng nhìn cha, âu yếm:

         - Có chuyện gì không vui, phụ thân hãy nói cho hài nhi nghe, may ra vơi niềm bực dọc...

         Diêu Trành gật đầu. Bằng giọng nói phẫn nộ của một võ tướng dũng cảm nhưng không kém phần tinh tế, Diêu Trành tường thuật tỉ mỉ những sự việc vừa xảy ra nơi chân núi A Mục Nhĩ Sơn, cũng như những biến cố mới đây ở triều đình. Cuối cùng thở phào nói:

         - Ta nhận thấy Can Tương thần kiếm hiển nhiên là một khí giới siêu phàm, quái dị, có năng lực khủng khiếp, chưa từng thấy trên thế gian này. Thật không ngờ đại vương thu lượm được một báu vật lợi hạihiểm độc đến thế.

         Cùng với tính khí bạo ngược vô đạo của đại vương, ắt hẳn Can Tương thần kiếm càng tăng thêm thập phần nguy hiểm cho địch nhân, gieo rắc khủng khiếp cho bọn Hán tộc, chắc hẳn sẽ chiến thắng viên mãn. Nhưng đại vương dám chặt đầu hoàng hậu cùng tám bà ái phi để phát huy hiệu quả ghê rợn của Can Tương thần kiếm, và chóng đạt tham vọng bá chủ thiên hạ, thì quả là một điều quá đáng, bất chấp nhân tâm, đạp đổ cả đạo nghĩa cương thường!

         Diêu Hưng kéo chiếc ghế sát bên cha bẩm:

- Thưa phụ thân, lâu nay ngoài thì giờ học tập binh thưrèn luyện võ nghệ, hài nhi may mắn gặp các vị sa môn từ Tây Vực ghé qua, truyền thụ cho hài nhi giáo lý Phật đà và vài ba phương thức tu tập - cho nên giờ đây, hài nhi cũng thấu hiểu chút ít về luật tắc Nhân Quả và nguyên lý Duyên Sinh, hài nhi tin rằng, kẻ tàn bạo không chóng thì chầy sẽ bị tiêu diệt. Một lưỡi kiếm hung hiểm và một tên bạo chúa, sẽ không tồn tại vĩnh cửu. Không một ai có thể ung dung gieo rắc thống khổ lâu dài cho nhân loại được!

         Diêu Trành nhếch môi, cười gằn:

         - Nhưng Can Tương thần kiếm vốn là một vũ khí thiên hạ vô địch, không một thứ bạo lực nào sánh kịp. Nhờ nó, Đại vương sẽ mau chóng thành tựu đế nghiệp, bởi lẽ trên trần gian này không có bất cứ khí giới nào chống ngăn nổi!

         Diêu Hưng lắc đầu:

         - Thưa phụ thân, một thứ khí giớilợi hại đến mấy đi nữa, dù xảo diệu phi thường đến mức độ nào chăng nữa - cũng vẫn là sản phẩm của cơ tâm, cơ trí con người. Mà cơ tâm và cơ trí ấy vốn không có hạn lượng, biến đổi khôn cùng. Cho nên, hôm nay Đại vương cậy có Can Tương thần kiếm với năng lực hủy diệt hàng ngàn người trong khoảng vài trăm dặm - thì một ngày kia, thiên hạ sẽ xuất hiện một kẻ nào đó, sáng chế một thứ khí giới tân kỳ hơn, lợi hại hơn gấp bội, với năng lực công phá và sát thương hàng chục vạn người trong khoảng vài ngàn dặm, vạn dặm, ức dặm... Như vậy, Can Tương thần kiếm nào được gọi là vũ khí vô địch nữa, không còn là thứ bạo lực bách chiến bách thắng nữa.

         Hài nhi cho rằng, Can Tương thần kiếm chỉ là một vũ khí bá đạo, hiểm độc trong nhất thời mà thôi.

Lại nữa, Đại vương sử dụng thần kiếm ấy với ác tâm cực độ, với mục tiêu hiếu sất đê hèn, thì... theo luật nhân quả, Đại vương sẽ gặt hái những quả báo tồi tệ, thê thảm trong một ngày không xa.

         Thưa phụ thân, một lưỡi kiếm như Can Tương sẽ không bao giờ chuyển loạn thành trị, mà chỉ tăng loạn càng thêm loạn mà thôi. Nếu Đại vương muốn bình định thiên hạ, mà chỉ trông cậy vào một thanh kiếm, thì quả là thất sách!.

         Diêu Trành vỗ đùi bôm bốp, gật đầu:

         - Hảo hài tử, hay lắm! Ta thật không ngờ hài tử quan sát tinh tườngkiến văn quảng bác đến thế! Vậy theo ý của hài tử, muốn bình thiên hạ, nắm vững mệnh trời thì phải làm thế nào?

         Diêu Hưng khoanh tay rất mực cung kính:

Thưa phụ thân, muốn bình thiên hạ, cải biến nhân sinh thì chỉ có một phương thức duy nhất, một sách lược tối thượng: đó là phải sử dụng và phát huy minh triết của cổ nhân. Nghĩa là, trước tiên tuyên dương một chính nghĩa thiện mỹ, chiêu mộ hiền tài bằng khoan nhân, ổn cố xã hội bằng pháp trị, giáo hóa bá tánh bằng luật tắc, phủ dụ kẻ sĩ bằng đạo lý cao viễn, dọa dẫm muôn dân bằng hình phạt nghiêm khắc, vỗ về chư hầu bằng uy đức, bảo bọc nhung địch bằng lòng từ ái.

Được như vậy, chẳng bao lâu bốn biển thái hòa và mọi người đều an cư lạc nghiệp...

         Diêu Trành lại gật đầu:

         - Hảo sách lược! Hảo tri kiến! Ai đã dạy cho hài tử những tri thức siêu việt và cao thâm dường ấy?

         Diêu Hưng ngồi thẳng, vai ngang, chân dang ra và hai tay đặt ngay ngắn trên đầu gối, ngước nhìn cha với vẻ mặt điềm tĩnh:

         - Thưa phụ thân, câu chuyện này khá dài, hài nhi xin thuật lại cặn kẽ, mong phụ thân chỉ giáo!

         Diêu Trành ngạc nhiên:

         - Ừ, hài nhi có tâm sự hoặc uẩn khúc gì, cứ tự nhiên nói ta hay...

         Diêu Hưng kể:

         - Cách đây ba năm, một buổi chiều mùa hạ oi bức, hài nhi thả ngựa dọc bờ Hắc Long Giang, đến một ngôi cổ tự nhỏ bé nhưng xinh xắn, nằm lẩn khuất dưới chân ngọn đồi bên triền sông. Hài nhi dừng ngựa, hỏi thăm những cư dân quanh vùng, họ cho hay đó là nơi ẩn tu của những nhà sư người Thiên Trúc, được lập nên từ lâu lắm rồi. Chùa có tên là Bảo Sơn Tự, vị sư trụ trì hiện nay pháp hiệu Thanh Tịnh Hạnh, một vị cao tăng ngộ đạo, chứng quả A La Hán, sang đây định cư và giáo hóa người Hồ chúng ta.       

         Hài nhi cột ngựa vào gốc cây trước cổng, lặng lẽ bước chân vào sân chùa, như có một sức mạnh kỳ bí nào lôi kéo mình, không thể nào cưỡng lại được - mặc dù hài nhi cũng tự hỏi mình vào đây để làm gì?

         Đang say sưa ngắm những cảnh vật bài trí có vẻ thô sơ nhưng đượm phong thái u nhàn, siêu thoát nơi một chốn cô tịch, bỗng nhiên từ hậu liêu bước ra một nhà sư cao lớn, mũi thẳng, mắt xanh biếc, vẻ mặt thanh tú, và dáng đi như sư tử. Nhà sư chăm chú nhìn hài nhi rất lâu, tỏ vẻ ngỡ ngàng, kinh dị, thình lình ôm chầm lấy đôi vai hài nhi, òa khóc như trẻ thơ, rồi nói lớn:

         - Tại sao mãi giờ này ngươi mới đến? Ta đợi ngươi đã bao nhiêu lâu, mà sao ngươi vẫn dửng dưng kiên gan cùng tục lụy? Bao nhiêu cánh nhạn đã bay về phương nam, bao nhiêu sắc lá màu cây đã đổi thay trên thảo nguyên trùng điệp, sao giờ này ngươi mới chịu đến, khiến cho ta mỏi mắt trông chờ, còng lưng ứa lệ!

         Nam mô  Phật Đà, Nam mô Đạt Ma, Nam mô Tăng Già! Hôm nay ngươi đã trở lại cùng ta, có phải đúng là Ngươi? Hay chỉ là ảo tượng của sa mạc Qua Bích trong cơn khát bỏng? Hay chỉ là sợi khói mong manh giữa những biến động vô thường của nhân sinh bọt bóng?

         Hài nhi bỡ ngỡ, và cảm thấy khó chịu, bực bội, không hiểu vị sư già này là một Tỳ kheo chân chính, hay là một gã điên khùng, hoặc là một kẻ lừa đảo cố bày những tấn tuồng kỳ dị để mê hoặc thế nhân? Hài nhi gỡ tay y ra và ngồi xuống ghế đá gần đó. Y không đuổi theo, mà ngồi bệt xuống nền đất, bắt tréo hai chân, nhắm đôi mắt như đang nhập thiền định. Một hồi lâu sau,y mở mắt ra, lẩm bẩm:

         - Quả đúng là Ngươi, chứ không thể một ai khác. Ta không hề lầm lẫn bao giờ?

         Hài nhi hỏi:

         - Kìa, ông Sa Môn mắc biếc kia, ông nói gì bí hiểm quá, tại hạ chẳng hiểu thấu!

         Nhà sư già dường như không nghe tiếng nói của hài nhi, y lại lim dim đôi mắt, lặng lẽ đi vào cơn trầm tư sâu thẳm.

         Thú thật, từ bé đến giờ, hài nhi chưa từng trải qua những cảnh ngộ khó xử thế này. Muốn quay gót trở về, nhưng sao thân xác có vẻ nặng trịch, và dường như có một sợi dây vô hình đang cột cứng đôi chân hài nhi vào chiếc ghế đá trong sân chùa.

         Lâu sau, mặt trời sắp lặn, nhà sư mở to đôi mắt, phủi tay đứng dậy, lững thững đi đến ghế đá và ngồi xuống bên cạnh hài nhi, vỗ vai ân cần:              - Ta chờ Ngươi nơi này đã lâu, để giao phó một sứ mệnh trọng đại, mà chư Phật từng ủy thác cho Ngươi.

         Hài nhi luống cuống lắc đầu:

         - Tại hạ là Diêu Hưng, con trai của tướng quân Diêu Trành dưới trướng của thủ lãnh Phù Kiên, tại hạ tuổi tác còn thơ ấu, chưa hề quen biết với Sa môn, lẽ nào dám đảm đương nổi việc lớn? Này Sa Môn, ngài có nhầm không đấy?

         - Không, ta có cái nhìn xuyên suốt trăm ngàn đời kiếp, và chưa hề nhầm lẫn bao giờ. Ngươi đừng nghi ngờ như thế. Hãy lắng nghe.

         Nhà sư đột nhiên im lặng ngước nhìn bầu trời cao, rồi dõng dạc nói:

         - Ngươi chính là chân mệnh Đế vương, một vị minh quân vĩ đại của Trung Nguyên sau này. Ngươi hạ sinh nơi cõi ta-bà ô trược này để hoằng dương chánh pháp Đại Thừa, truyền bá đạo lý nhiệm mầu và khai phát Phật tri kiến cho hết thảy chúng sinh miền Đông Độ...

         - Xin Đại Sa Môn đừng làm tại hạ khiếp sợ, tại hạ tình cờ ghé tạt qua đây cốt vãn cảnh mà thôi, thật chẳng có ý gì khác. Thôi, Đại Sa Môn cho phép tại hạ cáo từ kẻo trời sắp tối rồi...

         Nhà sư níu lấy tay hài nhi, nói:

         - Hãy ở lại cùng ta trong giây lát nữa, việc gì ngươi phải hốt hoảng như thế?

         Hài nhi đứng dậy, chắp tay chào:

         - Tại hạ phải về thôi! Tại hạ không phải là kẻ mà Đại Sa Môn trông đợi...

         - Không. Ngươi chính là một hóa sinh của Chuyển Luân Vương bằng những đại nguyện mà ngươi đã phát ra trong nhiều kiếp lâu xa. Về sau này, Phật phápTrung Nguyên chắc chắn sẽ nhờ ngươi mà tỏ rạng, kiến lập sự nghiệp tuệ giác muôn đời cho hậu thế...

         Giọng nói của y thành khẩn biết bao và đầy hấp lực, hài nhi tự nhiên ngồi lại trên ghế đá, bán tín bán nghi, hỏi:

         - Thưa Đại Sa Môn khả kính, tại hạ lâu nay vẫn sùng tín Tam Bảo, theo học giáo lý của Thượng Tọa Bộ bên Thiên Trúc, nhưng nghĩ mình tài sơ đức bạc, dám nào gánh vác trọng trách lớn lao dường ấy?

         - Ngươi hãy an tâm. Khoảng mười năm sau, ngươi sẽ lên ngôi Thiên TửTrung Nguyên, uy quyền tỏa khắp một vùng đất rộng lớn, khi ấy giáo pháp Đại Thừa sẽ nhờ bàn tay ngươi mà truyền bá sâu rộng trong nhân gian, mang lại lợi ích vô cùng tận cho chúng sinh...

         Hài nhi run run hỏi:

         - Một mình con, làm sao hoàn thành một công việc to tát, nặng nề như thế?

         - Con hãy ghi nhớ lời ta dặn. Khi ấy, sẽ có một Đại Pháp Sư ở Thiên Trúc sang hỗ trợ con trong công cuộc gian lao, khó khăn ấy. Vị đó, là một cao tăng ngộ đạo, thông suốt giáo nghĩa Nguyên Thủy lẫn Đại Thừa, bác lãm kinh luận ngoại đạo, không có gì mà không hiểu thấu. Con hãy tôn vị ấy làm Quốc sư, và tỏ lòng cung kính đối với Đức Phật, cùng nhau chung sức gầy dựng một nền Phật học cao thâm, chân chính, đúng đắn cho tất cả chúng sinh.

         Nghe đến đây, bỗng nhiên hài nhi bắt đầu tin tưởng mãnh liệt vào lời nói của vị Đại Sa Môn có hành tung kỳ dị này. Hài nhi rùng mình nghĩ tới một ngày không xa, mình sẽ trở thành một vị Hoàng đế nơi một đất nước xa lạ, trong khi bản thân chưa hiểu chút gì về đường lối trị quốc, bỉnh chính, điều khiển bộ máy quan lại, thực hiện an cư lạc nghiệp cho bá tánh. Hài nhi bèn hỏi:

         - Bạch Đại Sa Môn, đệ tử chỉ là một tiểu công tử dòng dõi võ tướng, kiến thức kém cỏi, đức độ sơ bạc, tài năng nhỏ hẹp, biết nương cậy vào đâu để hành xử đúng khuôn phép thói lề của một bậc minh quân, lại còn phải mang vác sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh theo đạo giác ngộ y như lời dặn dò của Ngài vừa rồi?

         Vị sư già không trả lời ngay, bỗng bước lui hậu liêu, lục lọi hồi lâu, rồi trở lại, tay cầm bốn cuốn kinh dày cộm, cũ kỹ. Bằng thái độ hết sức cung kính, trang nghiêm, nhà sư nói:

         - Diêu Hưng! Ta với con vốn có nhiều mối liên hệ sâu xa từ nhiều đời kiếp, cũng làm sa môn tu học dưới pháp tòa của đức Phật Nhiên Đăng, đồng phát khởi đại nguyện một lần và đã được Phật ấn chứng. Nay ta và con cùng hẹn nhau nơi cõi ta bà này, cốt để hoàn thành tâm nguyện thuở xưa kia.

         Muốn thực hiện trọng trách hoằng pháp trong vai trò một vị thánh chúa minh quân, phải lấy đạo đức bản thân để làm mô phạm cho muôn dân thiên hạ. Do đó, con nên chấp trì Giới Luật thật nghiêm cẩn, vững chãi, không hủy phạm, phải thực tập thiền định bằng một cách bền bỉ, tinh tấn, không lui sụt không dễ duôi. Rồi sau đó, con sẽ sử dụng trí tuệ chính mình để điều khiển việc nước, làm cho bá tánh được an cư lạc nghiệp, chăn dắt dân chúng bằng giáo pháp Đại Thừa.

         Đây, ta tặng con ba bộ kinh và một bộ luận, phần tinh túy và cơ bản nhất của giáo lý phật đà. Đó là Phật Thuyết A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh và bộ luận Đại Thừa Khởi Tín.

         Ngày kia, con sẽ hội ngộ vị Đại Pháp Sư nọ, ngài sẽ trao cho con một thanh Kim Cang Bảo Kiếm siêu việt, nhiệm mầu, có năng lực tối thắng, vĩnh cửu - để con tỏ ngộ tự tâm, thấu triệt bản tánh, đem an lạc cho bá tánh đem trí tuệ đến cho muôn người...

         Hài nhi kinh ngạc, hỏi:

         - Một lưỡi kiếm ư?

         - Vâng, quả đúng như vậy. Một thanh bảo kiếm uy lực vô song, hiệu năng vô cùng tận, mà không có một lưỡi kiếm thế gian nào có thể sánh nổi. Con chớ nên thắc mắc nghi ngờ, đến khi ấy sẽ hay ...

         Hài nhi dùng dằng, định hỏi thêm vài ba câu nữa, nhưng nhà sư già đứng dậy, từ tốn nói:

         - Thôi, con hãy ra về, chớ nên tìm gặp lại ta lần nữa, vô ích. Những gì đáng nói, ta đã nói hết. Hãy trân trọng lời căn dặn của ta,và luôn luôn ghi nhớ trọng trách hoằng dương giáo pháp Đại Thừa ...

         Thưa phụ thân, như thế, hài nhi ra về trong nỗi băn khoăn. Đến nhà, hài nhi vẫn thao thức không ngủ được, bèn mang mấy bộ kinh ra xem. Té ra, đó là những văn bản được viết bằng Bắc Phạn, cũng may trước đây hài nhi chịu khó học hỏi Phạn ngữ nơi những du tăng người Thiên TrúcTây Vực, nên giờ này nghiên cứu một cách dễ dàng.

         Như vậy, ba năm nay, hài nhi chuyên tâm nghiên cứu kinh luận Phật giáo Tịnh Độ chứ không còn say mê luyện tập võ nghệ và binh thư như xưa nữa. Nói thật tình, mong phụ thân chớ trách mắng. Lâu nay, hài nhi chỉ thường xuyên niệm Nam Mô A Di Đà Phật và học thuộc những nghĩa lý uyên áo trong các bộ kinh do vị Sa Môn ấy trìu mến trao tặng. Qua lời dạy khẩn thiết của đức Thích Ca, hài nhi quyết tâm thực hiện nếp sống giải thoát mọi khổ đau của nhân sinh, khai mở trí tuệ, chẳng tha thiết đến một thứ gì khác.

         Diêu Trành trầm tư giây lát, rồi nhìn con:

         - Hảo hài tử! Hảo chân kinh! Ta rất mừng vì hài tử duyên may hội ngộ nhà sư xứ Thiên Trúc, lại được trao tặng mấy bộ kinh quý báu kia để tu học đạo Thích. Nhưng, hài tử hãy cho ta biết, trong các bộ kinh ấy có bàn đến những phương sách trị quốc, an dân bình thiên hạ hay chăng?

         Diêu Hưng trả lời:

         - Thưa phụ thân, trong các bộ kinh Tịnh Độ ấy chỉ nêu rõ bí quyết thành tựu con đường giải thoát khổ đau, nhưng thật ra vẫn bàng bạc các nguyên tắc chính yếu để kiến thiết đất nước, ổn cố nhân tâm, những bài học cao thâm để sửa chữa lỗi lầm cho bậc vương bá, nắm vững giềng mối xã tắc, làm cho quốc gia cường thịnh, không bị suy giảm, trên căn bản tu tập thiền định Niệm Phật tam-muội.

         Diêu Trành nhíu mày:

         - Ta vẫn còn thắc mắc tại sao vị Đại Sa Môn kia lại bảo hài tử chính là chân mạng Thiên tử, quả quyết rằng ngày sau hài tử sẽ trị vì đất nước Trung Nguyên gấm vóc bao la?

         Diêu Hưng trông cha, cười:

         - Thưa phụ thân, hài nhi làm sao hiểu được những lời tiên tri bí ẩn ấy. Vì nguyên cớ nào mà vị Sa Môn kia bảo hài nhi sau này sẽ dựng nên đế nghiệp, và hoằng dương Đại Thừa. Từ trước đến nay, hài nhi chỉ học hỏitu tập theo giáo lý Tịnh Độ còn giáo nghĩa cao tột của Đại Thừa thì bản thân chưa biết một chút gì. Làm thế nào hài nhi có thể chấn hưngtruyền bá một giáo pháp mà chính mình chưa hề học qua?

         Vừa nghe Diêu Hưng nói, Xa Kỵ Tướng Quân Diêu Trành chăm chú nhìn vào khuôn mặt và thân hình đứa con yêu của mình. Hầu như hai chục năm hơn, Diêu Trành không bao giờ có dịp quan sát con trai một cách kỹ lưỡng và tỉ mỉ như vậy.

         Quả thật, Diêu Trành nhận ra con mình là một nhân vật khác thường, không hề giống như những thanh niên thoáng qua trước mắt mình hằng ngày.

         Ở Bắc phương, hiển nhiên hạng thiếu niên cường tráng phi ngựa như bay, bắn cung nhanh như chớp, xông pha trận mạc như cơm bữa, uống máu địch nhân như ngốn nước lã - thì phải nói cho đúng, hạng thiếu niên dũng cảm ấy thật nhiều vô số kể. Nhưng một thiếu niên chân mệnh đế vương ắt hẳn phải có những đặc điểm khác thường. Diêu Hưng có vóc dáng cao lớn nhưng thanh tú, trán cao, tóc đen mượt, mũi đẹp như sư tử, cằm vuông, dưới chót mũi là hàng râu đỏ cứng, uốn cong ngược lên như móc sắt. Toàn thể khuôn mặt như toát ra ánh  hào quang rạng rỡ, trông vui vẻ chân thành, khả ái, nhưng không thiếu vẻ nghiêm nghị, trầm mặc. Tay chàng dài và thon, vai tròn đầy, và thân hình như con gấu chúa, vừa oai vệ, vừa linh hoạt.

         Có thể vị sư già Thiên Trúc đã nói rất đúng, Diêu Hưng có phong thái và tư cách của một vị thiên tử đầy quyền uy và đầy phước lạc.

         Diêu Trành nắm tay con, nói:

         - Hài tử chớ băn khoăn, vô ích. Việc gì đến rồi sẽ phải đến. Nếu mệnh trời vào tay, thì hài tử sẽ làm thế nào?

         Tức thì, Diêu Hưng đứng dậy, ưỡn ngực, dõng dạc:

         - Thưa phụ thân, hiện thời chí hướng của hài nhi là đặt hết thảy cuộc đời mình vào con đường giải thoát, giác ngộ, theo lời di huấn của đức Thích Ca, y cứ vào các bộ kinh căn bản của pháp môn Tịnh Độxướng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, hằng ngày tuyệt không hề quan tâm một việc gì khác nữa.

         Nhưng, nếu mệnh trời vào tay mình, được làm một vị thiên tử hiển hách cao sang, thì hài nhi sẽ noi gót chân của đại đế A Dục, tiếp nối đại nguyện của ngài. Nghĩa là, hài nhi sẽ giáo hóa chúng sinh bằng đạo lý giải thoát, giác ngộ của bổn sư Thích Ca Mâu Ni, cực lực hoằng dương Phật pháp, mà quan trọng nhất là giáo pháp Tịnh Độ.

         Diêu Trành lắng nghe, rồi hỏi:

         - Hài nhi tin tưởng rằng, có thể sử dụng Phật pháp để trị quốc, an dân, bình thiên hạ được chăng?

         Diêu Hưng quả quyết:

         - Vâng, thưa phụ thân, có thể trị quốc, an dân, bình thiên hạ bằng giáo lý Phật đà như ngày xưa đại đế A Dục Vương đã từng thành tựu sở nguyện của Ngài, trong vị trí của một Phật tử lấy giới định tuệ làm căn bản cho mọi hành xử, thay thế cho chính lệnh và bạo lực.

         Lại nữa, nếu lời tiên tri của vị Sa Môn Thanh Tịnh Hạnh mà đúng sự thực, thì hài nhi sẽ được một Đại Pháp Sư từ Thiên Trúc trao cho một thanh Kim Cang Bảo Kiếm để dùng vào việc trị nước, an định thiên hạ. Xin phụ thân cùng hài nhi chờ xem sao!

Nhưng hài nhi chắc chắn Ngài không hề nói sai sự thực, vì Ngài là một bậc chân tu đắc quả vị A La Hán.

         Diêu Trành gật đầu:

         - Được, chuyện này chỉ có hai cha con ta biết, hài tử chớ tiết lộ cho bất cứ ai.

         Thôi, đêm đã khuya, ta phải nghỉ sớm để sáng mai cử đại binh tiến đánh Nhạn Môn Quan, ải địa đầu của trung nguyên. Hài tử hãy bảo trọng. Chiếm được Trường An, ta sẽ cho thủ hạ đón rước toàn gia về, cùng nhau mưu đồ đại sự!.

         - Kính chúc phụ thân cờ khai đắc thắng, mã đáo thành công. Riêng hài nhi hiện nay chỉ biết cần mẫn công phu tu tập Niệm Phậtnỗ lực nghiên cứu thâm sâu kinh luận của Phật gia để sau này, khi hữu sự có chỗ đắc dụng.

         Hai cha con họ Diêu ai nấy trở về phòng riêng, với những ưu tư khác nhau. Màn đêm buông xuống từ lâu.

         Bóng đêm vẫn là nơi ẩn giấu mọi âm mưu, trong một giấc mê dằng dặc của kiếp người.

         Và lịch sử vẫn mãi mãi là một tấn tuồng hí lộng, những diễn biến quái dị, thần tốc, mà không một ai có thể tiên đoán nổi.

         Nói về Phù Kiên cử đại binh Nam chinh, với khí thế uy dũng, cường liệt như chẻ tre.

Quan binh nhà Tấn không thể nào đương cự dù chỉ một trận nhỏ. Chưa đánh đã hàng, vừa giao tranh đã vội cuốn cờ tháo chạy. Dân chúng bồng bế dắt díu nhau lẩn trốn.

         Dưới bạo lực tàn khốc bách chiến bách thắng của Can Tương thần kiếm, bọn tướng sĩ nhà Tấn đều táng đởm kinh hồn, không dám phản kích. Mỗi lần Phù Kiên vung thanh kiếm Can Tương lên, thì thành quách vỡ vụn, đồn lũy sụp đổ, nhà cửa tan tành, kiều lộ gãy nát, xác người lem máu, tánh mạng tiêu vong. Dưới làn kiếm quang sấm sét của Can Tương thần kiếm, bao nhiêu dinh trại bị chém phăng, bao nhiêu đầu người rớt rụng, gươm giáo đứt lìa, giáp trụ rách bươm, hồn xiêu phách lạc. Dưới luồng kiếm phong độc địa của Can Tương thần kiếm, ai nấy đều ngạt thở, tức ngực, ói máu bất tỉnh, gục ngã trên chiến địa, gió chạy cát bay theo những cơn lốc dữ dội đang gầm rú khắp không gian, cây cối ngả nghiêng nằm rạp trên mặt đất.

         Dưới hỏa lực khủng khiếp tóe ra từ mũi kiếm Can Tương, những tiếng nổ long trời lở đất như địa lôi, như thiên pháo, làm cho rừng thiêu nhà cháy, suối cạn khô, ruộng đồng nung đỏ, đá nát vàng phai, ma khóc quỷ hờn trên đống tro tàn chiến địa văng vẳng tiếng rên siết của những tên lính cụt đầu.           

         Với bạo lực tiến công như bão lửa, như sóng gầm, như chớp giăng, như lốc xoáy, Can Tương thần kiếm không đụng độ một lực lượng đề kháng nào đáng kể của địch quân. Nhà Tấn hối hả thiên đô về Đông Nam chẳng kịp ban hành hiệu lệnh khẩn cấp. Nhà vua thì quẳng cả triều phục, vương miện, cân đai, chỉ vơ vét chút ít ngọc ngà châu báu, nhảy lên vai tên thái giám cõng chạy thục mạng ra cửa Đông. Bọn quan lại thì vứt cả ngựa xe võng lọng, ấn tín, lệnh tiễn, quát tháo lũ tùy tướng đàn đúm dẫn nhau tẩu tán trối chết, mong sao toàn mạng mà thôi, sá chi sĩ diện và tước vị công khanh.

         Sau lưng vua quan nhà Tấn, là đại binh của hoàng đế Phù Kiên, gồm hơn trăm vạn chiến sĩ Hung Nô choàng áo giáp bằng lông thú, đội mũ sắt, tay cầm đại đao, vai mang cung nỏ bằng đồng, trên vai là một túi tên tẩm thuốc độc. Bọn chiến sĩ Hung Nô này vốn là những tên du mục hiếu chiến, đôi mắt như đổ lửa, râu ria xồm xoàm, mặt mày đầy ấp sát khí, quen lấy việc chém giết là trò chơi hàng ngày, xem cướp bóc như cơm bữa. Dịp tiến quân Nam chinh này chính là một cơ hội để buông thả thú tính vốn tích lũy trong con người chúng tự lâu nay. Do đó, rợ Hung Nô tha hồ chém giết, càn quét cưỡng bức dân chúng và bọn quan tướng nhà Tấn.

         Hỗ trợ cho đoàn quân bách chiến này là lưỡi thần kiếm Can Tương, với cây cột lửa chói chang hơn trăm nghìn vầng thái dương, tia ra những luồng ánh sáng vàng khè, thiêu rụi mạng sống con người, phá nát lầu đài, xâm hủy dinh thự, chặt phăng cây cối. Sau cây cột lửa, là một đám khói đen, hình cây nấm, cao nhất tầng mây, phun ra những làn hơi độc khiến cho người và vật đều ngạt thở, máu me hồng hộc ao tuôn khỏi họng, và mồm mép sủi bọt. Kẻ trúng độc nặng thì tử thương ngay đương trường, còn kẻ trúng độc nhẹ thì ngã lăn gào thét liên hồi như điên loạn, như mất hết nhân tính.

         Phù Kiên cười khoái trá, tự tay cầm trống đốc thúc tướng sĩ xông trận bất kể ngày đêm. Bọn binh lính thấy hoàng đế đích thân thị sát mặt trận, bèn hăng máu tranh nhau lập công, dẫm chân lên xác người để kịp thời uy hiếp kinh đô nhà Tấn, cố giành cho kỳ được thắng lợi cuối cùng.

         Trường An thất thủ. Một số dân chúng không kịp tẩu thoát, đành ở lại chờ đón tân quân.

         Phù Kiên ngất ngưởng cầm thần kiếm Can Tương đẫm máu kẻ chiến bại, vào kinh đô trên chiếc kiệu vàng lộng lẫy, theo sau Phù KiênĐại Quân Sư Vương Mãnh, Xa Kỵ Tướng Quân Diêu Trành, cùng các tù trưởng thân cận.   

Dân chúng thành Trường An bày hương án ở hai bên vệ đường, cúc cung vái lạy, chào đón Thiên tử mới trong nỗi run sợ và tiếng nấc căm hờn. Những giọt nước mắt nghẹn ngào, âm thầm ứa ra từ hàng vạn khóe mắt bi thương.

         Bọn cựu thần và tôn thất dòng họ Tư Mã vì chậm chân chưa chạy khỏi Trường An, bị Vương Mãnh sai thủ hạ truy lùng rất gắt, sau đó bắt trói dâng nộp cho Phù Kiên. Phù Kiên ra mệnh lệnh tạm thời giam nhốt tại thiên lao, chờ ngày xét xử. Trong khi ấy, Diêu Trành vội vã khiến người tâm phúc đưa công tử Diêu Hưng cùng gia quyến về ngay Trường An để tham dự lễ đăng quang tức vị của Phù Kiên.

         Và nửa tháng kế tiếp, công tử Diêu Hưng đã hiện diện tại công phủ của Xa Kỵ Tướng quân Diêu Trành, giữa lúc Diêu Trành đang bận rộn coi sóc quân lính xây dựng một cái đài rất lớn, gọi là Thụ Mệnh Đài để sử dụng vào lễ đăng quang của Phù Kiên.

         Chẳng bao lâu, ngày lễ đăng quang đã đến.

         Buổi sáng, khi mặt trời vừa mọc, đông đảo quan lại, võ tướng, quân lính, thuộc đủ kỳ hiệu, xếp hàng ngay ngắn trước Thụ Mệnh Đài, Đại Quân sư Vương Mãnh thắp nhang kính cẩn cắm lên lư hương. Xong, bưng một cái khay ngọc đựng một thanh kiếm vàng và chiếc Truyền Quốc Ngọc Tỷ, dâng lên Phù Kiên.           

         Phù Kiên day mặt về phương Nam vái lạy thiên địa ba lần, rồi đứng thẳng dậy, giơ hai tay đón nhận khay ngọc, đưa lên ngang mày, nói lớn:

         - Thuận theo mệnh trời, vì sự an nguy của xã tắc, vì sự tồn vong của hai dân tộc Hồ và Hán, vì hạnh phúc trường cửu của bá tánh muôn dân - hôm nay, Phù Kiên này nguyện  đảm nhận trọng trách của một vị Thiên tử. Cúi mong Hoàng Thiên Hậu Thổ cũng như liệt tổ tiên thánh, quỷ thần chứng giámgia hộ.

         Hết thảy tướng sĩ, ba quân đều tung hô:

         - Vạn tuế, vạn vạn tuế!

         Vương Mãnh rước Phù Kiên bước xuống đài, lên kiệu vàng, vào điện Chánh Đại Quang Minh làm lễ tức vị.

         Phù Kiên ngồi lên ngai vàng, tự xưng là Thiên tử, lấy quốc hiệu Phù Tần, đặt niên hiệu Kiến Nguyên (lịch sử gọi là Tiên Tần).

         Quân sư Vương Mãnh quỳ tấu:

Muôn tâu bệ hạ, nay là lễ đăng quang, mở đầu một triều đại cường thịnh, tiện thần xét nghĩ, nên đem tất cả cựu thần và tôn tộc nhà Tấn ra chém đầu. Trước là răn đe bọn phản nghịch, thị uy cùng chư hầu, sau là cảm tạ thần kiếm Can Tương đã đưa bệ hạ khải hoàn thắng lợi, và khiến dân chúng Trường An thấy rõ bạo lực vô địch của chúng ta!

         Phù Kiên gật đầu:

         - Trẫm thấy lời trình tấu của Quân sư rất phù hợp ý trẫm, cũng như lòng trời. Bây đâu, hãy đem ba ngàn cựu thần và tôn thất nhà Tấn, ra pháp trường xử trảm tức khắc.

         Cả sân chầu bỗng nhiên im lặng phăng phắc. Xa Kỵ Tướng quân Diêu Trành hít một hơi thở thật sâu, cố thu hết can đảm bước ra quỳ lạy:

         - Thánh Hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế! Xin bệ hạ cho phép hạ thần được...

         Phù Kiên cười nhạt:

         - Diêu Trành! Có lẽ nhà ngươi không muốn giữ cái đầu trên cổ nữa hay sao, lại bày trò can gián?

         Diêu Trành hổ thẹn lui ra.

         - Có ta, ta chẳng sợ mất đầu!

         Một tiếng hét như sấm nổ vang lên giữa sân chầu, và một bóng người từ phía sau vọt tới, như tên bắn. Ai nấy đều hốt hoảng xôn xao quay mắt nhìn. Té ra, đó là một thanh niên chừng hai chục tuổi, vận võ phục bằng da thú, khuôn mặt khôi ngô và vóc dáng cao lớn như cây sồi già trên thảo nguyên đang sừng sững trước mặt Phù Kiên như con sư tử chúa gờm mắt nhìn người thợ săn, với tư thái ung dung không chút nao núng.

Phù Kiên vuốt râu, gằn giọng:

         - Mi là ai?

         Chàng thanh niên vẫn đứng thẳng, ưỡn ngực trả lời:

         - Hạ thần là Diêu Hưng, con trai của Xa Kỵ Tướng quân Diêu Trành. Hôm nay, hạ thần liều chết cầu xin bệ hạ giáng chỉ tha tội cho bọn cựu thần và tôn thất nhà Tấn cả thảy hơn ba ngàn người...

         Phù Kiên giận dữ, vung tay gầm lên:

         - Mi... mi cả gan phạm thượng khi quân như vậy, ắt muốn toàn gia bị tru lục hay chăng?

         Vẫn không biến sắc, Diêu Hưng đáp:

         - Cái chết không đáng sợ, vì nhân sinh có ai tránh khỏi cái chết? Cái đáng ghê sợ nhất thế gian, chính là sự tàn bạo của kẻ cầm quyền - và cái đáng khủng khiếp nhất thế gian, chính là sự vô đạo của bậc đế vương.

         Bệ hạ vừa chiếm được Trung Nguyên, một xứ sở vốn có nền văn hiến lâu đời, lòng dân chưa an định, sĩ phu chưa quy phục. Do đó, việc cần kíp nhất bây giờ là phải khẩn cấp ban bố ân đức, biểu lộ khoan nhân và giảm miễn thuế khóa, xóa bỏ hình phạt. Như thế, muôn dân cảm đức, bá tánh triêm ân, sĩ phu khen ngợi, quỷ thần hoan hỉ. Nhờ vậy, bệ hạ có thể giữ vững đế nghiệp lâu dài.

         Nhân cơ hội này, bệ hạ nên tranh thủ lòng dân bằng cách giáng chỉ tha mạng cho ba ngàn cựu thần, tôn thất nhà Tấn cũ, xin bệ hạ xét nghĩ. Một bậc minh quân thì phải biết lắng nghe lời can gián.

         Phù Kiên tím mặt, vểnh râu, trợn trừng cặp mắt, hét lớn:

         - Lòng dân ư? Lòng dân là cái gì? Hay đó chẳng qua là lập luận của bọn hủ nho Trung Nguyên? Ta sở dĩ chiếm được đất nước này chỉ nương cậy vào sức mạnh vô địch của Can Tương thần kiếm và sự đồng tâm hiệp lực của các tướng sĩ, cho nên ta chẳng cần chi đến lòng dân, chẳng sợ bọn sĩ phu, hiền triết của xứ sở này cả. Nếu bọn chúng tài giỏi thì đâu nếm mùi chiến bại dưới lưỡi kiếm uy mãnh và vó ngựa trường chinh bách chiến bách thắng của ta?

         Diêu Hưng, mi là đứa con trai bất khuất của sa mạc Qua Bích, tại sao mi lại bị mê hoặc bởi sách vở tà ngụy của bọn Hán tộc? Lại hỗn xược buông lời mạo phạm thiên uy, ta phải chặt đầu mi tức khắc, để răn đe thiên hạ và làm gương cho tướng sĩ. Bây đâu, hãy mau mau lôi cổ Diêu Hưng hành quyết!

         Bọn tả hữu dạ ran, và bẻ quặt hai tay, kéo Diêu Hưng ra trước Ngọ Môn chờ lệnh khai đao.

         Trong khi Diêu Trành tự xõa tóc rối bù, dập đầu trước ngai vàng, khóc lóc xin tha mạng cho con. Hốt nhiên, một luồng kình phong ào ạt thổi phăng cuốn ngã cây đại kỳ, hàng ngàn đám mây đen quần tụ lại giữa không trung. Bầu trời tối sầm hẳn. Cảnh vật ủ ê nhuộm một màu tang tóc, ghê rợn. Dường như văng vẳng tiếng nghiến răng của thần linh, tiếng kêu than của oan hồn. Quân lính quăng gươm giáo, triều thần rớt mũ miện, hết thảy cúi gầm mặt sát đất lạy lục Trời Phật như tế sao. Phù Kiên trong lúc hốt hoảng, cũng lật đật chui núp dưới ngai vàng, chẳng dám mở mắt.

         Trước Ngọ Môn, bọn đao phủ đã chạy trốn tự hồi nào, chỉ còn trơ vơ cây cột sắt và tội nhân Diêu Hưng đứng co ro chờ giây phút đầu lìa khỏi cổ. Nhưng, chẳng hiểu sao, dây trói trên cổ tay chàng bị đứt tung.

         Khoảng thời gian chừng một bữa cơm, gió ngừng thổi và mây tản mác đi một chút, đại tướng Lữ Quang vội vàng cột lại mái tóc, đội mũ sắt lên đầu, quỳ tâu:

         - Tâu bệ hạ, đây hẳn là điềm trời xui khiến, quỷ thần phẫn nộ trước cái chết oan uổng của Diêu Hưng. Kính mong bệ hạ mở lượng hải hà, dung thứ cho hắn một phen thử xem...

         Tâu xong, Lữ Quang ngước lên ngai vàng thấy trống trơn, chẳng có ai ngồi trên ấy cả.       

Lát sau, bọn thị vệ tả hữu mới lật đật dìu nhà vua đứng dậy, đỡ lên ngai như cũ.

         Sau khi hoàn hồn, nhà vua phán:

         - Trẫm chuẩn y lời tấu của đại tướng Lữ Quang. Nay xá tội chết cho Diêu Hưng và ba ngàn cựu thần tôn thất nhà Tấn trước đây.

         Đại Quân sư Vương Mãnh hú vía, hối hả quỳ tấu:

         - Muôn tâu bệ hạ, với tấm lòng nhân đức như đại hải, bệ hạ đã rộng dung tội chết của Diêu Hưng, nhưng tội sống quả thật khó tha. Theo ngu ý của tiện thần, hãy sai y làm tạp dịch ở Tây Minh Các, suốt ngày quét dọn lau chùi, nếu biếng trễ sẽ theo luật mà xử phạt. Như vậy mới hòng duy trì công đạo, giữ được triều quy. Còn Diêu Trành có lỗi dạy con không nghiêm, hãy biếm truất lương bổng một năm. Chư tướng sĩ hãy lấy đó làm gương.

         Khi ấy, thị vệ dẫn Diêu Hưng vào trước điện. Diêu Trành lặng lẽ nhìn con, rơi nước mắt, không biết nói năng làm sao nữa. Đại tướng Lữ Quang quát lớn:

         - Hai cha con họ Diêu hãy quỳ lạy tạ ơn Thánh Thượng gia ân tha tội, gấp lên!

         Diêu Hưng thấy rõ giọt nước mắt đang lăn dài trên gò má một vị lão tướng can trường, bèn gắng gượng quỳ xuống:

         - Tạ ơn bệ ha tha tội chết! 

         Trong lúc một tên thị vệ cầm châu phê sang thiên lao phóng thích ba ngàn cựu thần và tôn thất nhà Tấn cũ, thì một bọn thị vệ khác lột võ phục của Diêu Hưng và bắt chàng mặc vào người một bộ quần áo tù nhân, lập tức đưa sang Tây Minh Các phục dịch.

         Đại Quân sư Vương Mãnh tâu:

         - Muôn tâu bệ hạ, hiện nay đại quân đã chiếm được Trường An, nhưng các nước phía Tây vẫn chưa quy thuận, bệ hạ chỉ mới làm chủ một phần lãnh thổ Trung Nguyên. Tiện thần thiết nghĩ bệ hạ khẩn trương hạ lệnh xuất quân để thống nhất sơn hà về một mối, bình định hết thảy thiên hạ, - như vậy bệ hạ có thể ngồi yên trên ngai vui hưởng thái hòa, ngưỡng mong bệ hạ chuẩn tấu.

         Phù Kiên vuốt râu gậtđầu:

         - Được, quả là một sách lược rất phù hợp nguyện vọng của trẫm. Nhưng theo ý của Đại Quân sư thì nên giao đại quân cho Đại tướng nào, mới có thể cầm chắc thắng lợi.

         Vương Mãnh tâu:

- Để Diêu Trành đoái công chuộc tội, bệ hạ sai y cầm ba chục vạn quân tinh nhuệ tấn công các nước xung quanh. Còn tiện thần thì phò tá y để coi sóc mọi việc quân cơ, binh pháp. Đại tướng Lữ Quang thì cầm hai chục vạn tinh binh tiến chiếm Quan Trung, gồm thâu Ba Thục.  

Bệ hạ thì an vị tại Trường An để ban bố hiệu lịnh và chờ tin thắng trận. Đó là kế hoạch công thủ lưỡng toàn.

         Phù Kiên khen ngợi:

         - Hay lắm, hay lắm. Nay lệnh cho Xa Kỵ Tướng quân Diêu Trành và đại tướng Lữ Quang ngày mai đến giáo trường điểm quân và tiếp nhận chi tiết về cuộc hành binh sắp tới.

         Diêu Trành và Lữ Quang quỳ tâu:

         - Hạ thần tuân chỉ.

         Như thế, trong vòng mấy năm sau, Phù Kiên nhất thống cả phương Bắc, chiếm đến hai phần ba đất nước Trung Nguyên, nước Tấn chỉ còn giữ được một góc rất nhỏ phía Đông Nam để thừa tự tông miếu cho dòng họ Tư Mã kéo dài sự hấp hối thêm vài chục năm nữa thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn