Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
禪 之 花
QUYỂN CHUNG
Dịch giả: Dương Đình Hỷ
1631.- Quét lá vàng.
Mùa
thu tới rồi, lá vàng rụng nhiều. Một chú tiểu phụ trách
quét sân chùa, mỗi sáng đều phải dậy sớm quét lá. Mỗi
sáng chú đều phải quét sân rất lâu mới xong. Chú cho đây
là một việc làm khổ sai, nên thường than thở. Một hôm,
một vị thượng tọa bảo chú :
-Sao
chú không rung cây cho lá rụng, hôm sau khỏi phải quét.
Chú
tiểu vui mừng làm y lời, nghĩ bụng sáng mai được nghỉ
một bữa khỏi phải dậy sớm để quét lá sân chùa.
Ngày
hôm sau trở dậy, chú tiểu lại thấy sân chùa đầy lá vàng.
Lúc đó, lão hòa thượng chạy lại bảo :
-Dù
hôm nay chú dùng sức lay cây, ngày mai lá vẫn cứ rơi.
Chú
tiểu nghe rồi, có chút tỉnh ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Ở đời có nhiều chuyện không thể tính trước được. Chúng ta hãy sống trong hiện tại.
1632.- Kho báu nhà mình.
Đời
Đường, Đại Châu Huệ Hải là một đệ tử nổi danh của
Mã Tổ Đạo Nhất. Một hôm có người hỏi ông :
-Phật
là thế nào ?
-Hãy
nhìn trước mặt, chẳng phải Phật thì là ai ?
Người
đó nhìn ra phía trước, chỉ thấy núi xanh chập chùng nào
thấy Phật ở đâu ? Đại Châu thấy người ấy không hiểu,
bèn kể lại chuyện khi mình đến gập Mã Tổ. Mã Tổ hỏi
:
-Ông
từ đâu đến ?
-Con
từ Việt Châu Đại Vân Tự tới.
-Ông
đến đây làm gì ?
-Con
đến cầu Phật pháp.
-Nơi
đây tôi chả có gì cả, cầu Phật pháp cái gì ? Mình tự
có kho báu không biết trân quý còn ra ngoài tìm kiếm gì nữa
?
-Không
biết cái gì là kho báu nhà con ?
-Chính
là người đứng trước mặt tôi đang hỏi pháp đó. Đó là
kho báu nhà mình, có đủ tất cả không thiếu thứ gì, tự
do xử dụng.
Đại
Châu ngay đó đại ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Lãnh ngộ tự tánh rồi thì biết tự thân mình ẩn tàng vô hạn châu báu. (Xem thêm công án 235)
1633.- Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.
Ngũ
tổ Hoằng Nhẫn trú ở Hoàng Mai Song Phong Sơn tụ chúng giảng
thiền. Đệ tử có hơn 700 người. Nam thiền, bắc thiền đều
là môn hạ. Có ông tăng hỏi :
-Người
tu học sao không ở thành thị mà lánh cư ở sơn cốc ?
-Các
cột trụ chống nhà đại sảnh đều là dùng các cây mọc
ở nơi núi sâu rừng thẳm, chứ không mọc ở nơi thị thành.
Xa loài người tránh được đao kiếm làm tổn thương, do đó
lâu dần mới trở thành đại thụ. Do đấy có thể biết
ở nơi núi sâu rừng thẳm, xa lìa trần thế ưu phiền có
thể tu thân dưỡng tánh, bồi dưỡng đạo tâm khiến đại
thụ khai hoa, thiền lâm kết quả.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Hoằng Nhẫn chỉ ngồi thiền, không viết sách lập thuyết chỉ tùy tiện giảng thiền lý. Chúng ta khi học tập, nên giữ tâm bình thường, từng bước từng bước đạp thật trên đất.
1634.- Sanh và tử.
Có
người hỏi một thiền sư về chuyện sanh tử, thiền sư hỏi
ngược lại :
-Ông
đã chết chưa ?
Người
này ngạc nhiên không trả lời được, thiền sư tiếp :
-Muốn
biết chuyện sanh tử, chỉ có mình tự thể ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Kỳ thực chuyện sanh tử cứ để thuận theo tự nhiên, khi nào nó đến thì đến. Chúng ta nên trân quý hiện tại.
1635.- Hương hoa cúc.
Một
hôm, một thiền sư đi chơi núi mang về một cây hoa cúc. Ông
đem trồng ở sân thiền viện. Ba năm sau, cúc sinh sôi nẩy
nở thành vườn. Tới mùa thu, cả thiền viện đều thơm mùi
hoa cúc. Dân chúng dưới núi đều ngửi thấy mùi thơm này,
do đó lên chùa thưởng ngoạn. Họ không ngừng khen ngợi
:
-Thật
thơm quá !
Họ
năn nỉ thiền sư cho vài cây đem về trồng. Thiền sư vui
vẻ đồng ý. Dòng người xin cây liên tục không dứt. Không
lâu vườn cúc trống không. Các đệ tử nhìn vườn cúc thê
lương than thở :
-Thật
đáng tiếc ! Đang hương vị ngạt ngào thiền viện.
Thiền
sư nghe được bảo :
-Như
vậy càng tốt, 3 năm nữa thì toàn thôn đều ngát mùi hoa
cúc.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Việc tốt phải cùng hưởng với người. Nhìn thấy người hạnh phúc là hạnh phúc nhất của mình.
1636.- Tâm không.
Có
một vị thiền tăng Ấn Độ tu đắc tha tâm thông. Ông đến
thăm thiền sư Tổ Tâm, cầu sư kiểm chứng. Tổ Tâm tưởng
đến một cảnh rồi hỏi :
-Tâm
lão tăng hiện ở đâu ?
-Núi
cao sừng sững. sông nhỏ nước chẩy siết.
Thiền
sư gật đầu, lại chuyển tâm niệm vào thiền cảnh vô ngã
tướng, vô nhân tướng, vô thế gian tướng, vô động tĩnh
tướng rồi hỏi :
-Tâm
lão tăng hiện ở đâu ?
Thần
tăng cố hết sức nhưng không nhìn ra.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Tổ Tâm vào cảnh giới thiền định rồi, tâm không một vật, do đó không có vết tích gì khiến thần tăng có thể nhìn thấy được. (Xem thêm công án 388).
1637.- Chén nước trà phản chiếu cả càn khôn.
Chương
thiền sư, lúc còn là một vân thủy tăng từng đến tham học
Đầu Tử, giữ chức Sài Đầu (coi việc củi nước). Một
hôm gập Đầu Tử. Đầu Tử đưa cho ông một chén trà để
ủy lạo và hỏi :
-Ông
thấy chén trà này thế nào ?
-Bao
la vạn tượng đều nằm trong đây.
-Nếu
hớp một ngụm cạn hết thì sao ?
Chương
thiền sư hắt chén trà đi, hỏi :
-Bao
la vạn tượng giờ ở đâu ?
-Tiếc
thay một chén trà !
-Chỉ
là một chén trà sao ?
-Tuy
chỉ là một chén trà, nhưng bao la vạn tượng đều nằm trong
đó.
Chương
thiền sư không đáp được.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Một chén trà tuy nhỏ nhưng có thể phản chiếu cả càn khôn, tâm tuy vô tướng nhưng bao gồm vạn tượng. (Xem thêm công án 324)
1638.- Dõng khí của người ăn mày.
Có
một lần, một người ăn mày xin tiền một phú ông, lại
còn nói trước là người quen. Phú ông nhìn kỹ thì nhận
ra người ấy là Trương Tam Thiếu lúc trước là con nhà giầu
có. Ông liền hỏi duyên cớ làm sao lại lâm vào cảnh này
? Người ăn mày cho biết vì một trận hỏa hoạn tất cả
nhà cửa, tiền tài đều bị thiêu rụi thành tro. Để có
tiền uống rượu ông đành đi ăn xin, hơn nữa uống rượu
khiến ông ta có dõng khí mà ăn xin. Phú ông nghe rồi thấy
được sự ngu muội của con người. Chúng sanh vì tửu sắc,
tài khí mà bận rộn một đời. Ông bèn đi hỏi Huệ Khả.
Huệ Khả cười cười bảo ông :
-Mặt
trời mọc từ phương Tây chiếu vào cây sẽ không cho bóng.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Đừng lo lắng về tương lai, hãy quý mến hiện tại. Ít đi một chút lo lắng phiền não, nhiều thêm một chút thiện lương và bao dung nhất định cuộc sống sẽ vui vẻ, hạnh phúc.
1639.- Mặc áo, ăn cơm.
Thiền
sư Mục Châu lãnh ngộ thiền học rất sâu, nên có nhiều
người đến tham học. Một hôm, có một người đến hỏi
:
-Mỗi
ngày đều phải mặc áo, ăn cơm, cảm thấy phiền quá, không
biết thầy có cách gì chỉ cho con thoát khỏi phiền não này
không ?
-Mặc
áo, ăn cơm.
Người
này không hiểu, trầm ngâm suy nghĩ. Mục Châu lại bảo :
-Nếu
như ông hãy còn chưa hiểu thì hãy mặc áo, ăn cơm.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Có nhiều người lo chuyện đời, cả ngày bận rộn không có lúc nào rảnh để hưởng thụ những nét đẹp của sinh hoạt trong đời sống. Họ nên quay về bản tâm, đối diện với sinh hoạt thì mặc áo, ăn cơm không còn là phiền não mà là trưởng dưỡng Phật tánh vậy. (Xem thêm công án 1131)
1640.- Phật chính là mình.
Một
ông tăng hỏi Huệ Trung :
-Trâu,
chó có Phật tánh không ?
-Có.
-Tại
sao ?
-Vì
là chúng sanh, chúng sanh đều có Phật tánh.
-Phật
tánh là cái gì ? Có thể thấy, tưởng đến hoặc cảm giác
được không?
-Chỉ
có thể ngộ được.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Phật là một loại trí tuệ Thanh Tịnh soi sáng tất cả mọi hành vi, chỉ có ngộ rồi mới biết được bản nguyên, nơi nơi đều không tịch.
1641.- Cháo đã nguội rồi.
Long
Nha là một thiền sư đọc nhiều sách vở, giỏi lý luận.
Một hôm, một học tăng mới vào thiền viện được 2 ngày,
trong bữa ăn sáng đã vội hỏi thiền sư :
-Con
có vài câu hỏi xin thầy chỉ giáo : thứ nhất linh hồn của
chúng ta có bị hủy diệt không? Thứ hai chúng ta có nhất
định bị luân hồi không ? Thứ 3 nếu bị chuyển thế những
ký ức của kiếp này có giữ được không? Thứ 4 . . .
Ông
tăng còn đang định hỏi nữa thì thiền sư bỗng cắt ngang
:
-Cháo
của ông đã nguội rồi kìa !
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Ngồi mà luận đạo chẳng thà ngồi thiền. Hãy sống trong hiện tại là việc quan trọng nhất. Có một số người không thực tế, cứ sống như người đi trên mây, tất nhiên không thể có thành tựu gì.
1642.- Tạp dịch.
Bạch
Ẩn là một vị thiền sư nổi tiếng một thời. Ông thâu
nhận nhiều đồ đệ và tự mình chỉ dạy họ tham ngộ thiền
đạo. Về già, một hôm đang thu dọn chăn, mùng, một đệ
tử mới nhập môn kinh ngạc hỏi :
-Sao
thầy lại làm những tạp dịch này, để chúng con làm cho.
Ý
ông tăng là thầy hãy để thời gian mà tu hành, những chuyện
vụn vặt này để các đệ tử làm là được rồi. Bạch
Ẩn không vui bảo :
-Nếu
làm tạp dịch không phải là tu hành, vậy Phật tổ sắc thuốc
cho đệ tử gọi là gì ?
Ông
tăng ngay đó tỉnh ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Chỉ cần có lòng, trong sinh hoạt hàng ngày chỗ nào cũng có thể tu.
1643.- Mơ xanh.
Cát
Châu Đam Nguyên Sơn Ứng Sơn là thị giả của Nam Dương Huệ
Trung, một hôm đem một giỏ vào phòng phương trượng. Huệ
Trung hỏi :
-Trong
giỏ có gì vậy ?
-Mơ
xanh.
-Ông
mang mơ xanh đến làm gì ?
-Cúng
dường chư Phật, Bồ Tát.
-Mơ
xanh còn chua lắm, làm sao cúng dường?
-Nói
cúng dường chỉ là để tỏ lòng thành.
-Chư
Phật, Bồ Tát không tiếp thu mơ chua đâu, tôi thấy ông chỉ
tự cúng dường mình thôi.
-Hiện
tại con đã cúng dường : tâm, Phật, chúng sanh không sai biệt
hà tất phải so sánh ? Còn quốc sư thì sao ?
-Tôi
không cúng dường.
-Vì
sao ?
-Tôi
không có mơ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Mơ xanh chỉ tâm chưa thông đạt. Đam Nguyên tâm còn chấp có Phật để cầu, để cúng dường. Tâm không nhiễm trần, cứ tùy theo tự nhiên, không tạo tác đó mới thực sự là cúng dường. (Xem thêm công án 394.)
1644.- Ăn gà trị bệnh.
Lúc
trước có một ông lang chẩn bệnh cho một người mang bệnh
nặng và cho một phương thuốc trị bệnh rất đơn giản là
ăn thịt gà rừng. Bệnh nhân ăn xong một con gà rừng cảm
thấy mình khỏe ra, ông ta không ăn nữa, nghĩ mình đã khỏi
bệnh rồi. Kết quả là bệnh không khỏi.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Trị bệnh cần phải có thời gian, tu hành cũng cần phải trải qua một quá trình tu học, không phải đùng một cái là xong.
1645.- Vẹt học nói.
Hàn
Dũ đến thăm Bảo Thông, hỏi :
-Thầy
bao nhiêu tuổi ?
Bảo
Thông giơ chuỗi hạt lên hỏi :
-Hiểu
không ?
-Dạ
! Không.
-Ngày
đêm 108.
Hàn
Dũ không hiểu, hôm sau lại đến gập thủ tọa bèn đem chuyện
hôm trước ra hỏi. Thủ tọa nghiến răng 3 lần. Khi gập Bảo
Thông, Hàn Dũ nhắc lại câu hỏi. Bảo Thông cũng nghiến răng
3 lần. Hàn Dũ bèn nói :
-Nguyên
lai Phật pháp không hai.
Bảo
Thông hỏi là ý gì ? Hàn Dũ thuật lại chuyện đã hỏi thủ
tọa. Bảo Thông vội gọi thủ tọa lại hỏi :
-Có
phải ông trả lời như vậy không ?
Thủ
tọa cười gật đầu. Bảo Thông liền đuổi thủ tọa ra
khỏi viện.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Khi
có người hỏi Bảo Thông thường nghiến răng để trả lời.
Thủ tọa cũng bắt chước, lại ra vẻ đắc ý. Thiền là
sáng tạo, chỉ bắt chước như vẹt là làm mất đi sanh mạng
của Thiền.
(Xem
thêm công án 1139)
1646.- Ý chí kiên cường.
Một
ông tăng hỏi thiền sư Trí Thông :
-Làm
sao để thành Phật ?
-Ông
vân du khắp nơi đã tìm ra chỗ an thân chưa ? Nếu chưa thì
có đi mòn dép cỏ cũng vô ích.
-Làm
sao mới thành Phật?
Trí
Thông cười ha hả :
-Người
có ý chí kiên định, dép cỏ rách thì đi chân không. Tâm
còn bị phiền não trói buộc, sao có thể nói chuyện an thân,
lập mạng ?
Ông
tăng nhìn dép cỏ, hoảng nhiên đại ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Trong quá trình tu tập, phải có ý chí kiên cường mới có thể đối diện với nghịch cảnh và tìm ra phương thức giải quyết.
1647.- Hoàn tục.
Một
ông tăng không chịu được sự cô tịch bèn hoàn tục; nhưng
một tháng sau ông lại trở lại vì không chịu được người
đời nói nhiều quá. Ít lâu sau ông lại xuống núi, rồi lại
trở lại. Cứ thế 3 lần rồi. Một vị lão tăng bảo ông
:
-Chẳng
phải khoác áo cà sa mới là tin Phật. Ông hãy xuống chân
núi mở một quán trà coi sao !
Ông
tăng nghe lời xuống núi mở quán trà, sau đó cưới vợ, từ
đó cuộc sống được ổn định.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Một người đi nửa đường chỉ làm được chuyện nửa đường. Chúng ta phải xét xem mình đang ở đâu rồi đặt ra mục tiêu để hoàn thành thì đời sống mới có ý nghĩa.
1648.- Phương trượng và ăn mày.
Một
hôm có một gã ăn mày cụt một tay đến chùa xin tiền Phương
trượng. Phương trượng bảo gã bê khối đá ở trước cửa
chùa ra sau vườn thì sẽ cho gã tiền. Gã ăn mày nổi giận
:
-Tôi
chỉ có một tay làm sao bê đá ?
Phương
trượng không nói một lời, chỉ dùng một tay bê tảng đá
ra sau vườn. Gã ăn mày thấy vậy chỉ đành dùng một tay
bê đá, mất cả tiếng đồng hồ mới làm xong. Phương trượng
cấp cho gã một món tiền. Gã nhận tiền khom lưng cảm tạ.
-Đừng
cám ơn tôi đó là tiền ông kiếm được.
-Con
sẽ ghi nhớ lời này.
Một
thời gian sau, lại có một gã ăn mày khác đến xin tiền.
Phương trượng lại bảo gã bê tảng đá từ vườn sau ra
trước cổng chùa thì sẽ cho gã tiền. Gã ăn mày này mặc
dù có đủ 2 tay khỏe mạnh, nhưng gã chẳng làm, bỏ đi không
thèm ngoảnh cổ lại. Đại chúng không hiểu ý thiền sư di
chuyển đá để làm gì bèn hỏi. Phương trượng bảo :
-Bê
đá tới hay lui thì giống nhau, nhưng chịu bê hay không thì
khác.
Nhiều
năm trôi qua, có một người giầu có đến chùa cúng tiền
nhang đèn rất nhiều, khí độ bất phàm nhưng chỉ có một
tay. Ông chính là gã ăn mày năm xưa vậy.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Phẩm cách của một con người gồm 2 điểm cơ bản : thứ nhất phải tự mình lao động, thứ nhì phải tự mình suy tưởng. Trong đời sống cạnh tranh ngày nay, con người phải dựa vào não lực và thể lực mới có thể đạt được hạnh phúc.
1649.- Ý nghĩa của mạng sống.
Một
vị thượng thơ đến bái kiến Tào Sơn để hỏi về bản
tánh. Đối với câu hỏi khó trả lời này, thiền sư im lặng
cúi đầu ngẫm nghĩ. Ông chợt nhớ một chuyện ông có gập
ở trên đường : một thiếu phụ đang mang thai, quần áo có
nhiều mảnh vá, lưng đeo một cái gùi, tay dắt một bé gái.
Bà ta tay lấm, chân bùn, đời sống rõ là lam lũ, nhưng mặt
bà thì tươi rói. Thì ra bà ta đã hiểu mình muốn gì. Thiền
sư hoảng nhiên đại ngộ, bèn cất tiếng gọi :
-Thượng
thơ !
-Dạ
!
-Điều
cốt yếu là chính mình phải giác ngộ.
Thượng
thơ nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Đối với ý nghĩa của đời người không rõ, dùng phương pháp sai lầm mà sinh hoạt thì trong sinh hoạt chỉ làm mọi cho sinh mạng, thật đáng thương !
1650.- Cây nến tắt.
Một
đệ tử hỏi Đức Phật :
-Phật
chết rồi về đâu ?
Đức
Phật giơ một cây nến đang cháy lên, một đệ tử khác sợ
nến bị gió thổi tắt bèn lấy tay che.
-Lúc
tắt thì tự nhiên sẽ tắt, lấy tay che có ích gì ? Tử vong
cũng vậy. Đó là luật tự nhiên.
Một
cơn gió thổi qua, cây nến bị thổi tắt ngóm.
-Nến
tắt rồi, ánh sáng đi về đâu ? Cả 2 đều là một loại
tiêu diệt. Ánh sáng tắt, cây nến còn vì nó là chính thể,
Phật cũng vậy.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Sanh rồi tử, tử rồi lại sanh. Đây là một quy luật tự nhiên. Chỉ cần lúc còn sanh có được thành tựu đó là điều trọng yếu.
1651.- Không thấy Long Đàm.
Đức
Sơn đến tham Long Đàm, vừa vào cửa đã nói :
-Nghe
tiếng Long Đàm đã lâu, nào ngờ khi tới nơi chẳng thấy
Long cũng chẳng thấy Đàm ở đâu !
Long
Đàm từ sau bình phong bước ra :
-Ông
đã tự mình tới Long Đàm.
(Phật
Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)
Đây chính là lời tiếp dẫn của Long Đàm. Vì sao ? Vì kinh Kim Cương có nói : Nếu thấy các tướng là phi tướng thì thấy Như Lai. Giả như thấy Long, thấy Đàm là chấp tướng. Nếu không thấy Long, không thấy Đàm là lìa tướng mà thấy bản tánh vậy.
1652.- Gia đình Bàng Uẩn luận Đạo.
Một
hôm Bàng Uẩn bỗng nói :
-Khó,
khó, khó, mười tạ dầu mè trên cây vuốt.
Ý
là học Phật, tu đạo rất khó, tương tự như đem dầu mè
mà vuốt lên cây cột có được không? Cứ vuốt dầu lại
chẩy xuống. Tại sao khó ? Vì người tu trải qua nhiều kiếp
có tập quán chấp tướng, gập thuận cảnh thì cười ha hả,
gập nghịch cảnh thì ưu sầu, khổ não. Kỳ thật các cảnh
đó đều là giả, là không cả. Người đời không biết
cho đó là thật, giữ chặt không buông, do đó nói học đạo
thật là khó. Thực ra có khó không ? Không khó. Tại sao ? Vì
chúng ta vốn là Phật, không phải là biến phàm phu thành Phật.
Chỉ cần chúng ta đừng bị mê bởi cái giả của ngoại cảnh,
tâm thường giác thì là Phật vậy. Do đó Lục tổ nói :
-Niệm
trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật.
Bàng
phu nhân nói :
-Dễ,
dễ, dễ, trên đầu trăm cỏ ý tổ sư.
Ý
là học Phật tu đạo dễ, trong cả mọi sự việc, lìa mọi
sự việc, lúc đó còn có cái gì ? Tâm không là ý tổ sư
vậy. Đó cũng là ý của kinh Kim Cương : Nếu thấy mọi tướng
là không tướng thì thấy Như Lai. Nếu lìa tất cả mọi tướng
thì sự sự, vật vật đều là đại đạo, còn có gì là
khó chứ ? Cho nên muốn học Phật, thành Đạo không khó, đừng
sợ vì chúng ta vốn là Phật. Chỉ cần buông bỏ tất cả
xuống, cái tâm niệm thanh tịnh ấy không phải là Phật thì
là cái gì ?
Nhưng
Bàng cư sĩ và phu nhân một người nói khó, một người nói
dễ là còn chấp, chưa phải là cứu cánh; vì chân trí thì
một pháp chẳng lập. Nói khó không đúng, nói dễ cũng không
đúng. Do đó con gái của 2 người là Linh Chiếu nói :
-Cũng
chẳng dễ, cũng chẳng khó; đói thì ăn, mệt thì ngủ.
Là
quét đi vết tích của khó và dễ, quét đi mọi chấp trước
đói ăn, mệt ngủ tự do, tự tại; an nhiên thọ dụng. Do
đó mới chính là Thiên chân Phật. (Xin xem thêm công án 279)
(Phật
Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)
1653.- Biết sai thì sửa.
Đời
Tấn, hòa thượng Pháp Ngộ là đệ tử của Đạo An, là trụ
trì Trường Sa Tự. Trong chùa có một ông tăng vì say rượu,
quên thắp hương trên bàn thờ Phật nhưng Pháp Ngộ cũng chỉ
phạt nhẹ. Đạo An tuy ở xa nhưng nghe biết chuyện này, lấy
một roi gai cho vào ống tre bọc lại, sai người đến đem
trao cho Pháp Ngộ. Pháp Ngộ nhận được, mở ra thấy roi gai
bèn nói :
-Đây
là chuyện ông tăng uống rượu đây ! Do tôi dạy đệ tử
không nghiêm mà nên. Thầy tôi gửi roi để cảnh cáo đấy
!
Nói
rồi sai thị giả đánh mõ chiêu tập đại chúng. Đặt roi
gai trên bàn thờ, Pháp Ngộ thắp hương lạy rồi tới trước
đại chúng nằm xuống, sai Duy Na đánh mình 3 roi. Sau đó rơi
lệ tự trách, rồi đuổi ông tăng say rượu ra khỏi thiền
viện.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Chuyện này được loan truyền và được mọi người khen ngợi. Pháp Ngộ là một vị thiền sư biết sai liền sửa.
1654.- Phóng sanh.
Có
một bà lão định mang một giỏ ốc đổ xuống ao phóng sanh,
một gã hung ác cướp lấy giỏ ốc, hét lên :
-Bà
già nghèo khổ kia, bà biết đây là đâu không mà đòi phóng
sanh ?
-Ngừng
tay !
Mọi
người trố mắt nhìn thì thấy một hòa thượng áo rách,
tay phe phẩy một cái quạt xông tới. Đó chẳng phải là ai
khác, chính là Tế Điên hòa thượng.
-Chúng
sanh bình đẳng, phóng sanh là một chuyện lành ngươi sao dám
ngăn trở bà lão ?
-Tế
Điên ! Đây không phải là chuyện của ngươi, đừng có xía
vô nếu không đừng có trách ta.
Gã
hung ác vừa hét vừa giơ nắm đấm lên. Tế Điên cười ha
hả :
-Trên
đường gập chuyện bất bình, ta dĩ nhiên là phải nhúng tay.
Nói
rồi Tế Điên đoạt lại giỏ ốc, chạy xuống đổ vào ao
phóng sanh.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Phóng sanh là một hành động thực tế và trọng yếu của Phật giáo, lấy lòng từ bi mà giúp đỡ khổ nạn của chúng sanh.
1655.- Người câm nằm mộng chỉ mình biết thôi.
Một người câm nằm mộng, không có cách chi bảo cho người khác biết những gì mình thấy trong mộng. Câu này dùng để ví dụ cho sự thể nghiệm thực cảnh mà không thể dùng lời nói mà diễn tả ra được. Thiền giới cũng dùng các câu : Người câm ăn mướp đắng, nóng lạnh tự mình biết. Trong thơ của Hàn Sơn Tử cũng có câu :
Vui
sướng chỉ một mình hay
Chẳng
thể chia sẻ chuyện này với ai.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
1656.- Đừng giương cung người.
Ngũ
Tổ Pháp Diễn nói :
Thích
Ca, Di Lặc đều là nô tài của người ấy.
Người
ấy là ai ?
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Người
ấy chỉ tự tánh. Một người chân chánh làm chủ được
mình thì không cần ăn trộm trí tuệ và học vấn của người
về làm của mình; cũng bất tất phải đi sau người mà phụ
họa. Từ tâm cảnh ta người chẳng hai mà xét thì lỗi người
tức lỗi mình, cho nên không thể nói xấu người. Nói tóm
lại “chuyện người mặc kệ”, ta có đếm tài sản của
người cũng là vô dụng chẳng bằng tự giác vô vị chân
nhân, thì ở mọi nơi đều làm chủ, rộng bước ngang dọc
trong thiên hạ. Đó mới là thiền giả chân chánh.
(Xem
thêm công án 207)
1657.- Ném cầu trên nước chẩy nhanh.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con
nít vừa sanh có đủ lục thức không ?
-Giống
như ném cầu trên nước chẩy nhanh.
Về
sau ông tăng đó lại đến hỏi Đầu Tử :
-Triệu
Châu nói ném cầu trên nước chẩy nhanh là có ý gì ?
-Từng
niệm, từng niệm trôi chẩy không ngừng.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Mặt nước yên lặng nhưng bên dưới là dòng nước ngầm chẩy nhanh. Ném quả bóng xuống sẽ bị nước cuốn trôi đi. Đó gọi là động trong tĩnh. Con người ta cũng vậy, người đạt đạo bề ngoài coi như ngu si, là mặt nước yên lặng, nhưng kỳ thực là dòng nước chẩy nhanh. Đó gọi là người giác ngộ giống như chưa ngộ. Câu nói của Đầu Tử có nghĩa là niệm trước là niệm trước, niệm sau là niệm sau. Mọi lúc đều là chánh niệm, là liên tục của phi liên tục. (Xem thêm công án 161)
1658.- Đây chẳng phải là lửa sao?
Hòa
thượng Quy Sơn (771-853) lúc còn trẻ, một tối đứng hầu
trong liêu, sư phụ Bách Trượng hỏi :
-Ai?
-Là
con, Linh Hựu.
-Ông
nhìn xem trong lò còn lửa không ?
-Không
còn lửa.
Bách
Trượng tự lấy que cời lửa, chọc sâu vào đám tro, tìm
thấy một tinh hỏa bèn chỉ cho Quy Sơn coi và bảo :
-Đây
chẳng phải là lửa sao ?
Quy
Sơn ngay đó tỉnh ngộ, lạy tạ rồi trình kiến giải. Bách
Trượng bảo ông :
-Kinh
Phật cũng có nói : Muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán
thời tiết, nhân duyên.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Thời tiết đến, đang mê biến thành ngộ; như đã quên mà chợt nhớ ra tự tánh mình vốn có sẵn, không phải nhận từ ai khác. Chư tổ chả đã nói rồi sao : “Ngộ rồi như chưa ngộ” Nếu đã vô tâm thì sẽ vô pháp, không còn tâm hư vọng phân biệt phàm thánh thì đó là tâm pháp, mọi người đều có đầy đủ nên gìn giữ cho tốt. (Xin xem thêm công án 1062)
1659.- Một mũi tên.
Hòa
thượng Hưng Hóa (830-888) lúc sắp mất bảo đại chúng :
-Tôi
có một mũi tên, không biết nên trao cho ai ?
Một
ông tăng bước ra thưa :
-Xin
trao cho con.
-Thế
ông gọi cái gì là mũi tên ?
Ông
tăng này học phương pháp của Lâm Tế hét lên một tiếng
lớn, Hưng Hóa nện cho ông 5, 6 gậy rồi trở về phòng phương
trượng. Sau đó kêu ông tăng đó vào hỏi :
-Chuyện
vừa rồi ông có hiểu không ?
-Dạ,
không hiểu.
Thiền
sư lại nện ông 5, 6 gậy nữa, rồi ném gậy đi.
-Từ
giờ trở đi, nếu gập người sáng mắt ông hãy trỏ cho họ
mũi tên của tôi.
Bất
Cố Am Hòa Sơn (1837-1917) có một công án như sau :
Ai
cũng có một mũi tên, lúc thì là tên giết người (phủ định)
lúc thì là tên cứu người (khẳng định). Hãy nói coi lão
nạp thường dùng mũi tên nào ?
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Chỉ cần thâm hiểu “dùng mũi tên nào” là có thể ngộ được hàm ý trong câu nói sau cùng của Hưng Hóa. (Xem thêm công án 471).
1660.- Tham ngộ sanh tử.
Bàn
Khuê, một thiền sư Nhật Bản, thuộc dòng thiền Lâm Tế,
là người sáng tạo ra Tâm Bất sinh Thiền. Năm 16 tuổi ông
xuất gia, đến năm 26 ông vẫn chưa khai ngộ. Cũng trong năm
26 tuổi vì tọa thiền ông bị bệnh, 7 ngày rồi mà cũng không
ăn gì, cảm thấy cái chết đã gần kề. Bất giác ông suy
nghĩ : Sống cũng tốt, chết cũng chẳng sao, mình cũng chẳng
có gì để lưu luyến, chỉ là chưa có thành tựu gì đã lìa
đời.Nghĩ tới nghĩ lui không dứt. Một hôm bỗng chuyển niệm
đầu vạn vật trong thế giới này há chẳng thể dùng “bất
sinh” để điều tiết sao ? Ta đã bao năm hao phí tâm
lực khổ sở tìm tòi chẳng là ở đạo lý này sao ? Ông bỗng
nhiên khai ngộ, như người chợt tỉnh ngủ, trong lòng không
còn thấy khổ nữa. Ông sống đến 71 tuổi. Đối với thiền
học Nhật bản, cống hiến của ông rất lớn.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Tử vong là khảo nghiệm lớn nhất của con người. Bàn Khuê khi đối diện với tử vong mới đạt ngộ. Thiền rất trọng vấn đề sanh tử giải thoát, hy vọng thiền sinh từ sanh tử nhận rõ thật tướng của sinh mạng, trừ bỏ tâm lý sợ hãi khi đối diện với cái chết.
1661.- Là trâu hay là tăng.
Một
hôm, Quy Sơn bảo đại chúng :
-Một
trăm năm sau, lão tăng xuống núi làm một con trâu đực, tại
sườn bên trái có viết 5 chữ “Quy Sơn tăng mỗ giáp”.
Lúc đó nếu kêu ta là Quy Sơn Tăng thì ta không phải là con
trâu đực, nếu kêu ta là con trâu đực thì ta không phải
là Quy Sơn Tăng. Vậy ta hỏi các ngươi phải kêu ta làm sao
?
(Phật
Pháp Tu Chứng Tâm yếu)
Nếu
tâm ông không được tĩnh, chấp vào trâu hay tăng mà kiến
giải thì không có lối ra. Trâu hay tăng nhất thời chỉ là
giả danh, giả tướng. Từ chân tánh mà nói thì làm gì có
tăng hay trâu. Lúc đó trong pháp hội không có ai đáp được.
Về sau có một vị lão túc đáp được rất hay :
-Thầy
không có tên khác !
Câu
nói không đề cập đến tên mà cũng không lìa tên, đã nói
bản lai không tên, lại tùy ý mà gọi tên. Vì không chấp
vào tăng hay trâu, cũng không lìa tăng hay trâu, do đó vượt
ra ngoài danh tướng. (Xem thêm công án 1005)
1662.- Bảo kiếm.
Có
người hỏi thiền sư Huệ Minh :
-Bảo
kiếm chưa mài thì sao ?
-Vô
dụng.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Bảo kiếm chưa mài dĩ nhiên là không thể xử dụng. Người tu nếu tập khí còn chưa loại trừ thì không thể khởi dụng.
1663.-Rồng kêu trong cây khô.
Sư
phụ của Lợi Hưu là Thiệu Âu (1504-1555) để diễn tả tâm
cảnh của sá trà (một phương thức của trà đạo) đặc
biệt dẫn Định Gia Thi trong Tân Cổ Kim Tập : “Nhìn về
quá khứ, hoa không còn, hồng diệp cũng mất tiêu, chỉ còn
lại căn nhà nhỏ bên bờ sông,trong buổi chiều thu.”
Đây
nói về những đóa hoa đẹp đẽ của mùa xuân và những lá
vàng rực rỡ của mùa thu đã không thấy nữa. Những làn
gió vi vu nơi hoang vắng có thể hình dung được sự cảm ngộ
của trà đạo và tịch tĩnh chăng ?
Nam
Phương Lục đưa ra lời bình như sau :
“Nếu
không hiểu ý hoa và hồng diệp thì càng sống lâu trong căn
nhà nhỏ càng cảm thấy quá vắng lặng.”
Đây
là một cái nhìn đặc biệt, nhưng Lợi Hưu lại dẫn Gia Long
Thi trong Nhậm Nhân tập :
“Hy
vọng chẳng những chỉ chờ xem hoa thôi mà còn có thể xem
thấy ở nơi làng nhỏ phủ đầy tuyết những nụ non đã
bắt đầu ló dạng.”
Trong
cảnh cùng cực đã thấy phát sinh sức sống cũng giống như
trong lòng cây khô rỗng gió lùa qua tạo nên tiếng rồng gầm.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Trong thiền định (tĩnh) chuyển thành trí tuệ (động). Đó là thiền, sanh mạng của trà. (Xem thêm công án 823)
1664.- Trà, Thiền một vị.
Một
hôm, Giáp Sơn hòa thượng (805-881) thưởng trà xong bèn rót
một chén đưa cho thị giả. Khi thị giả giơ tay ra nhận,
hòa thượng rụt tay lại, hỏi :
-Cái
này là cái gì ?
Thị
giả không trả lời được, lúc đó nếu là ông, ông sẽ
trả lời sao ? Từ xưa đến nay, người ta thường nói trà,
thiền một vị. Lợi Hưu nói :
-Thưởng
trà ở phòng nhỏ, lấy xách nước, kiếm củi, đun nước,
pha trà cúng Phật làm Phật pháp đệ nhất để tu hành đắc
đạo. Tôi cũng uống trà, bầy hoa, dâng hương, đều học
theo hành tích của Phật tổ vậy.
Có
một vị hòa thượng nhờ một chú tiểu trao một cành Bạch
Sơn Trà cho cháu của Lợi Hưu là Tông Đản (1578-1658). Chẳng
ngờ chú tiểu không cẩn thận để hoa trên cành đều rụng
cả xuống đất, nhưng chú cũng thật tình kể rõ và xin lỗi
Tông Đản. Tông Đản nhờ chú chuyển lời mời hòa thượng
đến thưởng trà. Khi hòa thượng tới nơi thì thấy trong
bình có cắm một cành khô, còn dưới đất là một đóa hoa
trắng do các cánh hoa rụng xếp lại. Hòa thượng thấy cảnh
tượng rất tự nhiên, tưởng như hoa còn sinh động trên cành.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Tông Đản đã học tập hành tích của Phật tổ, đã có thiền tâm vậy.
1665.- Vốn là Phật.
Có
một ông tăng hỏi Hi Vận :
-Phật
là ai ?
-Tâm
ông là Phật. Phật là tâm; tâm, Phật không sai biệt; nếu
lìa tâm thì không có Phật.
-Nếu
nói tâm mình là Phật, vậy Đạt Ma từ Tây sang truyền gì
?
-Chỉ
cho biết tâm là Phật, nếu hiểu được ý này thì vượt
qua 3 thừa giáo pháp, mình vốn là Phật, không cần phải tu
thành.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Phật và tâm là một thể. Phật là tâm, tâm là Phật, không có sai biệt. Cái tâm này là tự tánh, là tự ngã của mỗi người. Đó cũng là yêu cầu chúng ta coi trọng nội tâm.
1666.- Cư sĩ và cao tăng.
Một
vị cư sĩ trẻ đến thăm một vị cao tăng. Hai người nói
chuyện tâm đầu ý hợp từ sáng đến trưa. Đến bữa trưa,
một chú tiểu bưng lên cơm chay gồm một bát lớn và một
bát nhỏ. Vị cao tăng đẩy bát lớn đến trước mặt cư
sĩ mời ông ăn. Cư sĩ không từ chối ăn liền. Cao tăng rất
bất mãn, tự hỏi sao lại có người không hiểu lễ nghi gì
cả, do đó không đụng tới đũa. Cư sĩ ăn xong, ngửng đầu
lên thấy cao tăng mặt đầy sắc giận, bèn hỏi :
-Sao
thầy không ăn ?
Cao
tăng yên lặng, cư sĩ cười nói :
-Thật
không phải, quên cả mời sư phụ. Mời sư phụ dùng bữa.
Đợi
cao tăng ăn xong rồi, cư sĩ bảo :
-Ăn
cơm là ăn cơm, ai ăn cũng là ăn, hà tất phải mời mọc,
ông mời, tôi nhường trừ phi là thầy không thật lòng mời
tôi ăn bát lớn.
Cao
tăng nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Làm người quý ở chỗ thành thật, đừng quá câu nệ ở lễ nghi, khách khí.
1667.- Châu ở đâu ?
Một
hôm Giác Năng hướng Nguyên Trưng thỉnh giáo Phật pháp :
-Trong
quá trình tu tập tâm giác tri và tâm vọng tưởng như 2 rồng
tranh châu, không biết con nào được ?
Nguyên
Trưng nghe rồi không vui, bảo Giác Năng phải tự mình trừ
bỏ vọng tưởng và tập khí tự nhiên sẽ biết con nào được
châu. Nhưng Giác Năng cảm thấy mình đã trừ được vọng
tâm và tập khí rồi nên càng thấy khó hiểu. Nguyên Trưng
biết vậy nên hỏi lại :
-Nếu
ông đã trừ được vọng tâm rồi sao lại không biết châu
ở đâu ?
Giác
Năng không trả lời được.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Là
thiền giả, trong quá trình tu tập phải trừ bỏ vọng tâm
và tập khí, gìn giữ cái tâm bình thường thì có thể tu
thành chánh quả.
(Xem
thêm công án 36)
1668.- Pháp bình đẳng.
Huệ
Trung khi còn là đứa trẻ mười mấy tuổi, một hôm xin Lục
tổ cho xuất gia :
-Xin
thiền sư mở lòng từ bi thâu con làm đệ tử.
-Trong
thiền tông con cháu Ngân Luân Vương, Kim Luân Vương mới xứng
kế thừa pháp tử. ngươi chỉ là một thằng nhỏ chăn trâu
ở nơi thôn dã sao có thể vào tông môn ?
-Thiền
sư, vạn vật bình đẳng không có cao thấp, sao thầy có thể
dùng lý do này làm trở ngại tâm con hướng thiện? Xin thầy
từ bi thâu nhận con.
Huệ
Trung tuy chưa quy y lại ở trong hoàn cảnh nghèo khổ nhưng
dưỡng dục được đức tánh và có ngộ tánh cao được Lục
tổ thâu nhận. về sau ông được các vua Huyền Tông, Trang
Tông, Đại Tông tôn làm quốc sư.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Người có Nam Bắc, nhưng Phật tánh phổ chiếu thiên nam, địa bắc. Mọi người đều có Phật tánh, đều có khả năng tham ngộ và có cơ hội thành Phật.
1669.- Còn giận không ?
Có
một phụ nữ tính tình cổ quái, hơi một chút là nổi giận.
Bà ta cũng biết đây là tánh xấu, nhưng không tự kềm chế
được. Do lời khuyên của bạn bè, bà ta tìm đến một vị
cao tăng nhờ giúp đỡ. Gập mặt xong bà ta kể cho hòa thượng
nghe và mong hòa thượng chỉ thị. Hòa thượng không nói một
lời dẫn bà ta vào một thiền phòng rồi khóa lại, bỏ đi.
Bà ta bỗng nhiên bị nhốt trong phòng vừa tối, vừa lạnh,
hòa thượng cũng không nói cho bà ta một lời gì. Càng nghĩ
càng giận, bà ta kêu gọi, mắng chửi, rồi van xin nhưng hòa
thượng vẫn mặc kệ. Rất lâu sau đó, hòa thượng đứng
ngoài cửa hỏi :
-Còn
giận không ?
-Tôi
chỉ giận mình tự nhiên nghe lời người ta mà đến đây.
-Chính
mình còn không tha thứ cho mình, thì làm sao tha thứ cho người
được ?
Hòa
thượng bỏ đi, một lát sau trở lại hỏi :
-Còn
giận không ?
-Không
còn giận nữa.
-Tại
sao ?
-Dù
tôi có giận hay không cũng bị hòa thượng nhốt ở đây vừa
tối, vừa lạnh.
-Thế
lại còn tệ hơn vì bà cố nén giận, nên khi phát tác ra nó
lại còn mãnh liệt hơn nữa.
Hòa
thượng lại bỏ đi. Một lát sau trở lại hỏi :
-Còn
giận không ?
-Không
giận nữa.
-Tại
sao ?
-Vì
tôi không để hòa thượng làm tôi nổi giận vì hòa thượng.
-Bà
còn chưa thoát ra khỏi cái giận.
Hòa
thượng lại bỏ đi. Một lát sau bà ta tự động hỏi hòa
thượng :
-Giận
thật ra là cái gì ?
Hòa
thượng không nói, dường như vô ý để chén trà trong tay
rơi xuống đất. Bà ta bỗng nhiên tỉnh ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền )
Nếu tâm thông suốt không một vật, giận từ đâu lại ? Tâm có dục vọng giận liền sanh. Con người vì có nhiều dục vọng nên suốt ngày bị phiền não lôi cuốn. Nếu chúng ta có thể lãnh đạm với mọi sự việc thì tâm tự nhiên thanh tịnh.
1670.- Tham thiền là chuyện của bậc đại trượng phu.
Tịch
Thất Nguyên Quang (1290-1367) có một bài thơ nói “Tham thiền
là chuyện của bậc đại trượng phu, thân và tâm sắt đánh
thành một phiến, các ông hãy nhìn mà coi chư Phật, Tổ lúc
trước có ai phí thì giờ cho vọng tưởng?”
Trong
Bích Nham Lục cũng có câu :
-Muốn
chấn hưng thiền thì phải là bậc hào kiệt.
Tây
Điền Thốn Tâm (Cơ Đa Lang) có nói :
-Nếu
các ông có dõng khí mổ bụng thì mới nên nghiên cứu thiền.
Một
vị thiền sư ứng dụng câu nói này bảo :
-Đối
với các nữ thiền sinh tôi hỏi : “Các cô có dám cởi truồng
trước mặt tôi không?”
Trong
thực tế, ông ta cũng chỉ dám nhìn đến đầu gối của các
cô mà thôi !
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
1671.- Sinh hoạt chân thật.
Biện
thủ tọa, người đời Tống, trú ở Thê Hiền Tự, Lư Sơn,
tánh tục không rõ, tinh thông Phật pháp, sử sự thích nghi
nên được suy cử là thủ tọa.
Biện
thủ tọa thường mặc áo vá, chân mang dép cỏ rách, chống
một gậy trúc. Một lần qua Cửu Giang Đông Lâm Tự gập Hỗn
Dung hòa thượng. Hỗn Dung trách :
-Ông
làm thủ tọa đáng nhẽ phải làm gương cho đại chúng mới
phải. Nay ông ăn mặc như vậy chả là tự khinh thị chính
mình sao ? Làm mất cả thể thống !
Biện
thủ tọa cười :
-Con
người ta chỉ cần hợp ý là vui. Tôi sai ở chỗ nào ?
Bèn
lấy bút viết một bài kệ :
勿
謂 棲 賢 窮
Vật
vị thê hiền cùng
身
窮 道 不 窮
Thân
cùng đạo bất cùng
草
鞋 行 似 虎
Thảo
oa hành tự hổ
拄
杖 活 如 龍
Trú
trượng hoạt như long
渴
飲 曹 溪 水
Khát
ẩm Tào Khê thủy
飢
吞 栗 棘 蓬
Cơ
thôn lật cức bồng
銅
頭 鐵 額 漢
Đồng
đầu thiết ngạch hán
盡
在 我 山 中
Tận
tại ngã sơn trung.
Chớ bảo Thê Hiền cùng
Thân cùng đạo chẳng cùng
Dép cỏ đi như hổ
Chống gậy tựa như rồng
Khát uống nước Tào Khê
Đói cỏ bồng hạt giẻ
Đầu đồng, cổ sắt hề
Đều trong núi này cả.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)
Hỗn Dung đọc xong bài kệ mắc cỡ, cảm thấy trình độ mình còn kém Biện thủ tọa rất xa.
1672.- Dị Kiến Vương và Ba La Đề tôn giả.
Dị
Kiến Vương hỏi Ba La Đề tôn giả :
-Phật
là thế nào ?
-Kiến
tánh là Phật.
-Thầy
có kiến tánh không ?
-Bần
tăng kiến Phật tánh.
-Tánh
ở đâu ?
-Tánh
tại tác dụng.
-Tác
dụng là thế nào ? Sao trẫm không thấy.
-Tác
dụng rành rành, vương tự không thấy.
-Trẫm
có thật sao ?
-Nếu
vương tác dụng, không gì không phải. Nếu vương không tác
dụng thì khó thấy Thể.
-Khi
tác dụng Thể hiện ra ở đâu ?
-Nếu
xuất hiện thì ở người đó.
-Xin
nói rõ hơn.
-Ở
thai gọi là thân, ở đời gọi là người. Ở mắt là thấy,
ở tai là nghe, ở mũi là ngửi, ở lưỡi là đàm luận, ở
tay là nắm giữ, ở chân là đi lại, ở khắp pháp giới,
thâu lại thành một hạt vi trần. Người biết gọi là Phật
tánh, người không biết gọi là linh hồn.
Vương
nghe rồi khai ngộ.
(Phật
Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)
Tánh không thể dùng mắt thấy, tai nghe, trí để biết, thức để thức, nhưng có thể dùng Tuệ để quán chiếu, có thể lãnh ngộ. Cổ đức nói rằng Thể không hình tướng, nếu không có dụng thì không hiển lộ. Tánh không trạng mạo không tâm thì không minh. Khởi dụng chính là hiển thể, minh tâm thì mới kiến tánh. Đó là nói muốn kiến tánh thì phải bắt tay vào minh tâm. Nếu lìa tâm thì không có tánh nào để kiến vì thể của tánh là vô hình. Tâm là dụng, dụng không tướng thì không hiển lộ. Từ dụng của cái tâm hữu tướng có thể thấy Thể vô tướng của Tánh. Con người ta từ tư tưởng, sáng tạo, phát minh, công tác cho đến văn minh của thế giới ngày nay đều là tác dụng của tâm.
1673.- Vén mành.
Tại
Thanh Lương Viện trước buổi thọ trai, Pháp Nhãn chỉ vào
bức mành. Lúc đó có hai ông tăng ở đấy, cùng đến vén
mành lên. Pháp Nhãn nói :
-Một
được, một mất.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Cùng
làm một việc, một người được chấp nhận (tốt), một
người lại bị phủ nhận (không tốt). Cùng làm một việc
nhưng trước khi ngộ và sau khi ngộ có sai biệt về cảnh
giới và đạo lực. Nếu chỉ xét công án này dưới phương
diện được mất, thắng bại thì không thể hiểu được
kiến giải của thiền giả. Phải chặt đứt mọi giây sắn
bìm (những phán đoán thị phi vô ý nghĩa) thì lập tức biến
thành người có pháp nhãn. Hãy nhìn tay của thiền sư sẽ
thấy quyền xác định hay phủ định đều trong tay ông.
(Xem
thêm công án 202)
1674.- Ngồi lâu sanh mệt.
Có
ông tăng hỏi Hương Nghiêm :
-Ý
tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Ngồi
lâu sanh mệt.
(Lưỡng
Nhẫn Tương Giao)
Đạt
Ma tổ sư từ Tây sang là một đại nhân duyên. Do đó các
thiền sư thích lấy “Ý tổ sư từ Tây sang” làm cơ phong.
Các câu trả lời đặc sắc đã trở thành những công án
trứ danh, trong đó câu trả lời của Hương Nghiêm là một.
Đạt Ma tổ sư tới núi Thiếu Thất quay mặt vào vách mà
ngồi thiền 9 năm, đã được người đương thời gọi là
Bích Quán Bà La Môn. Câu trả lời của Hương Nghiêm là phủ
định cái “ngồi” của Đạt Ma, ông hỏi Tổ, tôi đã vượt
lên Tổ. Nhiều người khi luận về công án này không nhìn
thấy khía cạnh này chỉ chú trọng đến chữ ngồi, ngồi
lâu sanh mệt là chỉ cho chúng ta ngộ đạo và ngồi thiền
là 2 chuyện khác nhau. Loại khế nhập này không thể bảo
là sai. Vấn đề là lãnh hội “ngồi lâu sanh mệt” ở 2
chữ ngồi lâu. Nói cách khác là nếu không ngồi thì vô pháp
nhập tọa cũng là sau khi ngồi lâu rồi sẽ bỏ được hình
thức. Câu này cũng giống như câu nói của Thanh Nguyên Duy
Chính “Khi chưa tham thiền thấy núi là núi, sông là sông.
Khi có chỗ vào rồi thì thấy núi vẫn chỉ là núi, sông vẫn
chỉ là sông.” Nếu không thể hội ngồi lâu sanh mệt thì
không thể chân chính bỏ xuống pháp ích. Mọi người đều
nói siêu phàm nhập thánh tông môn do đó đề ra siêu thánh
nhập phàm.
Vấn
đáp trên còn một đoạn nữa như sau :
-Khi
quay lại thì sao ?
-Rơi
xuống hố sâu.
Ngồi
lâu thì sanh mệt, không ngồi thì rơi xuống hố sâu. Thiền
sư đối với pháp là như thế, không rơi vào lưỡng biên,
cứ trực tâm mà làm. Công phu này cần có thời gian như câu
nói :
-Lão
tăng 40 năm rồi mới đánh thành một phiến.
(Xem
thêm công án 83)
1675.- Thuận theo tự nhiên.
Cỏ
ở sân thiền viện héo vàng không còn chút sinh khí, chú tiểu
bạch sư phụ, xin gieo hạt cỏ mới.
-Đừng
gấp, lúc nào gieo chả được.
Không
lâu thiền sư mua hạt cỏ về, sai chú tiểu đi gieo. Khi chú
gieo hạt có một cơn gió mạnh thổi qua, một phần hạt cỏ
bị thổi bay đi nơi khác. Chú tiểu lấy làm tiếc, sư phụ
an ủi chú :
-Không
sao ! Hãy còn một nửa mà.
Thế
cũng chưa hết, một bầy chim sẻ từ đâu bay tới chăm chỉ
mổ những hạt cỏ. Chú tiểu lại vào trình sư phụ.
-Chú
đừng lo, chim sẻ ăn được bao nhiêu, thế nào năm tới cũng
còn cỏ mọc.
Một
đêm, có trận mưa lớn. Chú tiểu sợ nước cuốn trôi đi
các hạt cỏ, sáng ngày hôm sau vội chạy ra xem thì thấy không
còn hạt cỏ nào trên mặt đất nữa. Chú tiểu buồn muốn
khóc, sư phụ an ủi :
-Nước
cuốn hạt cỏ đến đâu nó sẽ mọc ở đấy, chú cứ để
tùy duyên.
Không
lâu, vườn thiền cỏ lại mọc xanh rì, những hạt còn lại
đã mọc mầm. Chú tiểu vui mừng lại đi báo cáo sư phụ.
Sư phụ chú gật đầu :
-Tất
cả đều tùy duyên.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Trong cả câu chuyện, thiền sư lúc nào cũng giữ tâm bình thường. Đối với sự việc, ông thuận theo tự nhiên không cưỡng cầu gì vì ông biết rằng những gì trao ra nhất định sẽ được hồi báo.
1676.- Ý Tổ sư từ Tây sang.
1.-Có
ông tăng hỏi Long Nha :
-Ý
Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Đợi
rùa đá nói, tôi sẽ bảo cho ông.
-Rùa
đá nói rồi !
-Nói
gì với ông vậy ?
Ông
tăng không trả lời được.
2.-Ngưỡng
Sơn hỏi Quy Sơn :
-Ý
Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Quy
Sơn chỉ lồng đèn :
-Lồng
đèn lớn tốt.
-Chỉ
là cái đó sao ?
-Cái
đó là cái gì ?
-Lồng
đèn lớn tốt.
-Quả
nhiên ông không thấy.
3.-Lại
có ông tăng khác hỏi Quy Sơn :
-Ý
Tồ sư từ Tây sang là sao ?
Quy
Sơn giơ phất tử lên.
4.-Long
Nha hỏi Thúy Vi :
-Ý
Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Mang
thiền bản lại đây.
Nha
mang thiền bản tới, Thúy Vi cầm lấy đánh, Nha nói :
-Đánh
thì cứ đánh nhưng còn : Ý Tổ từ Tây sang là sao ?
Nha
lại đem hỏi Lâm Tế, Lâm Tế bảo :
-Mang
bồ đoàn lại đây.
Nha
đưa bồ đoàn tới, Lâm Tế cầm lấy đánh, Nha nói :
-Đánh
thì cứ đánh, nhưng còn “Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
Nha
lại đến hỏi Động Sơn, Động Sơn bảo :
-Đợi
Động Thủy chẩy ngược dòng tôi sẽ bảo cho ông biết.
(Thiền
Tông Đại Ý)
Đây
là một câu hỏi rất phổ biến trong khoảng 300 năm đời
Đường. Cùng một câu hỏi sao có nhiều câu đáp không giống
nhau ? Đó là vì căn bản của Thiền là siêu việt tất cả
vô sinh pháp, lìa bỏ mọi hình thức, khái niệm cho nên tự
tại vô ngại. Có thể nói toàn vũ trụ đều vì ý Tổ sư
mà hiện tiền, vì vũ trụ vạn hữu đều tồn tại trong ý
Tổ sư. Do đấy lấy một vật nào cũng là ý của Tổ sư,
không có một khái niệm cố định nào. Bởi vậy các vị
cao tăng, thiền đức tùy hoàn cảnh, cơ hội mà tự tại đưa
ra câu đáp.
(Xem
thêm công án 812)
1677.- Mũ cao, áo rộng.
Một
đệ tử bái biệt sư phụ đi hành cước. Sư phụ quan tâm
dặn đệ tử phải thận trọng trong mọi sự giao tiếp.
Đệ
tử thưa :
-Dạ
! Con sẽ cẩn thận, con sẽ để họ đội mũ cao họ sẽ không
phản cảm, ghét bỏ con.
-Ông
thật khéo nghĩ.
-Dạ
đúng thế, ai cũng muốn đội mũ cao, chỉ có sư phụ là không
thích mà thôi !
-Tôi
thật không thích đội mũ cao.
(Phật
Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)
Vậy đó, sư phụ đã bị đệ tử cho đội mũ cao rồi. Đối với chuyện tốt bất tri bất giác đã bị ô nhiễm. Vì vậy khi công phu chúng ta phải miên mật quán chiếu, không gián đoạn, không để sơ hở.
1678.- Bài kệ của Chân Tĩnh thiền sư.
人
人 有 個 天 真 佛
Nhân
nhân hữu cá thiên chân Phật
妙
用 縱 橫 總 不 知
Diệu
dụng tung hoành tổng bất tri
今
日 分 明 齊 恉 出
Kim
nhật phân minh tề chỉ xuất
斬
蛇 舉 拂 更 由 誰
Trảm
xà cử phất cánh do thùy.
Người người đều có thiên chân Phật
Không biết nhưng mà vẫn dùng hoài
Ngày nay phải chỉ ra cho rõ
Dựng gậy, chém rắn lại là ai ?
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)
Thiền sư là lão bà tâm thiết chỉ cho mọi người khỏi mất công tìm kiếm. Muốn biết khuôn mặt xưa nay không phải là khó. Bởi vì bản tánh chẳng ở nơi đâu khác mà ở ngay trước mắt ta. Tiếc vì người đời không biết, chỉ vì bị khốn quẫn bởi chữ Tánh, đều tưởng phải tìm kiếm ở nơi cao thâm huyền diệu; không biết “cái” có thể nhìn, có thể nghe, có thể nói, có thể làm, cái đó chính là bản lai nhân. Nếu lìa cái này để đi tìm cái khác thì càng tìm càng xa, càng không thể thấy.
1679.- Bài kệ của Bàng Uẩn.
1. Bàng cư sĩ có làm bài kệ như sau :
有
男 不 婚
Hữu
nam bất hôn
有
女 不 嫁
Hữu
nữ bất giá
合
家 團 圝 圓
Hợp
gia đoàn loan viên
共
說 無 生 話
Cộng
thuyết vô sanh thoại
Có trai không cưới vợ
Có gái chẳng gả chồng
Cả nhà cùng xum họp
Cùng nói lời vô sanh.
2. Về sau có một vị hòa thượng đọc bài kệ trên bèn viết một bài kệ như sau :
無
男 可 婚
Vô
nam khả hôn
無
女 可 嫁
Vô
nữ khả giá
大
眾 團 圝 圓
Đại
chúng đoàn loan viên
說
甚 無 生 話
Thuyết
thậm vô sanh thoại
Không trai cưới vợ
Không gái gả chồng
Đại
chúng cùng hội họp
Nói gì lời vô sanh.
3. Nguyên Âm lão nhân lại có bài kệ :
有
男 亦 婚
Hữu
nam diệc hôn
有
女 亦 嫁
Hữu
nữ diệc giá
子
子 復 孫 孫
Tử
tử phục tôn tôn
是
說 無 生 話
Thị
thuyết vô sanh thoại
Có trai cưới vợ
Có gái gả chồng
Con con rồi cháu cháu
Là nói lời vô sanh.
Bài
kệ 1 của Bàng cư sĩ nói nhà ông có 4 người : 2 vợ chồng,
1 con trai, 1 con gái. Con trai không cưới vợ, con gái không gả
chồng, mọi người đều chứng đạo, thật là hiếm thấy.
Bài
kệ 2, hòa thượng không có vợ nên không có con trai để cưới
vợ, không có con gái để gả chồng, nhưng có đại chúng.
Trong chùa không có một mình hòa thượng mà còn chư tăng đều
cùng tu, không có lời để nói, còn nói gì là nói lời vô
sanh.
Cả
2 bài kệ đều hay một bài nói lời vô sanh, một bài nói
lời vô sanh cái gì, mỗi người đều có diệu dụng.
Bài
kệ thứ 3 : có con trai có thể cưới vợ, có con gái có thể
lấy chồng. Các con có gia đình rồi sanh ra các cháu. Con con
cháu cháu sanh sanh bất tuyệt. Đó là vô sanh, là diệu dụng
của chân tâm, biểu thị phương pháp viên dung vô ngại.
(Xem
thêm công án 279)
1680.- Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì ?
1.
Hoa Viên Thiên hoàng vời Đại Đăng quốc sư (1282-1337) tới
giảng Phật pháp. Sứ giả bảo thiền sư phải mặc đạo
phục và ngồi cách Thiên Hoàng mà thuyết pháp. Nhưng quốc
sư cứ yêu cầu mặc áo cà sa và ngồi đối diện. Thiên Hoàng
nhất nhất nghe lời. Khi gập mặt Thiên Hoàng nói :
-Phật
pháp không thể nghĩ bàn, cùng Vương pháp đối tọa.
Quốc
sư đáp ngay :
-Vương
pháp không thể nghĩ bàn cùng Phật pháp đối tọa.
Thiên
Hoàng rất hài lòng.
2.
Tuyết Đàm sau khi rời sư phụ Thường Lâm trú ở Mỹ Nùng
Y Thâm Chánh Nhãn Tự, do cách dạy quá nghiêm khắc nên có
ngoại hiệu là Lôi Tuyết Đàm. Một hôm nhân Vĩ Trương ở
Khuyển Sơn Thoại Thiền Tự mời đến giảng tổ lục, Khuyển
Sơn Thành Chủ cũng đến nghe. Do đó dựng một bục cao, lại
treo mành phía trước. Tuyết Đàm trông thấy rất tức giận
hét lên :
–Gã
vô lễ ngồi sau mành, những gì ta giảng không phải là cặn
bã mà phải dùng màn lọc.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Dù là bậc vương giả, thiền sư cũng chẳng coi vào đâu.
1681.- Núi cao, sông sâu.
Cao
Kiều Nê Chu (1825-1903), Thắng Hải Chu, Sơn Cương Thiết Chu
là 3 danh thủ xử dụng trường thương cuối thời Mạc Phủ,
thường được gọi là Tam Chu. Thời trẻ Nê Chu cùng vị trụ
trì Dã Xứ Tĩnh Viện nói chuyện. ông không dấu được lòng
kiêu ngạo về thương thuật của mình. Trụ trì chỉ im lặng
nghe, sau cùng cười bảo :
-Đối
với việc xử dụng trường thương tôi cũng có chút tâm đắc,
chúng ta hãy tỷ thí một chút. Thế nào ?
Nê
Chu nghe rồi bèn bước ra sân, nắm lấy một cây sào phơi
áo thủ thế. Hòa thượng chỉ dùng một chiếc đũa. Nê Chu
nổi giận, tưởng dùng gậy chọc thủng được ngực hòa
thượng. Nhưng hòa thượng thủ thế vững như núi Thái Sơn,
không chỗ sơ hở. Nê Chu toát mồ hôi mặt, thủy chung vẫn
không dám ra tay. Cuối cùng đành chịu thua. Sau đó hỏi hòa
thượng thuộc phái võ nào, hòa thượng trả lời :
-Kỳ
thật chẳng có môn phái nào, nếu miễn cưỡng thì có thể
nói là phái “núi cao, sông sâu”, “phái mắt ngang mũi dọc”
hoặc phái “liễu lục, hoa hồng”. Có gì thì là gì, không
gì không thể.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Từ đó về sau Nê Chu bắt đầu tham cứu Phật pháp, nhưng hòa thượng không chỉ bảo gì cả. Nê Chu vì muốn học cảnh giới cao của thương pháp nên hết sức nghiên cứu thiền lý. Ít năm sau một hôm nhân đọc Long Môn Dạ Thoại, đọc đến công án Khoái Xuyên “diệt hết tâm đầu, lửa tự mát”. Cuối cùng đã thể nhận được cảnh giới bất động của ngộ cảnh.
1682.- Bỏ xuống đi.
Trong
công án “Đệ Tử Đến Tay Không” (công án 1), Triệu Châu
bảo :
-Bỏ
xuống đi !
Nguyên
văn chữ Hán là “Phóng hạ trước” (放下著) !
Có
một vị nữ đệ tử khi nghe thiền sư kể lại công án này
lại ngắt câu thành : “Phóng ! Hạ trước ! ( 放! 下著!)
(Có thể hiểu là hãy cởi đồ mặc ở phía dưới xuống
!)
Cô
liền cởi quần đứng ngay trước mặt sư phụ. Sư phụ liển
trỏ vào ngực cô bảo :
-Bỏ
xuống đi !
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Câu
“bỏ xuống đi !” của thiền sư có 2 nghĩa :
-Cô
hãy còn mặc áo, hãy cởi nốt ra đi !
-Cô
hãy còn chấp vào nữ tánh. Hãy bỏ xuống mọi chấp trước.
Chữ trước ở đây là hư tự, là trợ từ chỉ mệnh lệnh.
(tương tự chữ đi trong”bỏ xuống đi” ở Việt ngữ)
1683.-
Bài kệ của Trích Thủy hòa thượng.
Hòa thượng Trích Thủy có để lại bài kệ :
曹
源 一 滴
Tào
nguyên nhất trích
七
十 余 年
Thất
thập dư niên
受
用 不 盡
Thọ
dụng bất tận
蓋
天 蓋 地
Cái
thiên cái địa
暍
Hạt
Tào nguyên một giọt
Bẩy mươi năm rồi
Thọ dụng bất tận
Trùm cả đất trời
Ha
!
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Đại ý bài kệ nói : “Chỉ một giọt nước Tào Khê, dùng đã 70 năm rồi, giọt nước này sung mãn khắp vũ trụ, không đâu không có. Tào Nguyên chỉ nơi cư ngụ của Huệ Năng, vị tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa.
1684.- Niệm khởi tức giác.
Đệ
tử tâm ái của Thế Tôn là tôn giả A Nan, là một người
đẹp trai, được một thiếu nữ Chiên Đà La (thuộc giai cấp
nô tài) yêu mến. Lúc đó, sự kỳ thị giai cấp rất khắc
nghiệt, khiến tôn giả rất phiền não không biết phải xử
trí ra sao. Thế Tôn biết chuyện này bèn lấy ra một khăn
tay, thắt nhiều nút rồi hỏi A Nan :
-Đây
là cái gì ?
-Là
nút buộc.
-A
Nan ! Nội tâm ông cũng như những nút này, ông vì nàng Chiên
Đà La mà phiền não. Chỉ cần ông mở từng nút, từng nút
thì sẽ hết phiền não.
Thế
Tôn cởi hết nút rồi hỏi :
-A
Nan có còn nút không ?
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Ngồi thiền không thể ngủ gục, nếu không đó chỉ là ngủ gục, không phải ngồi thiền. Ngồi thiền cũng không thể suy tư, nếu không thì đó là suy tư chứ không phải là ngồi thiền. Niệm khởi tức giác. Nếu khởi vọng niệm hoặc buồn ngủ, hoặc ngây ra lập tức “Vô” một tiếng quay trở lại công án. Đó là mở nút phiền não, vọng tưởng. Người xưa có nói qua : chẳng sợ niệm khởi chỉ lo giác chậm.
1685.- Đừng vọng tưởng.
Hòa
thượng Nhất Ty Văn Thủ (1608-1648) tài cán phi phàm, tham hiểu
rất nhiều công án. Năm 19 tuổi từng tự phụ là trong thiên
hạ không có ai đủ giỏi để làm thầy mình, nhưng khi nghe
Trạch Am hòa thượng ở Nam Tông Tự, thì cũng lại tham bái.
Ông kể cho hòa thượng tại các phương trượng ông học được
những công án gì, dương dương đắc ý, yêu cầu hòa thượng
phê bình .
Trạch
Am cười lớn :
-Nơi
đây lão nạp không có loại phương pháp này, không treo những
sợi sắn bìm mà bán Phật pháp. Phật pháp của lão nạp chỉ
là một viên thuốc trị bá bệnh.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Có
ai hỏi gì Câu Chi cũng chỉ giơ một ngón tay lên, Bí Ma (đệ
tử đời thứ 3 của Mã Tổ) chỉ dùng một cái néo để néo
cổ người hỏi. Đả Địa hòa thượng thì lấy gậy đập
xuống đất, Vô Nghiệp chỉ nói “Đừng vọng tưởng”.
Câu
đáp của Trạch Am có giống câu “Đừng vọng tưởng “
không? Phải nghe cho kỹ. Về sau Nhất Ty tuy theo Trạch Am tham
cứu và được Thiên Hoàng chỉ bày cho nhiều lời nhưng cũng
không được Trạch Am ấn khả, chỉ để cho một di hạt (bài
kệ lúc sắp mất) là một chữ mộng.
1686.- Hai dao giao tranh không nên tránh.
Sơn
Cương Thiết Chu (chánh trị gia kiêm Kiếm Khách 1836-1888), lúc
ban đầu theo Khi Ngọc Chi, Trường Đức Tự nguyện ông hòa
thượng học thiền, sau lại theo Y Thần Long Trạch Tự Tinh
Định hòa thượng tham thiền, về sau lại theo Kinh Đô Thiên
Long Tự Trích Thủy Hòa thượng (1812-1899) lấy câu :
Hai dao, giao tranh không nên tránh
Hảo thủ tức đồng sen trong lửa.
Làm
công án. Tham trong 3 năm hoát nhiên đại ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Có
sách viết câu trên thành :
Hai dao giao tranh thì nên tránh
Nếu
nói như vậy thì đã làm mất đi tông chỉ của Thiền tông
vậy. Bất luận thế nào, chúng ta phải kiên trì không nên
tránh. Ở tình trạng tự tha sai biệt tương đối, ẩn tàng
tinh thần không dao động thì mới có thể có hoa sen trong
nước (không trí – tịch tĩnh bất động của Thiền định)
và hoa sen trong lửa (Bát nhã – thực tuệ của trí tuệ, sản
sanh trong động của đời sống hàng ngày). Cả 2 đều khai
hoa, kết quả.
1687.- Hề Trọng làm xe.
Hòa
thượng Nguyệt Am hỏi một ông tăng :
-Hề
Trọng làm một cái xe, bánh có 100 nan, bỏ 2 bánh xe và trục
đi thì thành cái gì ?
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Có
người nói Hề Trọng là người Trung Quốc phát minh ra xe ở
thời cổ, có người lại nói ông là người đầu tiên dùng
trâu, ngựa để kéo xe. Có thể nói ông là bậc cao thủ
chế xe. Ông tạo ra xe có 100 nan. Nếu tháo bánh xe, trục xe,
thân xe ra thì nó còn là xe không ? Người do tứ đại (đất,
nước, gió lửa), nếu phân ly rồi thì trở về không. Thi
tụng Chiết Không Quán của Tiểu thừa nói :
Am nhỏ rỡ rồi trở lại nguyên dã
Nhưng
Thể Không Quán của Đại thừa thì lại nói :
Am nhỏ chưa rỡ nguyên dã vẫn nguyên
Đó
mới chính là chân không diệu hữu.
(Xem
thêm công án 192)
1688.- Phật Tổ và thị giả.
Nam
Dương Huệ Trung có một thị giả hết lòng phục thị thiền
sư đã 30 năm. Do đó thiền sư muốn giúp ông sớm khai ngộ.
Một hôm thiền sư gọi :
-Thị
giả.
-Dạ
!
Thiền
sư gọi liền mấy lần, thị giả đều dạ. Một lúc sau thiền
sư lại gọi :
-Phật
tổ !
-Thầy
kêu ai vậy ?
-Tôi
kêu ông đó.
-Con
không phải là Phật tổ. Con là thị giả của thầy mà.
-Ông
thật đã phụ ta !
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Đây là một thoại khác của công án số 198. Có nhiều người không đạt thành công vì khinh thị chính mình, không tin là mình có tiềm lực. Cũng như thị giả trong câu chuyện này chỉ nhận mình là thị giả, không dám nhận mình là Phật. Sự thật Phật và chúng sanh không có sai biệt. Phật sở dĩ có thể thành Phật vì ngài tin rằng ngài có năng lực có thể giải thoát chúng sanh.
1689.- Mục phiêu.
Một
hôm, Hoài Hải dẫn các thiền sinh ra đồng cấy mạ. Cấy
xong một luống các thiền sinh thấy mạ được sư phụ cấy
là một đường thẳng tắp, còn của các thiền sinh thì hoặc
lệch bên này hoặc lệch bên kia chứ không được ngay hàng
thẳng lối. Họ bèn hỏi nguyên nhân, thiền sư cười bảo
:
-Giản
dị lắm, chỉ cần các ông lấy một điểm ở xa để làm
chuẩn khi cấy thì sẽ được thẳng hàng ngay.
Nghe
lời dạy của thầy, các thiền sinh vội thực hành ngay. Cấy
xong một hàng họ lại so sánh thì thấy luống cấy cong vòng.
Thiền sư bèn hỏi :
-Các
ông lấy gì làm chuẩn ?
-Dạ,
con trâu đang ăn cỏ ở đàng xa kia.
-Con
trâu di động, các ông lấy nó làm chuẩn thì luống cấy không
cong sao được !
Các
đệ tử nghe rồi tỉnh ngộ, bèn chọn một cây cổ thụ làm
chuẩn. Lần này luống mạ cấy được thẳng tắp.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Bất luận làm một việc gì cũng phải có một mục phiêu rõ rệt, rồi từng bước, từng bước đạp thật trên đất, nhất định sẽ thành công.
1690.- Trích Thủy hòa thượng.
Nghi
Sơn đối với Thiền học, lãnh ngộ rất sâu, đức cao vọng
trọng, thường có nhiều thiền sinh đến xin tham học. Một
mùa đông nọ, tuyết xuống rất nhiều, Trích Thủy đến bái
kiến thiền sư, nhưng thiền sư không cho ông vào cửa. Trích
Thủy bèn quỳ ngay bên ngoài cửa 3 ngày. Các đệ tử đều
xin, nhưng thiền sư vẫn không động lòng. Ngày lại ngày,
đã nhiều lần ngã xuống, nhưng Trích Thủy lại bò dậy,
không chịu rời chỗ. Đến ngày thứ 7 thì ông không gượng
được, ngã gục trên đất. Các đệ tử của Nghi Sơn vào
báo cáo. Thiền sư hạ lệnh cho đem Trích Thủy vào thiền
viện và đồng ý thâu làm đệ tử. Một hôm Trích Thủy không
hiểu vô tự và Bát Nhã dị đồng thế nào bèn đem hỏi thiền
sư. Nghi Sơn bèn cho ông một tát tai, hét lớn :
-Vấn
đề này há để ông hỏi sao ?
Trích
Thủy bị thiền sư đánh, mắt hoa đầu váng, hoảng nhiên
đại ngộ hữu và vô là ý thức thô thiển của chính mình
: ông thấy tôi có, tôi thấy ông không. Do Nghi Sơn nghiêm khắc
yêu cầu, Trích Thủy khổ công tham thiền, sau trở thành danh
sư một thời.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Phải lao lực tâm chí, trải qua nhiều gian khổ rèn luyện lưng thẳng, đầu ngửng cao mới có thể hưởng thụ niềm vui của sự thành công.
1691.- Bàn thêm về bài kệ của Phó Đại Sĩ.
Trong
bài kệ của Phó Đại Sĩ (Xem công án 263), câu thứ 3 : theo
cầu qua bến nước có thể hiểu được, còn 3 câu kia toàn
là nghịch lý làm sao hiểu đây ? Thực ra sắc thân chúng ta
giống một cái phòng mà người trú ở trong là Phật tánh.
Chúng sanh vì mê sắc tướng nhận lầm xác thân này là ngã,
mà không biết Phật tánh là cái gì, thậm chí còn tạo nghiệp,
thọ báo, sanh tử chẳng thôi. Bài kệ này đề tỉnh chúng
ta phải nhận biết chủ nhân ông, đừng nhận giả làm thật.
Chính là nói cái nhục thân này không biết nói chuyện, nghe
chuyện, cử động. Chúng ta có thể vận động, nói, nghe,
đều là Dụng của chủ nhân này. Bài kệ này là nói về
vị chủ nhân ấy.
Tay
không nắm cán mai : Tôi chẳng nắm một vật gì trong tay. Cái
mai nắm trong tay là nhục thể do chủ nhân sai bảo.
Đi
bộ lưng trâu ngồi : ông có thể đi đường, chạy nhẩy đều
là do chủ nhân ông sai bảo. (Dụng) cũng giống như ngồi trên
lưng trâu vậy.
Theo
cầu qua bến nước : Sắc thân ở đây coi như cây cầu, người
là chủ nhân ông. Người ta sống ở trên đời, chẳng qua
tạm trú một khoảng thời gian rồi cũng phải đi, cũng giống
như đi qua cầu. Cuộc đời này giống như một quán trọ,
ở tạm ít lâu rồi phải đi, hà tất phải tranh danh đoạt
lợi.
Cầu
trôi : Xác thân chúng ta luôn biến đổi, từ sanh ra, lớn lên
rồi già chết. Cái cầu này chẳng phải đang biến đổi đó
sao ?
Nước
chẳng trôi : Đó là Phật tánh thường tại chẳng đến chẳng
đi.
Tóm
lại, bài kệ này khuyên chúng ta nên minh tâm kiến tánh vậy.
(Phật
Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)
1692.- Chúng sanh điên đảo, mê chạy theo vật.
Cảnh
Thanh hỏi một ông tăng :
-Tiếng
gì ở ngoài cửa ?
-Tiếng
mưa rơi.
-Chúng
sanh điên đảo, mê chạy theo vật.
-Còn
thầy thì sao ?
-Thoát
Thân còn dễ, thoát Thể khó nói.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Người
ta thường phân biệt mình (chủ thể) và người (khách thể),
nhưng đối với thiền giả thì người và cảnh là một, vật
ngã đều quên, hòa làm một trong tiếng mưa rơi của đất
trời. Lúc đó tuy 2 mà một, chân nhân và chân như liền trình
hiện.
(Xem
thêm công án 76)
1693.- Con tên Bản Tịch.
Động
Sơn hỏi :
-Xà
lê tên gì ?
-Con
tên Bản Tịch.
-Nói
lên trên.
-Không
nói.
-Tại
sao không nói ?
-Vì
nếu nói thì không phải là Bản Tịch nữa.
Ông
tăng ở đây là Tào Sơn Bản Tịch rất được Động Sơn
coi trọng.
(Công
Án Thiền Cơ)
Trong
câu hỏi Động Sơn dùng 2 chữ xà lê (có nghĩa là người
có đức hạnh) có thể dịch là tôn giả (người đáng kính
trọng). Không phải cứ đến tham học là được coi là đệ
tử. Người đặt câu hỏi thường là các thiền sinh, chứ
các thiền sư ít khi đặt câu hỏi. Ở đây, Động sơn đặt
câu hỏi là để dẫn pháp. Câu đáp của Tào Sơn :
-Con
tên Bản Tịch.
Thì
Bản Tịch là Niết Bàn, là tịch tĩnh, là chẳng hai. Khi trú
ở thể không thì chỉ có một hành tướng nhưng khi vào hiện
tượng giới thì có thể biến hóa thành sự sự, vật vật.
Do đó khi chúng ta nói bản tịch là chỉ Niết Bàn. Khi chúng
ta ngồi thiền, không khởi một niệm, lúc đó chúng ta đã
tiến vào cảnh giới Niết Bàn. Chúng ta đừng hiểu Niết
Bàn là tử vong, thực không phải vậy.
Nói
lên trên : tên ông là Bản Tịch, thì nói lên trên có thể
nói hay không ?
Không
nói : Vì Bản Tịch không có gì để nói.
Tu
thiền là trực nhập thể tánh không, lìa ngôn ngữ văn tự.
Có nhiều người tới giai đoạn này lại chấp vào không là
ngoan không. Nếu có pháp tới mà không hiện thì đó là cảnh
phiền não, là vọng tưởng. Nếu không thể lìa các pháp thì
không thể như như bất động. Công án này là giảng về không
vậy.
1694.- Chuyện tốt chẳng bằng vô sự.
Triệu
Châu có lần nói :
-Phật
là phiền não, phiền não là Phật.
Chúng
đệ tử không hiểu hỏi lại :
-Phật
vì sao mà phiền não ?
-Phật
vì chúng sanh mà phiền não.
-Làm
sao để trừ phiền não ?
-Trừ
phiền não để làm gì ?
Ít
lâu sau Triệu Châu thấy một đệ tử lễ Phật liền hỏi
:
-Ông
làm gì đó ?
-Lễ
Phật.
-Phật
dùng để lễ hay sao ?
-Lễ
Phật là chuyện tốt mà.
-Chuyện
tốt chẳng bằng vô sự.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Phật vì chúng sanh mà phiền não đó là giác ngộ, vì vậy không trừ phiền não được. Lễ Phật là một chuyện tốt. Đạo ở Tâm, mọi hình thức đều là hư vọng. (Xem thêm công án 1124)
1695.- Thư pháp gia.
Một
ông tú tài tự xưng mình thông hiểu phong cách của 24 nhà
thư pháp gia. Một lần, ông đến thăm thiền sư Đạo Minh.
Ông ba hoa về biệt tài của mình. Đạo Minh giơ gậy đang
cầm trong tay lên, điểm vào khoảng không một điểm và hỏi
:
-Ông
hiểu loại thư pháp này không ?
Tú
tài ú ớ không trả lời được.
-Ngay
vĩnh tự bát pháp mà chưa nhận ra, còn nói gì là thông hiểu
24 loại ?
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Tú tài tuy hiểu thư pháp nhưng còn chưa rõ cái tâm của thư pháp.
1696.- Triết lý nhân sinh.
Một
hôm, các thiền sinh ngồi quây quần chung quanh sư phụ đợi
nghe thầy giảng triết lý nhân sinh. Thiền sư chỉ yên lặng
ngồi thiền. Một hồi lâu bỗng hỏi các đệ tử :
-Các
ông nghĩ phải làm sao để trừ cỏ dại ?
Các
đệ tử kinh ngạc, không ngờ thầy nêu ra vấn đề này. Sau
một lúc kinh ngạc họ bắt đầu đưa ra ý kiến.
Ông
thứ nhất nói :
-Phải
dùng cuốc mà cuốc.
Ông
thứ hai :
-Phải
dùng lửa mà đốt.
Ông
thứ ba :
-Phải
dùng thuốc trừ cỏ.
Ông
thứ tư :
-Nhổ
cỏ phải nhổ tận gốc.
Thiền
sư cười bảo :
-Các
ông cứ theo cách của mình mà làm.
Nói
rồi phân lô đất cho mỗi người, hẹn năm sau gập lại.
Một
năm sau, mọi người tụ hội lại. Các lô đất đã trở thành
các nông trại trồng đủ loại nông sản.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Muốn trừ cỏ dại, phải trồng trên đó các nông phẩm. Muốn điều tâm, phải điều dưỡng mỹ đức.
1697.- Tuyệt chiêu.
Tương
truyền thiền sư Giác Vận tu tập ở Thiếu Lâm Tự nhiều
năm rồi nhưng vẫn chưa nắm được tâm ý, ông bèn du phương
bái sư mong được tiến bộ. Trải qua bao gian khổ, cuối cùng
ông gập được một vị sư phụ võ công cao cường. Sư phụ
mỗi ngày đều dẫn ông lên núi đốn củi, ngoài ra chẳng
dạy dỗ thêm gì. 3 tháng trôi qua, chẳng học thêm được
một chiêu thức gì, ông có vẻ buồn. Sư phụ thấy rõ ý
ông, một hôm dẫn ông đi tản bộ trong rừng. Đến trước
một phiến đá lớn, chỉ thấy sư phụ nín hơi, 2 mắt sáng
quắc, giơ 2 ngón tay điểm vào tảng đá. Tảng bỗng bị vỡ
làm đôi. Giác Vận trợn mắt kinh ngạc, mồm há ra mà không
ngậm lại được. Sư phụ liền bảo :
-Ông
xuất thân từ chùa Thiếu Lâm phải biết rõ võ công Thiếu
Lâm cứu cánh là giảng Tâm pháp. Tâm pháp là nội công, nội
công là giải thoát sanh tử công vậy. Tham quán thiền cơ,
giải thoát khỏi sự sợ hãi sanh tử mới có thể tâm định,
thần tĩnh, nhãn lực đáo xứ, dũng mãnh như sư tử, sắc
bén như ưng trảo thì chưởng thuật mới gọi là đạt thành.
Giác
Vận khâm phục lời sư phụ, khắc khổ luyện tập cuối cùng
trở thành một vị cao tăng, một võ lâm cao thủ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Thiền và võ thuật là Thiền chưởng nhất như. Muốn luyện thành võ công thượng thừa chỉ khổ công luyện võ không thôi thì không đủ, còn phải ngộ tánh. Ngộ tánh từ đâu ra ? Do tập Thiền mà có thiền định.
1698.-Tiếng vỗ của một bàn tay.
Hai
bàn tay vỗ vào nhau thì tạo ra một tiếng vỗ, còn một bàn
tay vỗ thì tạo ra tiếng gì ?
Đây
là một công án hữu danh do Bạch Ẩn sáng tạo ra. Dụng ý
của Bạch Ẩn dùng loại vô nghĩa này để giúp thiền giả
đi vào thế giới vô phân biệt. Bạch Ẩn nói :
-Trong
quá khứ tôi cũng như Ngũ tổ Pháp Diễn ( ?-1104) và Đại
Huệ (1089-1163) đã trao công án chữ Không của Triệu Châu
cho các ông tăng mới. Nhưng chữ Không này khó dẫn đến nghi
đoàn (giai đoạn trước khi giác ngộ). Do đó gần đây công
án tiếng vỗ một bàn tay khiến hành giả dễ đạt được
cảnh giới giác ngộ.
Thượng
tướng Bát Đại Lục Lang của Nhật Bản là một nhà nghiên
cứu Kinh Pháp Hoa, có một lần đến bái phỏng Tướng Quốc
Tự Độc Sơn hòa thượng (1819-1895) khi nói đến Pháp Hoa chân
ý. Từ đạo đức quan đến phong cách của thời đại, ông
nhận định rằng nếu không theo kinh Pháp Hoa thì không thiết
lập được nền đạo đức căn bản. Trải qua 2 giờ đồng
hồ lắng nghe, Bát Đại thao thao bất tuyệt, Độc Sơn bảo
:
-Ông
đã nói xong chưa ? Đối với vấn đề đạo đức ông quá
rành, vậy ông có thể nói cho tôi biết đạo đức xử dụng
của cây quạt này không ?
Bát
Đại không trả lời được và Độc Sơn trao cho ông công
án “Tiếng vỗ của một bàn tay”. Trở về nhà, Bát Đại
ngồi trên tảng đá ở sau nhà, 2 tay giơ thẳng ra trước,
nâng một thanh đao Nhật Bản, trầm ngâm suy nghĩ. Trải qua
2 tuần, hoát nhiên ông đại ngộ. Không những hiểu rõ chân
ý của Pháp Hoa, còn hiểu rõ tính cách xử dụng đạo đức
của cây quạt và khí độ cũng thâm sâu hơn. (Xem thêm công
án 278)
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
1699.- Về đến gia sơn thì mới thôi.
Buổi
chiều sau khi Nam Tuyền chém mèo, cao đồ của ông là Triệu
Châu từ ngoài trở về. Nam Tuyền bèn đem chuyện buổi sáng
kể lại. Triệu Châu nghe rồi bèn tháo dép đội lên đầu,
đi ra.
Tuyết
Đậu có bài tụng về chuyện này :
公
案 圓 來 問 趙 州
Công
án viên lai vấn Triệu Châu
長
安 城 裏 任 閑 遊
Trường
An thành lý nhậm nhàn du
草
鞋 頭 戴 無 人 會
Thảo
hài đầu đới vô nhân hội
歸
到 家 山 即 便 休
Quy
đáo gia sơn tức tiện hưu.
Công
án tròn rồi hỏi Triệu Châu
Trường
An thành ấy mặc nhàn du
Đầu
đội giầy cỏ không người hiểu
Về
đến gia sơn thì mới thôi.
(Thích Thanh Từ dịch)
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Nếu chỉ chém mèo thành 2 không thôi thì công án không được trọn vẹn, thành ra Nam Tuyền mới đem ra hỏi Triệu Châu. Tuyết Đậu coi đối đáp của 2 thầy trò như đang đi rong chơi trên đường ở thành Trường An. Nói cách khác, hiểu được chuyện Triệu Châu đội dép trên đầu đi ra có được mấy người. Trường An tuy vui thật nhưng chẳng thể ở lâu, về đến cố hương nằm ruỗi thẳng 2 chân chẳng khoái hơn sao ?
1700.- Gập người đạt đạo.
Một
ông tăng hỏi Đức Sơn Tuyên Giám :
-Trên
đường gập người đạt đạo, không im lặng, cũng không
dùng lời, phải làm sao ?
-Chỉ
như vậy đó ?
Ông
tăng im lặng hồi lâu, Đức Sơn bảo :
-Ông
còn muốn hỏi nữa sao ?
Ông
tăng lại hỏi, sư hét đuổi ra.
(Công
Án Thiền Cơ)
Một
người ngộ đạo : Trên đường gập một người ngộ đạo
khác, không im lặng, cũng không dùng lời, mặt đối mặt,
tâm không đối tâm. Tâm tôi không động, tâm ông cũng không
động, đó là tâm ấn tâm, do đó không dùng im lặng hay lời
nói để giao tiếp. Ông tăng này để trừ vọng tưởng đem
vấn đề này ra hỏi xem thiền sư trả lời ra sao. Đây cũng
giống như một cái gương, có nhân duyên tới liền chiếu,
khi không có nhân duyên đến thì không có cái gì để chiếu,
nhưng sau đó thì sao ? Có gì để nói ? Nếu có gì để nói
thì là chấp cảnh, không có gì để nói thì là người đạt
đạo. Có gì để nói là do thức thứ 6 và thức thứ 7 phân
biệt tạo nên vọng tưởng, phiền não, không phải là thanh
tịnh pháp. Do đó, người đạt đạo không có bệnh này, còn
có gì để nói ? Nói cái gì ? Không nói.
Đức
sơn nói : Chỉ như vậy đó, thiên địa đồng căn, chúng sanh
đồng thể. Thiền sư đứng đó ngậm miệng, không khởi tâm
động niệm, chỉ một câu “Như vậy đó” đã giảng xong.
Thiên
địa đồng căn : cộng nghiệp của chúng sanh hình thành khí
thế giới, do nhân duyên hòa hợp mà sanh, do nhân duyên phân
tán mà diệt. Vô tình và hữu tình do cộng nghiệp mà tạo
nên khí thế giới, vô tình có trước, hữu tình có sau. Vô
tình không có luân hồi còn hữu tình phải luân hồi trong
6 đạo.
Chúng
sanh đồng thể : Chúng sanh có cùng thể không, tất cả đều
do A lại da thức biến hiện, ngoài thành khí thế giới, trong
biến thành thân căn.
Ông
tăng thấy thiền sư nói xong đứng im, ông không hiểu định
hỏi, thiền sư biết ngay nên nói :
-Ông
còn muốn hỏi ?
Đã
không hiểu cơ phong của thiền sư lại còn muốn hỏi. Thiền
sư mặc kệ, không lý đến ông. Vì sao ? Nếu đã ngộ thì
không cần phải nói, nói cái gì ? Đi ra !
2/
Thực ra câu hỏi này là của Hương Nghiêm. Có người phỏng
vấn Tây Điền Thốn Tâm (Cơ Đa Lang) ngồi đối tọa 2 giờ
thao thao bất tuyệt về thiền lý. Trong thời gian đó Tây Điền
tiên sinh không nói một lời. Về sau người đó kể lại :
-Tôi
có cảm giác như đứng trước một cây cổ thụ ở chốn
rừng sâu, có thể nói đây là Tây Điền Thốn Tâm im lặng
hồi lâu (lãng cửu).
Trở
lại công án này, cứ đứng lặng ngay trên đường hay là
ba hoa chích chòe ? Cả 2 đều không đúng. Thật ra trong công
án này chữ “đường” là chữ đáng để mắt tới. Thường,
trong công án có nhiều cái bẫy, không thể dùng lý trí mà
giải thích, chỉ có thể tọa thiền mà lãnh ngộ. (Long Mân)
(Xem
thêm Công án 204)
1701.- Gập tai nạn thì đón tai nạn.
Năm Thiên Bảo thứ 2, vào ngày mùng 6 tháng giêng, với sự hiện diện của em ông là Do Chi và đệ tử là Trinh Tâm Ni, thiền sư Lương Khoan tạ thế ở tuổi 74. Ba năm trước đó, Việt Hậu Tam Điền phát sinh địa chấn ông có viết thơ cho Sơn Điền Đỗ Cao, trong đó có đề cập tới vấn đề sanh tử. Ông nhận định rằng khi cái chết đến hãy tiếp nhận nó, đó là phương pháp thoát ly tai biến hay nhất. Ông viết một bài thi tả rõ tâm cảnh lúc đó :
吾
遺 何 物
Ngô
di hà vật
春
天 的 花
Xuân
thiên đích hoa
山
上 的 杜 鵑 鳥
Sơn
thượng đích Đỗ Quyên điểu
秋
天 的 紅 葉
Thu
thiên đích hồng diệp.
Ta
để lại gì nhỉ ?
Mùa
Xuân hoa tươi cười
Trên
núi Đỗ Quyên hót
Mùa
Thu lá vàng rơi !
Bài
thi này có thể coi như một di hạt (bài kệ để lại khi chết).
Bài
này ít nhiều chịu ảnh hưởng bài thi của Đạo Nguyên :
春
天 的 花
Xuân
thiên đích hoa
夏
天 的 杜 鵑 鳥
Hạ
thiên đích Đỗ Quyên điểu
秋
天 的 月
Thu
thiên đích nguyệt
冬
天 亮 麗 的 雪
Đông
thiên lượng lệ đích tuyết
都
讓 人 覺 得 清 新
Đô
nhượng nhân giác đắc thanh tân.
Mùa
Xuân hoa tươi thắm
Mùa
Hạ vang tiếng Quyên
Trăng
mùa Thu sáng lắm
Tuyết
Đông đẹp tự nhiên
Đều
để cho người thấy
Cảm
giác rất thanh tân.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
1702.- Không nắm được.
Cận
đại, trong dòng thiền Tào Động, Sâm Điền Do là một thiền
sư anh kiệt, làm quán thủ Vĩnh Bình Tự 25 năm, đức cao vọng
trọng. Bình thường, bất cứ ai hỏi chuyện gì ông cũng đều
trả lời :
-Không
nắm được !
Chuyện
này được loan truyền. Rất nhiều người đã tìm đủ mọi
cách để ông đưa ra một câu trả lời khác, nhưng đều thất
bại. Có một lần có một vị có công lớn trong cuộc duy
tân vận động là Y Đằng Bác Văn được văn học bác sĩ
Tỉnh thượng Triết Thứ Lang giới thiệu, 2 người cùng đến
tham phỏng thiền sư. Ba người ngồi nói chuyện. Y Đằng kể
lại những gian lao lúc trước khi Duy Tân, đã nhiều phen mình
bị lâm vào tuyệt cảnh, rồi đổi giọng hỏi :
-Xin
hỏi cao tăng thấy tình cảnh đó thế nào ?
Ông
nghĩ rằng vị tăng ngồi trên thiền sàng này chỉ toàn nói
thiền ngoài miệng, khi gập chuyện chẳng dám đương đầu.
Lúc đó thiền sư đang lắng nghe Y Đằng kể chuyện gian khổ
một cách say mê, bỗng quắc mắt :
-Một
kẻ chỉ thích kể về các kinh nghiệm của mình là một gã
đã hết sài rồi.
Y
Đằng lúc đó biết rằng không có cách nào để thiền sư
nói lời khác, khom lưng vái chào mà lui.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Đó là diệu dụng của vô tâm, thiền sư lấy “không nắm được” mà biểu hiện.
1703.- Lão nạp đang giới ngữ.
Thiên
Hậu triệu thiền sư Nhân Kiệm vào cung giảng pháp. Thiền
sư ngẩng nhìn Thiên Hậu rồi hỏi :
-Hiểu
không ?
-Không
hiểu.
-Lão
nạp đang giới ngữ.
Nói
rồi bèn lui.
(Công
Án Thiền Cơ)
Thiên Hậu mời thiền sư đến giảng Phật pháp. Vì Thiên Hậu ngồi trên cao nên thiền sư phải ngẩng lên nhìn rất lâu rồi hỏi “hiểu không ?” Ý thiền sư là tôi đã giảng xong rồi, Thiên Hậu có hiểu không ? Thiền sư nhìn lâu không nói là diễn ý : tôi nhìn bà không phải là xem bà có đẹp hay không, là chỉ tâm không khởi tâm niệm : đó chính là bản lai diện mục. Bà phải học tập lấy tánh không đối diện với cảnh bà hiểu chưa ? Nếu tâm động niệm là lìa bản thể. Bản thể là Niết Bàn, là vô tướng, là thật tướng, không chấp vào cảnh trước mắt. Đương nhiên Thiên hậu đáp không hiểu. Đây là tâm pháp tối thượng thầy vừa mới giảng làm sao con hiểu ngay được, huống chi thầy lại chưa nói ra. Thiền sư lại nói : lão nạp đang giới ngữ, ám chỉ Thiên hậu nói nhiều chỉ tạo nghiệp mà thôi. Tâm động, khẩu động liền nói ra, tạo nên khẩu nghiệp vậy.
1704.- Gà gáy canh năm sáng.
Tuyết
Đàm bái Mỹ Nùng, Từ Ân Tự Thường Lâm hòa thượng làm
thầy nhưng mãi vẫn chưa ngộ. Sư huynh Tá Môn bảo ông :
-Muốn
ngộ đạo, phải lấy chầy gỗ gõ vào đầu sư phụ mới
được.
Tuyết
Đàm vì thiết tha cầu đạo nên làm theo lời. Thường Lâm
tưởng ông ta khùng bèn vớ lấy pháp trượng ở bên cạnh,
giơ lên định đánh. Lúc đó Tá Môn chạy lại xin :
-Gã
này chỉ muốn giác ngộ, nhưng thực không có khả năng. Xin
sư phụ giao gã cho con, cho gã sống 7 ngày.
Rồi
quay lại bảo Tuyết Đàm :
-Sinh
mạng của ông chỉ còn 7 ngày, bất luận thế nào ông cũng
phải ngộ đạo, bằng không thì tôi chẳng còn mặt mũi nào
nhìn sư phụ.
Do
đó, Tuyết Đàm quyết tâm ngồi thiền, suốt đêm không ngủ.
Đêm 1, 2 rồi đến đêm 7 mà vẫn chưa ngộ. Ông nhìn trời
sáng, định ra lan can nhẩy xuống cho xong đời. Ngay chính lúc
đó con gà trống gáy sáng, Tuyết Đàm hốt nhiên khai ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
1705.- Ơn sâu Phật Tổ khó báo đáp.
Đằng Nguyên Đằng Phòng (1296-1380) là trung thần của Nam Triều, mới đầu là môn hạ của Đại Đăng quốc sư, 39 tuổi xuất gia, về sau lại theo Vô Tướng đại sư tham cứu công án “Bản hữu viên thành Phật”, một hôm hốt nhiên đại ngộ. Liền trình đại sư bài kệ :
此
心 未 嘗 失
Thử
tâm vị thường thất
利
益 人 天 盡 未 來
Lợi
ích nhân thiên tận vị lai
佛
祖 深 恩 難 報 謝
Phật
Tổ thâm ân nan báo tạ
何
能 馬 腹 驢 胎 居
Hà
năng mã phúc lư thai cư.
Tâm
giác ngộ này chưa từng mất
Lợi
ích trời người đến vị lai
Ơn
sâu Phật, Tổ khó báo đáp
Vào
bụng ngựa đâu để đầu thai.
Đại
sư hỏi :
-Làm
sao lợi trời người ?
-Đến
tận bờ nước ngồi nhìn mây nổi.
-Làm
sao báo ân sâu Phật,Tổ ?
-Đầu
đội trời, chân đạp đất.
-Vì
sao không vào bụng ngựa, lừa ?
Đặng
Phòng im lặng, lạy 3 lạy.
Đại
sư cười nói :
-Thượng
nhân nay đã triệt ngộ rồi.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Theo lời truyền Đằng Phòng chính là vị trụ trì thứ 2 của Diệu Tâm Tự : Thọ Ông Tông Bật.
1706.- Ngăn vọng niệm.
Tuyết
Phong hỏi Đức Sơn Tuyên Giám :
-Ý
cổ nhân khi chém mèo là gì ?
Đức
Sơn giơ gậy đánh, sau đó hỏi :
-Ông
hiểu không ?
-Không
hiểu.
-Tôi
đối với ông như lão bà tâm thiết mà sao ông vẫn không
hiểu ?
(Công
Án Thiền Cơ)
Tuyết
Phong khi mới nhập đạo, còn chưa ngộ, theo Đức Sơn học
pháp. Một hôm Tuyết Phong đọc công án cũ không hiểu ý Nam
Tuyền tại sao lại chém mèo (Xem công án 1053), là tu sĩ thì
phải giới sát chứ ? nên ông đã đem ra hỏi Đức Sơn. Việc
chém mèo của Nam Tuyền có 2 ý :
-Một
là để dạy đại chúng không được chấp vào một cái gì.
Đối với người mới tu trước hết phải chặt đứt ngoại
duyên chứng nhập ngoại không, nghĩa là đối với trần cảnh
(sắc, thanh, hương, vị, xúc), tâm có thể như như bất động
đạt vô ngã, vô ngã sở. Sau đó hành giả phải chứng nội
không, nghĩa là vô ngã (không có tâm vương), vô ngã sở (không
phân biệt thiện ác), tức là sáu căn chỉ thức nhưng không
khởi phân biệt.
-Hai
là Nam Tuyền đã chứng nội, ngoại không nên chém mèo
mà như không chém mèo. Tại sao ? Vì ông chém mèo là giải
thoát cái thân nghiệp báo của nó. Ông đã dùng cái tâm thanh
tịnh mà độ con mèo. Nó nhân họa mà được phước vậy.
Đức
Sơn đánh Tuyết Phong vì bất cứ cái gì không dính líu đến
sự tu tập của Tuyết Phong đều được coi là vọng tưởng,
là lý luận. Nếu như người tu còn chấp vào một pháp nào
thì cũng không thể giải thoát được. Đối với ngoại cảnh
chỉ nên nhận biết, không được có một niệm thứ
2, thứ 3, v . v . Nói tóm lại là đối với ngoại cảnh không
mảy may dính mắc. Đức Sơn đánh, sau đó hỏi “Hiểu không
?” là hỏi ông có hiểu vì sao tôi đánh không ? Có hiểu
thiền cơ tôi chỉ ông không ? Tuyết Phong trả lời không vì
lúc đó ông mới tu. Đức Sơn thấy căn cơ của Tuyết Phong
rất tốt, nên mới đánh để xúc tiến việc khai ngộ, mong
cho ổng chóng thành tựu.
1707.- Người không cùng vạn pháp làm bạn là ai ?
Trong
công án 988, câu hỏi này được Bàng Uẩn đem đi hỏi Thạch
Đầu và Mã Tổ, và giác ngộ ngay sau câu đáp của Mã Tổ.
Về sau cũng có người đem câu này ra hỏi Triệu Châu và được
Triệu Châu trả lời :
-Hắn
không phải là người !
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Người hỏi chạy trốn khỏi mọi độc thoát vô y (độc lập, không nương cậy vào gì). Triệu Châu phủ định loại người này. Người chân chánh độc thoát vô y phải tương y, tương quan với vạn pháp thì mới có chỗ đứng có ý nghĩa. Vị vô vị chân nhân này phải làm bạn với vạn pháp mà thực hành Bồ tát đạo chứ không phải dừng lại ở Phật cảnh Niết bàn.
1708.- Tâm mình không tĩnh khó tìm tĩnh.
Khuất
Đa là một thiền sư Ấn Độ vân du tứ xứ. Một hôm ông
tới Thái Nguyên gập một đệ tử của Thần Tú ngồi thiền
trong một thảo am. Ông liền đến hỏi :
-Ông
đang làm gì ?
-Tôi
đang tìm sự thanh tĩnh.
-Thanh
tĩnh là cái gì ? Sao không tìm bản tâm, rồi để tâm tự
thanh tĩnh ?
Ông
tăng đó không trả lời được. Khuất Đa bèn dạy ông đến tham Lục tổ Huệ Năng. Ông ta y lời đến gặp Lục tổ và
thuật lại sự việc. Lục tổ im lặng hồi lâu rồi bảo
:
-Trước
tiên ông nên tìm tự tâm, chỉ có mình mới có thể làm tâm
mình thanh tĩnh.
Ông
tăng này nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Thanh tĩnh chân chính là tâm tĩnh chứ không phải là không có âm thanh mới là tĩnh.
1709.- Bí quyết thành công.
Chúng
đệ tử muốn biết bí quyết thành công là gì, bèn đi hỏi
sư phụ. Thiền sư không trực tiếp trả lời, chỉ vung 2 tay
ra trước rồi vẫy về sau và nói :
-Từ
hôm nay trở đi, mỗi ngày các ông đều làm động tác này
300 lần.
Một
tháng sau thiền sư hỏi :
-Ai
làm theo lời tôi dặn.
Hầu
hết các thiền sinh đều giơ tay. Thiền sư gật đầu. Lại
một tháng sau nữa thiền sư lại hỏi, chỉ có một nửa số
thiền sinh giơ tay. Một năm sau thiền sư lại hỏi thì chỉ
có một thiền sinh giơ tay.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Sự thực, việc dễ làm nhất lại là việc khó làm nhất. Và việc khó làm nhất lại có thể biến thành dễ làm, quan trọng ở chỗ chúng ta có chịu kiên trì làm hay không.
1710.- Biết đủ.
Thiền
sư Bàn Khuê sống ở thời đại Giang Hộ, một hôm có người
hỏi ông :
-Con
có đầy đủ trí tuệ, nhưng không biết cách vận dụng, xin
thầy chỉ dẫn cho con.
-Ông
lại gần đây.
Người
đó bước 2, 3 bước về phía trước.
-Đó
không phải là vận dụng tốt hay sao ?
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Con người ta thường đem mình ra so sánh với người, dễ dàng tạo ra bất bình đẳng hoặc tự kiêu hoặc tự ty, không phát huy được tài năng của mình. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác có đề cập đến tri túc. Tri túc là biết đủ. Nếu không biết đủ thì dục vọng sẽ nẩy sinh khiến ta bị phiền não.
1711.- Không biết.
Lương
Võ Đế hỏi Đạt Ma :
-Người
đứng trước mặt trẫm là ai ?
-Không
biết.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Phật
pháp chủ trương tất cả đều bình đẳng, sự vật không
phân cao thấp. Câu trả lời “Không biết” của Đạt Ma
là phá những cái chấp nhị nguyên cao thấp, phàm thánh, có
không của tâm phân biệt, so sánh của Lương Võ Đế. Lão
tử cũng có nói :
-Người
biết không nói, người nói không biết.
Không
biết là vượt lên tri và bất tri. Cái mà người phàm gọi
là “tri” không phải là “thực tri” chỉ có tự tâm lãnh
ngộ được cảnh giới “không biết” thì mới nắm được
thâm nghĩa của Đạo.
1712.- Đừng vọng tưởng.
1/Vào
đời Đường, thiền sư Vô Nghiệp ai hỏi gì cũng đáp :
-Đừng
vọng tưởng.
2/Ở
Nhật Bản vào thời Minh Trị, đại văn hào Sâm Âu Ngoại
Bản xuất thân là một quân y sĩ. Lúc tốt nghiệp, trong khi
các bạn bè đều được bổ nhiệm đến những chỗ tốt
thì ông lại bị phái đi đến một nơi xa xôi hẻo lánh. Lúc
đó ông rất tức giận, bất mãn, thậm chí còn định nộp
đơn từ chức. Nhưng vài ngày sau ông đổi ý. Ông quyết định
lợi dụng thời gian ở đây để học tập tiếng Đức và
chuyên chú vào việc dịch thuật. Vài năm sau ông cống hiến
nhiều dịch phẩm và tác phẩm. Sau lại được thăng tới
chức lục quân tổng đốc. Trong văn học sử Nhật Bản ông
là một người có địa vị cao. Sâm Âu Ngoại Bản trong nghịch
cảnh đã không để phát sinh ra vọng tưởng. Vọng tưởng
là mê hoặc, là tà niệm, phiền não. Con người ta thường
bị tham, sân, si là 3 phiền não lớn làm cho đau khổ. Vì tham
lam nên con người mưu lợi mình hại người, sân vì khi gập
nghịch cảnh không nhịn được sinh oán hận. Si là không phân
biệt được phải trái. Trong 3 độc trên, si là căn bản của
phiền não, vì si cho nên vọng sinh tham. Khi không chiếm đoạt
được thì nổi giận làm ra những chuyện thông thiên hại
lý. Quy kết lại chỉ là 2 chữ vọng tưởng.
1713.- Như vầy.
Khi
Đức Phật sắp nhập diệt, thị giả của Ngài là ông A Nan
hỏi :
-Sau
khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, những giảng dạy của Phật nói
làm sao để cho người ta tin tưởng ?
-Ông
hãy bắt đầu bằng câu : “Tôi nghe như vầy”.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Như
vầy (như thị) tức bản lai diện mục, thật tướng. Trong
kinh Phật có câu “Chim bay như chim, cá lội như cá”. Chim
bay trên không, cá lội trong nước đều là bản lai diện mục.
Nếu nói cá bay trên không, chim lội trong nước thì là hư
vọng, không thể có được. Tất cả mọi sự việc, bao gồm
loài người đều do 10 thứ như vầy tác động :
tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, bản
mạt cứu cánh.
-Tướng
: là hình tướng bên ngoài.
-Tánh
: là bản chất bên trong.
-Thể
: là tánh và tướng hợp nhất.
-Lực
: Năng lực tiềm ẩn.
-Tác
: tác dụng của lực hiển lộ.
-Nhân
: nguyên nhân trực tiếp sinh ra sự vật.
-Duyên
: nguyên nhân gián tiếp.
-Quả
: kết quả của nhân và duyên.
-Báo
: Kết quả bên ngoài.
-Bản
mạt cứu cánh : từ tướng đến báo là một quan hệ liên
tục, nhất quán.
1714.- Sanh tử.
Võ
tướng Nam Mộc Chính Thành, một ngày trước khi giao tranh với
Túc Lợi Tôn, đến tham kiến thiền sư Sở Tuấn, khai sơn
Quảng Nham Tự. Ông tự biết cuộc giao chiến này khó thắng
và tánh mạng cũng khó mà giữ được nên mang vấn đề sanh
tử ra hỏi thiền sư :
-Việc
sanh tử thường vương vấn lòng con, làm sao xử trí đây ?
Xin thầy chỉ cho.
-Chặt
đứt 2 niệm, 1 kiếm dựa trời lạnh.
Nam
Mộc Chính Thành được lời này, quên hết chuyện sanh tử,
khẳng khái chiến tử sa trường.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Thiền siêu thoát sanh tử, giầu nghèo, phàm thánh, có không. Con người ta thường đem vạn tượng trong vũ trụ này phân hai. Người có giầu nghèo, vật có quý tiện, chạy theo những gì coi là tốt, vất đi những gì coi là xấu, do đó sản sanh vui, khổ. Vì chấp vào thủ, xả (nắm giữ, buông bỏ) nên do dự không quyết định được sanh ra đau khổ. Chỉ cần phá được mọi đối đãi, chấp trước thì sự xung đột mâu thuẫn sẽ như sương tan, mây tán.
1715.- Que cứt khô.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn :
-Phật
là gì ?
-Que
cứt khô.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Que
cứt khô là những que gỗ dùng như giấy vệ sinh ngày nay.
Đối với ông tăng Phật là bậc thanh tịnh tối cao vô thượng,
que cứt khô là vật ô uế, cách nhau một trời một vực,
làm sao có thể coi là một ? Ông không biết rằng Phật không
có tồn tại cố định. Tất cả vạn tượng trong trời đất
đều có Phật tánh, cho nên mới nói Phật pháp tại thế gian
không lìa thế gian giác. Nếu như lìa các sự vật ở thế
gian để tìm Phật thì cái tìm được không phải là Phật
thật. Vân Môn phá chấp cho ông tăng : Phật không phải là
Phật thật, que cứt khô cũng không phải là Phật, chỉ cần
bỏ cái tâm chấp trước đi thì chân Phật ở giữa Phật
và que cứt khô.
(Xem
thêm công án 199).
1716.- Mắt ngang mũi dọc.
Đạo
Nguyên (một vị thiền sư Nhật Bản) vì muốn thỉnh ích danh
sư không ngại ngàn trùng xa xôi sang Trung Quốc tham học. Ở
Thiên Đồng Sơn, ông gặp được thiền sư Như Tĩnh. Như Tĩnh
dạy ông tham thiền phải thoát lạc thân tâm và bí quyết
của tham thiền là “Chỉ quán đả tọa” (chỉ chăm chú
ngồi thiền). Cuối cùng Đạo Nguyên ngộ ra chân lý mắt ngang
mũi dọc. Mắt ngang mũi dọc là thuận theo tự nhiên, giả
như mắt thẳng mũi ngang thì là hư vọng vậy.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Thuận theo tự nhiên không những là khởi điểm của Thiền mà còn là cảnh giới tham ngộ tối cao của Thiền nữa.
1717.- Nhìn dưới chân.
1/Một
đêm, thiền sư Pháp Diễn và chúng đệ tử đang đi trên đường
bỗng một cơn gió mạnh thổi qua làm đèn bị tắt ngóm. Pháp
Diễn bảo :
-Đèn
tắt rồi, làm sao đi ?
Phật
Quả Viên Ngộ thưa :
-Nhìn
dưới chân.
Pháp
Diễn gật đầu.
2/Một
hôm, một ông tăng hỏi Giác Minh :
-Chân
tủy của Thiền là gì ?
-Nhìn
dưới chân.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Không có đèn để soi đường đi, nhìn dưới chân là việc thực tế nhất phải làm. Không nương tựa vào đâu, chỉ nhờ vào chính mình. (Xem thêm công án 319).
1718.- Nóng lạnh tự mình hay.
Thiền
sư Đắc Thắng sống vào thời Nam Bắc Triều (Nhật Bản)
Đất nước loạn ly, chia năm xẻ bẩy rất hỗn loạn. Một
hôm đệ tử của thiền sư Sở Tuấn là Đức Quỳnh gặp
Đắc Thắng ở trong núi, ăn mặc như người tục thì rất
ngạc nhiên hỏi :
-Thầy
vì sao không mặc tăng phục ?
-Tôi
không vì thích mặc tăng phục mà xuất gia, chính là muốn
thoát ly sanh tử.
-Dĩ
nhiên là thế, thầy có đọc các công án của cổ nhân không
?
-Không.
Bây giờ ngay chính tâm mình còn chưa nắm được thì hơi đâu
quan tâm đến lời người khác ?
-Vậy
thầy tu hành làm sao ?
-Tôi
căn cứ lãnh ngộ của Phật tổ mà tu hành. Tuy nhiên cho đến
nay vẫn chưa lãnh ngộ. Tôi nguyện cứu độ chúng sanh, dù
có sa địa ngục cũng cam nguyện vì chúng sanh thọ khổ.
Đức
Quỳnh nghe rồi chắp tay lạy :
-Lành
thay ! Lời nguyện của thầy là nguyện vọng của chư Phật,
tinh tủy của Thiền là ở đó.
Đắc
Thắng tuy có đại nguyện nhưng vô pháp lãnh ngộ. Do đó ẩn
cư ở núi sâu rừng thẳm, ngày đêm tọa thiền. Một hôm
ngồi đối diện khê cốc tĩnh tọa, bỗng nhiên cảm thấy
mình đạt tới cảnh giới vô tâm. Bèn giở sách xem lại công
án “Niêm hoa vi tiếu” nhưng vẫn không lãnh ngộ. Do đó
lại ngồi thiền tiếp cho đến sáng hôm sau, nghe tiếng nước
chẩy róc rách hoát nhiên đại ngộ.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Người học thiền phải nhờ vào chính tâm mình mà lãnh ngộ. Người khác chỉ nêu ra trường hợp chuyển cơ của người ấy không thể chỉ dạy phương pháp ngộ đạo cho ta vì tâm cảnh ngộ đạo mỗi người mỗi khác, cũng như uống nước sự cảm nhận nóng lạnh mỗi người mỗi khác.
1719.- Nó chẳng còn ở đây là gì ?
Mã
Tổ chỉ vịt trời bảo Bách Trượng :
-Bay
đi đâu vậy ?
-Bay
đi rồi.
Mã
Tổ bóp mũi Bách trượng. Bách Trượng hét lên :
-Đau
quá !
-Ông
nói bay đi rồi, nhưng nó chẳng còn ở đây là gì ?
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Nó ở đây là chỉ tâm Bách Trượng không phải là chỉ vịt trời. Bách Trượng tâm hướng ngoại, đi theo vịt trời. Mã Tổ bóp mũi khiến Bách Trượng bị đau kêu toáng lên là tâm đã quay lại với chính mình. (Xem chi tiết các công án 1041 và 1572).
1720.- Đói ăn, mệt ngủ.
Đời
Đường, Nguyên luật sư đến tham phỏng Đại Châu. Nguyên
luật sư đã lâu nghe danh Đại Châu đạo lực cao thâm, gặp
mặt liền hỏi :
-Thiền
pháp của thầy có đặc điểm gì không ?
-Đương
nhiên là có.
-Cứu
cánh là công phu gì ?
-Đói
ăn, mệt ngủ.
Nguyên
luật sư không hiểu hỏi lại :
-Mọi
người đều thế cả, có khác gì đâu ?
-Có
khác chứ !
-Khác
chỗ nào ?
-Người
đời lúc ăn không chỉ ăn còn nghĩ Đông, nghĩ Tây, lúc mệt
cũng không ngủ ngay, trằn trọc hết chuyện này tới chuyện
khác. Tôi khi đói thì chỉ ăn, mệt thì duỗi chân ngủ, đương
nhiên là khác rồi !
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Đói ăn, mệt ngủ là chỉ cho chúng ta cứ thuận theo tự nhiên mà hành động.
1721.- Lục bất thâu.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn :
-Pháp
thân là gì ?
-Lục
bất thâu.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Lục
ở đây là ý gì ? Là lục hợp hay lục thức, hay pháp thân
siêu việt vũ trụ, kiến văn chẳng thâu giác tri ? Nếu như
thiền nhân chỉ giải thích trên bề mặt của chữ như vậy
thì sẽ sa vào địa ngục nhanh như tên bắn. Thiền sư hét
lên 3 tiếng : lục, bất, thâu để diệt tự ngã. Tự ngã
diệt rồi tức đạt tới cảnh giới “không” hay “vô ngã”.
Khi đã triệt để tử vong rồi thì tự ngã sẽ sống lại
thành “hoạt pháp thân”. Lúc đó mới cảm nhận được
lục bất thâu của Vân Môn đã có pháp lực mở ra pháp nhãn.
(Xem
thêm công án 130)
1722.- Chẳng có công đức gì cả.
Lương
Võ Đế là một vị quốc vương yêu thích thiền học, hết
sức đề cao Phật pháp. Khi lên ngôi rồi, xây nhiều chùa
chiền, sửa sang đường xá, cầu cống, tạo phúc cho bá tánh.
Khi gập mặt, Lương Võ Đế hỏi Đạt Ma :
-Trẫm
hành thiện như thế đó, có công đức gì không ?
-Chẳng
có công đức gì cả.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Làm việc thiện phải xuất phát từ nội tâm, trong lòng không mong hồi báo. Dù có làm nhiều việc thiện đi chăng nữa cũng chỉ khiến ta ngụp lặn trong sinh hoạt thế tục, không thể giúp mình thoát ra được, chỉ có làm sao cho người ta liễu giải tự tánh thì đó mới là công đức tối cao vậy. (Xem thêm công án 1025)
1723.- Đợi trời sáng hãy đi.
Có
một lần Triệu Châu hỏi Đầu Tử :
-Khi
nói chết đi sống lại là có ý gì ?
-Đêm
tối không đi, đợi trời sáng hãy đi.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Chết đi ở đây không phải là chỉ chết đi nhục thể mà là trừ đi mọi nhị nguyên đối đãi. Trừ bỏ đi mọi chấp trước thì mới sản sanh tâm hoạt lực. (Xem thêm công án 54).
1724.- Tâm.
1/Thiền
sư Vinh Tây có nói :
-Tâm
bao hàm sâm la vạn tượng của trời đất, tâm là bản thể
thực tướng của vũ trụ.
2/Có
một lần thiền sư Triệu Châu bảo đại chúng :
-Tôi
có thể lấy một cọng cỏ làm gậy Hoàng kim một trượng
sáu, lấy gậy Hoàng kim một trượng sáu làm một cọng cỏ.
Đó là nói Phật là phiền não, phiền não là Bồ đề. (Xem
thêm công án 723)
3/Bạch
Ẩn lúc nhỏ rất sợ địa ngục, có thể nói ông xuất gia
vì muốn thoát khỏi địa ngục. Đến cuối đời ông ngộ
ra rằng địa ngục chính ở trong tâm. Ông phá được cái
chấp ấy mà giác ngộ.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Tâm
giống như nước, nước chứa ở đâu thì có hình dạng ấy.
Tâm bao hàm Phật tánh, trí tánh, cảm tình đồng thời cũng
phân biệt thiện ác, sạch bẩn, phiền não bồ đề, sâm la
vạn tượng. Thật tướng, hư tướng ra ra, vào vào tâm ta.
Khi ta chấp trước tâm liền hướng vào vật sở chấp ấy
mà sinh cảm tình, dục vọng. Khi cảm tình dứt thì tâm mới
được giải phóng, trở lại bản lai diện mục.
Tâm
chúng ta thời thời, khắc khắc chấp trước, hồi phục, chấp
trước hồi phục. Trong kinh Phật con người có 18 phiền não
căn bản : tham, sân, si, mạn, nghi. . . và 20 loại Tùy
phiền não : phẫn, hận, não, hại . . .
Người
tuy có nhiều phiền não nhưng nếu ta phản tỉnh triệt để
thì sẽ phát sinh trí tuệ.
Tâm
là thật tướng của vũ trụ vạn năng, tâm bao hàm địa ngục,
cực lạc, phiền não và bồ đề. Chỉ cần chúng ta từ tâm
bị trói buộc thoát ra biến phiền não thành bồ đề, siêu
việt địa ngục, cực lạc là Ta đã nắm được Phật tánh
của mình.
(Xem thêm công án 261)
1725.- Đại nhân không cãi lộn.
Có
người hỏi hòa thượng Bạch Ẩn :
-Chúng
ta quen nhau đã lâu, con chưa hề thấy thầy nổi giận, chẳng
lẽ thầy không biết tức giận sao ?
Bạch
Ẩn cười :
-Tôi
không phải là Địa Tạng Vương do đá đẽo thành, làm sao
lại không biết tức giận ? Chỉ là khi nổi giận không để
lộ ra bên ngoài thôi.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Trong mỗi người chúng ta đều ẩn tàng một con sư tử lông vàng. Vô sự thì không sao, nhưng khi có chuyện thì con sư tử này sẽ xông ra. Con sư tử này là Phật lực có thể giết người, đả thương người hay hòa mình cùng người sinh sống. Có thể điều phục được con sư tử này hay không là do công phu tu dưỡng có thành tựu hay không.
1726.- Cứ đi thẳng.
Dưới
chân Ngũ Đài Sơn có một bà lão mở quán bán trà. Có một
ông tăng đến đó hỏi thăm đường đi. Bà lão không chỉ
phương hướng chỉ nói một câu :
-Cứ
đi thẳng.
Ông
tăng y lời đi. Đi được vài bước thì nghe tiếng bà lão
cười nói :
-Tưởng
là một ông tăng có đạo hạnh, nào ngờ lại nghe lời của
một bà lão.
Ông
tăng này không hiểu ý bà lão, khi tới chùa bèn kể lại cho
Triệu Châu nghe. Triệu Châu đã nghe vài ông tăng khác thuật
lại cái kinh nghiệm đã trải qua như vậy, bèn quyết định
tự mình đi coi xem sao.
Ngày
hôm sau, Triệu Châu cũng giả đi hỏi đường và bà lão cũng
nói :
-Cứ
đi thẳng.
Triệu
Châu đi vài bước lại nghe tiếng bà lão cười và nhắc lại
câu nói cũ. Triệu Châu không tức giận, không mắc cỡ, cũng
không ngoảnh cổ lại, cứ đi thẳng về chùa. Về tới chùa
rồi, Triệu Châu bảo đại chúng :
-Tôi
đã vì các ông khám phá hàm ý của bà lão rồi !
Ngoài
ra không nói gì thêm.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Bà lão nói “Cứ đi thẳng” là khuyên các ông tăng chuyên tâm nhất ý cầu Phật đạo, đừng để ngoại cảnh sai xử, nếu bị người cười chê, chọc giận, cũng không bị sân hận làm lay chuyển lòng cầu Đạo. Con người là một động vật có cảm tính. Cảm tính dễ làm mất lý tính. Do đó, chúng ta nên nhớ kỹ lời bà lão :”Cứ đi thẳng”. Để cầu chân lý chúng ta phải vứt bỏ mọi sân hận đối với đối phương, hiểu biết đối phương, yêu thích ưu điểm của đối phương. Lấy ưu điểm của đối phương bổ túc cho khuyết điểm của mình. Nếu được vậy con người sẽ gần gũi nhau hơn, xã hội cũng không có đối lập tranh chấp. Đó mới là vượt qua đối phương và chính mình. (Xem thêm công án 111).
1727.- Bạch Ẩn.
Bạch
Ẩn mới đầu theo học thiền sư Tánh Triệt, trụ trì chùa
Anh Nham Tự. Một hôm đang ngồi thiền bỗng nghe tiếng chuông
chùa từ xa vẳng lại hoát nhiên đốn ngộ. Ông đem cảnh
giới này trình cho thiền sư Tánh Triệt, nhưng không được
thiền sư chấp nhận. Ông bèn rời bỏ Anh Nham Tự, trong lòng
đầy kiêu ngạo. Một hôm ông gập Chánh Thọ Lão Nhân, lúc
đó ông mới 24 tuổi, mạnh miệng bảo Chánh Thọ :
-Thiền
truyền sang Nhật Bản đã 300 năm rồi mà chẳng có ai ngộ
đạo như tôi cả.
-Ngộ
cái gì ? Nếu ông đã ngộ thì chữ “Vô” của Triệu Châu
ông giải thích thế nào ?
-Vô
là vô, vô pháp nắm được.
Bạch
Ẩn nghĩ rằng câu đáp của mình hay ho lắm, chẳng ngờ bị
Chánh Thọ bóp mũi :
-Ông
còn chưa đáp đúng.
Bạch
Ẩn bị đau, lùi lại vài bước. Chánh Thọ hãy còn giận
mắng :
-Ông
là đồ tăng chết dẫm trong động !
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Đối với một kẻ kiêu ngạo từ nhỏ như Bạch Ẩn đây là lần đầu tiên bị lăng nhục, giống như bị đá từ đỉnh núi lăn xuống đáy vực sâu, lúc đó Bạch Ẩn bỗng tỉnh ra, quyết định theo Chánh Thọ học tập, và cuối cùng đã giác ngộ.
1728.- Ông không biết leo núi.
Ngưỡng
Sơn hỏi một ông tăng mới đến :
-Vừa
từ đâu tới ?
-Lư
Sơn.
-Có
leo núi Ngũ Lão Phong không ?
-Không.
-Ông
không biết leo núi.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Ông
tăng coi việc tu hành và du hí là 2 chuyện khác nhau không thể
hòa làm một. Ngưỡng Sơn lại chủ trương tu hành tức du
hí. Người đời cứ coi công tác là nghĩa vụ nên không thấy
được ý nghĩa và lạc thú của công việc.
Sơn
Điền Vô Văn lão sư cũng từng nói :
-Làm
việc là du hí, khổ, vui, bi, hỷ là du hí, ngay cả đời người
cũng là du hí.
Chỉ
cần chúng ta gìn giữ tinh thần “tu hành là du hí” của
Ngưỡng Sơn vì công tác mà công tác, từ trong công tác khai
quật ra tiềm năng của mình thì mới hưởng được lạc thú
của công tác. (Xem thêm công án 166).
1729.- Mộc Đường.
Thiền
sư Mộc Đường trên đường hóa duyên bỗng nghe tiếng một
kỹ nữ gọi :
-Mộc
Đường hòa thượng, vào chơi rồi hãy đi.
Ông
ngạc nhiên không biết ai lại biết tên mình bèn hỏi lại
:
-Cô
là ai ? Sao biết tôi ?
Thì
ra cô gái đó là con một thí chủ. Cô nói trên đường toàn
là khách uống trà không có phiêu khách nên không kiếm được
tiền. Cô khẩn khoản mời hòa thượng bồi bạn với cô qua
đêm. Mộc Đường nhận định rằng vì có duyên nên mới
gặp gỡ bèn đồng ý vào kỹ viện. Nhưng ông không ngủ trên
giường với kỹ nữ mà ngồi thiền trên sàn nhà. Đến nửa
đêm, kỹ nữ không nhẫn nại được nữa, thỏ thẻ :
-Sao
thầy không lên giường ngủ với em ?
-Công
việc của cô là ngủ với người, công việc của tôi là
ngồi thiền. Đừng để ý đến tôi, hãy ngủ cho ngon giấc.
Hai
người qua đêm như vậy.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Người học thiền phải biết quý cái tâm tự nhiên của mình, không bị sắc giới, sanh tử, thiền cảnh trói buộc, tự do tự tại.
1730.- Tuyết đầy chén bạc.
Một
ông tăng hỏi thiền sư Ba Lăng :
-Đề
Bà Tông là thế nào ?
-Tuyết
đầy chén bạc.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Tuyết ở đây chỉ thiền, chén bạc chỉ Phật pháp. Dùng thiền để vào Phật pháp như đem tuyết đổ đầy chén bạc. Tuyết trắng che lấp chén bạc là phủ định chén bạc, phủ định Phật pháp. Trong quá trình phủ định cái sanh ra là chân lý của thiền. Mỗi người trong tâm đều có một vật đựng. Trước yêu mình rồi ái tâm sẽ thăng hoa mà yêu người. Đó là chân ái, đem lòng chí thành, chí chân mà quan tâm đến người. Phật pháp và thiền không có sai biệt, nếu có thì là đối lập, chỉ có hợp nhất mới là Phật pháp và Thiền. (Xem thêm công án 117).
1731.- Chính vấn chính đáp.
Có
ông tăng hỏi Động Sơn :
-Thế
nào là chính vấn, chính đáp ?
-Không
mở miệng.
-Nếu
có người hỏi, thầy có đáp không ?
-Chưa
có ai hỏi.
(Công
Án Thiền Cơ)
Ở
đây ông tăng hỏi là hỏi về thể tánh không. Thể tánh không
khi có nhân duyên tới thì cảm ứng, khi tâm không khởi động
niệm thì nhân duyên không tới. Dùng thể tánh không để hỏi,
làm sao hỏi ? Hỏi chân chính là không hỏi, chỉ có thể cảm
tri. Làm sao dùng thể không để cảm tri ? Cái cảnh giới đó
như thế nào ? Đó là lời dư thừa bởi vì hỏi không ra.
Vì sao ? Vì nói ra thì cảnh giới đó không còn là cảnh giới
đó nữa. Cho nên không thể nói, vì vậy Động Sơn mới bảo
:
-Không
mở miệng.
Ông
tăng không hiểu, lại đưa ra câu hỏi :
-Nếu
có người hỏi thì sao ?
Chính
vấn thì không hỏi vì không thể hỏi. Đương nhiên nếu không
hỏi thì không đáp. Tâm một khi khởi động niệm liền lìa
bản thể. Đối với câu ông tăng hỏi vì chưa có người
chính vấn đặt câu hỏi nên thiền sư đáp :
-Chưa
có ai hỏi .
Người
kiến tánh không hỏi, vì hỏi là lìa bản thể không, không
phải là chính vấn nữa.
1732.- Đầu gậy trăm trượng bước thêm bước nữa.
Tông
Phong là tổ sư khai sơn Đại Đức Tự. Mới đầu cắt tóc
xuất gia ở Vạn Thọ Tự, chăm chỉ học tập Phật pháp,
sau khi ngộ rồi lại theo thiền sư Thiệu Minh khắc khổ ma
luyện. Thường các vị thiền sư giác ngộ rồi thì ở lại
chùa giáo hóa đồ đệ, nhưng Tông Phong thì lại lìa Vạn
Phật Tự. Ông ẩn cư ở Vân Cư Am cùng sinh hoạt với bọn
ăn mày ở Ngũ Đại Kiều và giảng Phật pháp cho bọn họ.
Trải 20 năm như vậy, một hôm ông được Thiên Hoàng triệu
kiến. Khi gập mặt, Thiên Hoàng bảo ông :
-Phật
pháp vô biên không thể nghĩ bàn, một gã ăn mày đối tọa
với Thiên Hoàng.
Ông
trả lời ngay :
-Vương
pháp không thể nghĩ bàn, Thiên Hoàng đối diện với Phật
pháp.
Thiên
Hoàng thấy Tông Phong đối với uy nghi của Hoàng Đế mà vẫn
thản nhiên không hề khiếp phục thì rất kính phục.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Đối
với câu nói của Thạch Sương :
-Đầu
gậy trăm trượng làm sao bước thêm bước nữa ?
Trường
Sa trả lời :
-Đầu
gậy trăm trượng, bước bước nữa
Đại
thiên thế giới hiện toàn thân.
Đã
leo tới đầu gậy là đã đạt ngộ. Ngộ đạo rồi nên tiến
lên cảnh giới cao hơn là lìa đầu gậy bước vào thế giới
hiện thực, một là để đào luyện đạo lực của mình,
hai là để cứu độ chúng sanh. Sinh hoạt của thiền sư Tông
Phong chính là như vậy. (Xem thêm công án 275).
1733.- Không màng danh lợi.
Khai
sơn tổ sư của tông Tào Động Nhật Bản là Đạo Nguyên.
Cả đời ông không hề chạy theo danh lợi. Khi Đạo Nguyên
du học ở Trung Quốc, ngộ đạo rồi, từ biệt Như Tĩnh về
nước. Như Tĩnh bảo :
-Phen
này ông về Nhật Bản, tuyên dương Phật pháp, khai hóa dân
tâm, đừng sống ở nơi thành thị, đừng thân cận các vị
quan lớn, cứ sống ở nơi rừng sâu, núi thẳm mà dạy dỗ
học trò.
Đạo
Nguyên y lời dạy, trở về nước mới đầu cư ngụ ở kinh
đô. Về sau danh tiếng càng cao bèn rời về làng Vũ Trị dạy
học và hoàn thành tác phẩm Chánh Pháp Nhãn Tạng. Ông từng
nói :
-Học
tập Phật đạo là học tập chính mình. Học tập chính mình
là quên đi chính mình, quên đi chính mình là chứng minh vạn
pháp, chứng minh vạn pháp là thoát ly chính mình.
Danh
càng cao thì càng nhiều phiền nhiễu, ông bỏ Vũ Trị di chuyển
đến nơi xa xôi hơn, lập nên Vĩnh Bình Tự. Chính quyền Mạc
Phủ vời ông đến Liêm Thương, ông vâng lời. Nửa năm sau
ông lại trở lại Vĩnh Bình Tự. Trong khi ông vắng mặt đệ
tử Huyền Minh nhận 2000 thạch do Mạc Phủ hiến tặng. Đạo
Nguyên biết chuyện này rất tức giận, mắng đệ tử :
-Ông
là đồ thối tha mới nhận tiền của người, tôi bình sinh
chưa hề thuyết pháp vì danh hay lợi. Ông nghe theo lời của
người quyền thế vọng cầu danh lợi là giặc của Phật.
Nói
rồi đuổi Huyền Minh ra khỏi chùa, đoạn tuyệt quan hệ.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
1734.- Một bài Thiền thi của Hoa Đình Thuyền Tử.
天
尺 絲 綸 直 下 垂
Thiên
xích ty luân trực hạ thùy
一
波 才 動 萬 波 隋
Nhất
ba tài động vạn ba tùy
夜
靜 水 寒 魚 不 食
Dạ
tĩnh thủy hàn ngư bất thực
滿
船 空 載 月 明 歸
Mãn
thuyền không tải nguyệt minh quy.
Buông
xuống dây câu dài ngàn thước
Một
sóng vừa động, vạn sóng theo
Đêm
tĩnh nước lạnh cá không đớp
Thuyền
không chỉ chở ánh trăng gieo.
(Thiền
Môn Khai Ngộ Thi)
1735.- Linh hồn.
Thiền
sư Bạch Ẩn lúc nhỏ có lần bị một loại thiền bệnh là
do tinh thần suy nhược mà ra. Lúc đó sư phụ ông bị bệnh
liệt giường, ông phải túc trực hầu hạ bên mình. Ban ngày
hầu hạ sư phụ, ban đêm tọa thiền niệm Phật. Trải mấy
tháng trời như vậy, một hôm trong khi ngồi thiền ông thấy
xuất hiện một đầu mèo to bằng bánh xe bò. Ông hoảng sợ,
nhưng định tâm lại không thèm để ý đến nữa. Một lúc
thì đầu mèo biến mất. Lại một hôm khác, đang ngồi thiền,
ông bỗng thấy mình nhẹ bỗng, thấy mình bay khỏi Điền
Vũ Thành, bay qua Năng dã sơn rồi dọc theo ven biển Ký Châu.
Bạch Ẩn kinh hoàng hét lớn :
-Không
thể thế được !
Tiếng
hét này làm tâm ông trở lại bản thể. Bạch Ẩn liền hiểu
rằng linh hồn là do ý niệm sinh ra.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Khẳng định có linh hồn là thường kiến, phủ định có linh hồn là đoạn kiến. Thiền là vượt lên thường kiến và đoạn kiến, chỉ coi trọng hiện tại.
1736.- Bài kệ của Đông Sơn Huệ Không.
梁
魏 山 河 本 太 平
Lương
ngụy sơn hà bản thái bình
無
端 容 此 老 狐 精
Vô
đoan dung thử lão hồ tinh
九
年 皮 髓 分 張 盡
Cửu
niên bì tủy phân trương tận
隻
履 空 棺 更 誑 人
Chích
lý không quan cánh cuống nhân.
Đất
nước Lương Ngụy vốn thái bình
Vô
cớ lại chứa lão Hồ tinh
Chín
năm chia hết da và tủy
Bỏ
dép trong hòm dối chúng sanh.
(Thiền
Môn Khai Ngộ Thi)
Đây
nhắc lại tích Đạt Ma quẩy một chiếc dép về Tây, khi đi
ngang qua ngọn Thông Lãnh thì gặp Tống Vân đi sứ trở về.
Vân hỏi :
-Thầy
đi đâu ?
-Tôi
về Tây Phương.
Khi
gặp vua, Vân kể lại câu chuyện trên, vua sai quật mả Tổ
lên thì chỉ thấy một chiếc dép. (Xem thêm công án 442)
1737.- Bài kệ của ni sư Vô Trước.
殺
活 并 行
Sát
hoạt tịnh hành
醍
醐 毒 藥
Đề
hồ độc dược
是
賞 是 罰
Thị
thưởng thị phạt
一
任 卜 度
Nhất
nhậm bốc độ
Thi
hành cứu, giết
Thuốc
độc, đề hồ
Là
thưởng hay phạt
Do
ông tự lo
(Thiền
Môn Khai Ngộ Thi)
Đây
là phê bình câu nói của Đức Sơn :
Nói
được hay không cũng đánh ông 30 gậy.
Dù
đáp được hay không, Đức Sơn đều đánh. Vì sao ? Đây không
phải là thưởng hay phạt mà là xem trình độ hư thực của
ông tăng thế nào .
1738.- Nhận giả làm chân.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng :
-Mặt
trời, mặt trăng chưa sáng, Phật và chúng sanh ở đâu ?
-Thấy
lão tăng giận nói giận, Thấy lão tăng vui nói vui.
(Công
Án Thiền Cơ)
Lời
giải thích ở đây bổ túc cho lời giải thích ở công án
69. Chúng ta sống trong thế giới này thường nhận giả làm
chân, cứ nhận rằng những gì mình nhìn thấy, nghe thấy là
thật. Người chưa giác ngộ, Phật tánh bị vọng tưởng tập
khí che lấp.
Thường
trong thiền học người ta lấy mặt trời, mặt trăng, tinh
tú để chỉ các thức 8, 7, 6 .
Khi
mặt trời (8) sáng chỉ ánh sáng của trí tuệ hiển hiện,
chiếu phá tất cả phiền não, tình kiến. Khi trăng (7) sáng
thì tâm không vọng chấp, những chủng tử của A Lại Da Thức
là thật mà lạc vào ảo cảnh. Khi tinh tú (6) sáng thì tâm
không còn phân biệt ngoại cảnh nữa. Ba thức này tạo nên
nghiệp lực của chúng ta. Vì vậy cần mặt trời, mặt trăng
sáng để khống chế hành vi của thức thứ 6, vĩnh viễn thoát
khỏi phiền não, chứng đắc vô thượng Bồ đề.
Giận
là cái gì ? Chỉ là tướng bên ngoài. Nội tâm thiền sư có
giận không ? Phật tánh như như bất động có giận không?
Phật tánh không nổi giận, nổi giận là tập khí. Chúng ta
thấy cổ tăng đại đức thường nổi giận để độ chúng
sanh, kỳ thật nội tâm họ như như bất động. Cũng như trong
công án này thấy lão tăng giận nói giận, vui nói vui, đó
chỉ là nhìn quả không nhìn thấy nhân. Thể tánh của chúng
ta là cái gì ? Là vô lậu công đức, có vô lậu công đức
tướng làm sao có thể nổi giận ? Phiền não, tham, sân, si
? Không thể được ! Nhân vì si là không nhận thức được
nhân quả. Thể tánh sao lại không nhận thức được nhân
quả chứ.
1739.- Bài kệ của Phật Huệ.
出
門 便 是 太 忙 然
Xuất
môn tiện thị thái mang nhiên
萬
里 無 來 未 得 圓
Vạn
lý vô lai vị đắc viên
欲
識 山 家 門 去 路
Dục
thức sơn gia môn khứ lộ
暮
煙 輕 鎖 綠 綿 綿
Mộ
yên khinh tỏa lục miên miên
Cứ
ra khỏi cửa là mịt mùng
Vạn
dậm không đi, chuyện chẳng cùng
Muốn
biết con đường ra khỏi cửa
Khói
lam chiều nhẹ nhẹ vờn không.
(Thiền
MônKhai Ngộ Thi)
Phật Huệ nhắc đến công án “ra cửa liền là cỏ.” (Xem công án 668)
1740.- Bốn bà vợ.
Một
hôm, Đức Phật kể cho đại chúng nghe một câu chuyện cổ
:
-Ngày
xưa, có một vị phú thương có 4 bà vợ.
Bà
thứ 1 : lanh lợi, đáng yêu, luôn ở bên cạnh.
Bà
thứ 2 : do ông chiếm đoạt về, rất xinh đẹp.
Bà
thứ 3 : giúp đỡ ông trong sinh hoạt.
Bà
thứ 4 : vì suốt ngày đêm đôn đáo việc này việc nọ, ông
ta hầu như quên hẳn sự tồn tại của bà này.
Một
lần phú thương định đi xa, hành trình rất gian khổ. Ông
định đem theo một bà vợ đi cho có bạn. Ông ngỏ ý với
các bà.
Bà
thứ 1 :
-Ông
cứ đi đi, tôi không theo đâu !
Bà
thứ 2 :
-Tôi
bị ông chiếm đoạt về, không phải là tự nguyện, tôi không
đi.
Bà
thứ 3 :
-Tôi
không chịu được gian khổ, cùng lắm đưa ông ra tới cổng
thành thôi.
Bà
thứ 4 :
-Dù
ông đi đâu tôi cũng theo, vì tôi là vợ ông.
Do
đó, ông đem bà thứ 4 theo.
Kỳ
thật, phú thương là chúng ta. Bà thứ 1 là thân xác ta, khi
chết ta không mang theo được. Bà thứ 2 là tiền bạc do ta
kiếm về, sanh không mang đến, chết chẳng thể đem theo được.
Bà thứ 3 là bạn bè. Bà thứ 4 là tự tánh.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Tự tánh vĩnh viễn đi theo ta. Chúng ta phải gìn giữ tâm điền để cho sự sinh hoạt trở về thuần phác.
1741.- Bài kệ của Thảo Đường :
不
是 心 兮 不 是 佛
Bất
thị tâm hề bất thị Phật
黃
檗 喚 出 是 何 物
Hoàng
Bá hoán xuất thị hà vật
裴
公 從 此 認 虛 名
Bùi
công tòng thử nhận hư danh
天
下 納 僧 跳 不 出
Thiên
hạ nạp tăng khiêu bất xuất.
Chẳng
phải tâm hề, chẳng phải Phật
Hoàng
Bá gọi là vật gì à ?
Bùi
công từ đó nhận tên ấy
Nạp
tăng thiên hạ đố nhẩy ra.
Thảo
Đường nhắc đến công án đặt tên tượng Phật của Bùi
Hưu.
(Xem
công án 607)
1742.- Sanh tử.
Một
ông tăng hỏi Mật thiền sư :
-Xin
hỏi thầy ý nghĩa sanh tử ở chỗ nào ?
-Ông
sanh lúc nào, chết lúc nào ?
-Con
không hiểu ý thầy.
-Nếu
không hiểu thì chết đi coi thử !
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Nghe
nói Bạch Ẩn có nói :
-Chúng
sanh nếu không muốn chết, hiện tại hãy chết thử coi, đã
chết một lần rồi thì sẽ không chết nữa.
Chúng
ta thường phân sanh tử ra làm 2, coi mỗi thứ là một trạng
thái, kỳ thật đó chỉ là bề ngoài. Thiền pháp khuyên chúng
ta phải chú ý xem trong sanh có tử để vượt lên cảnh giới
sanh tử.
1743.- Ý Tổ sư từ Tây sang.
Một
ông tăng hỏi Khánh Chư :
-Thế
nào là ý Tổ sư từ Tây sang ?
-Một
phiến đá trong không ?
Ông
tăng lạy, sư hỏi :
-Ông
hiểu không ?
-Dạ
không !
-May
mà ông không hiểu, nếu không tôi đã đánh vỡ đầu ông
rồi !
(Công
Án Thiền Cơ)
Công
án “Ý Tổ sư từ Tây sang” là một công án mà các ông
tăng mới học, không ai là không tham. Bởi vì mới học nên
không biết 3 nghiệp : thân, khẩu, ý làm sao tu, làm sao
dứt. Thiền sư thấy ông tăng không đặt một câu hỏi thiết
thực liền tùy tiện đưa ra một câu trả lời để bịt miệng
ông , tâm ông, khiến ông không vọng tưởng nữa. Giả như
thiền sư nói : Tổ sư từ Tây sang là vì thấy Trung thổ có
dấu vết Đại Thừa hiện khởi, nên đem giáo pháp chỉ thẳng
tâm người, thấy tánh thành Phật mà truyền v. v. Giảng như
thế chỉ khiến người học đã mê càng mê thêm, không giải
thoát được. Tổ sư từ Tây sang để làm gì ? Đây là một
sự kiện thực về hiện tượng giới. Khánh Chư trả lời
:
-Một
phiến đá trong không.
Nếu
muốn giải thích thì có thể nói không trung là hư không, không
một vật; ông tự nhiên ảo tưởng thành một phiến đá.
Đó là từ thể tánh thanh tịnh vô sự lại đi tìm sự, lấy
câu “Ý Tổ sư “ mà vọng tưởng. Đó chính là trăng trong
nước, hoa đốm trong không, không phải là thật, vì vọng
tưởng của ông mà từ không thành có. Ý Tây sang chẳng liên
quan gì đến ông cả. Ông không đề cập đến những cảnh
giới của quá trình tu hành mà động niệm vọng tưởng, trình
ra những lời vô ý nghĩa. Tôi tùy tiện đáp là bịt miệng
ông, không cho ông loạn tưởng.
Ông
tăng nghe không hiểu bèn lạy. Lạy là ngụ ý cám ơn, là đã
ngộ rồi, nên thiền sư mới hỏi :
-Ông
hiểu không ?
-Dạ
không !
Con
suy nghĩ, phân tích mãi mà vẫn không hiểu “một phiến đá
trong không” là ý gì ?
-May
mà ông không hiểu, nếu không tôi đã đánh vỡ đầu ông
rồi !
Câu
hỏi này là câu hỏi của người sơ cơ, nếu ông là người
sơ cơ thì mới hỏi câu này, còn như người đã tham lâu rồi
thì không bị tôi đánh vỡ đầu mới là lạ !
Đối
với mọi cảnh giới, chúng ta đều bỏ xuống, không dùng
tập khí mà ứng duyên, đó là lấy bất biến ứng vạn biến
vậy.
1744.- Chém vô minh.
Một
ông tăng hỏi Toàn Hoát :
-Kiếm
sắc chém thiên hạ, ai là kẻ rơi đầu ?
-Ám.
Ông
tăng lại hỏi, sư nói :
-Gã
độn căn này, đi ra !
(Thiền
Cơ)
Kiếm
sắc trong câu hỏi của ông tăng là loại xuy mao kiếm, là
loại kiếm sắc bén không những chặt đứt vật dắn (tập
khí thô), mà những vật mềm (tập khí tế) cũng chặt đứt
luôn, như để sợi lông trên mũi kiếm, thổi phù một cái
là sợi lông đứt làm 2 đoạn.
Kiếm
sắc ở đây là dụ cho trí huệ Bát Nhã, chặt đứt hết
nghiệp duyên phiền não của chúng ta. Đầu ai bị rơi ? (Người
bị chém là ai, Là vật gì ?) Toàn Hoát trả lời Ám, là chỉ
vô minh. Tại sao thánh nhân có thể dùng kiếm sắc chặt đứt
vô minh, còn chúng ta thì không ? Đó là bởi vì khi chúng ta
gập chuyện thì tâm hoảng, ý loạn, chủ yếu là vì tâm ta
chấp trước. Tỷ như có tâm tham lợi, có tham thì có kỳ
vọng. Có kỳ vọng là có tâm được mất, gập chuyện dĩ
nhiên là không bỏ xuống được. Ông tăng lại hỏi vì không
hiểu thiền cơ. Thiền sư đuổi ông ra vì ông ta chưa có tuệ
nhãn, cần tham thiền nhiều hơn nữa để nhờ giới định
mà sinh huệ. (Xem thêm công án 1493)
1745.- Rùa đá nói rồi.
Một
ông tăng hỏi Cơ Độn Chứng Không :
-Thế
nào là Ý Tổ sư từ Tây sang ?
-Đợi
rùa đá nói, tôi sẽ bảo ông.
-Rùa
đá nói rồi.
-Nói
gì với ông vậy ?
(Công
Án Thiền Cơ)
Tổ
sư Đạt Ma tới Trung Thổ có mục đích gì ? Chẳng phải là
đem giáo pháp chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật,
giới thiệu cho người Trung Hoa sao ? Trung Hoa lúc đó đã có
thiền, nhưng là thế gian thiền. Đạt Ma vì thấy Trung Hoa
có khí tượng Đại Thừa mới ứng duyên đến truyền pháp.
Ông tăng còn vọng tưởng nên mới hỏi. Người có minh nhãn
không hỏi vì chân lý không thể diễn tả bằng lời, dùng
lời gì để nói ? Vì vậy thiền sư mới bảo :
-Đợi
rùa đá nói, tôi sẽ bảo ông .
Ông
tăng cố nài thiền sư, nói :
-Rùa
đá nói rồi !
Nếu
thiền sư bảo cho ông tăng câu trả lời thì có ích gì cho
ông ta không ? Chi bằng để cho ông ta tự đối diện với
vấn đề thì mới thực sự có ý nghĩa. Ông tăng tâm còn
phù động, công phu chưa đủ, thiền sư khuyên ông nên giới
ngữ thì có thể nhập đạo, vì vậy nên mới hỏi lại :
-Nói
gì với ông vậy ?
(Xem
thêm công án 68)
1746.- Đừng vin vào duyên.
Đỉnh
Châu Đức Sơn sai thị giả gọi Tuyết Phong Nghĩa Tồn. Tuyết
Phong tới, thiền sư bảo :
-Tôi
kêu Nghĩa Tồn ông tới làm gì ?
Tuyết
Phong không trả lời được.
(Công
Án Thiền Cơ)
Đức
Sơn sai thị giả đi gọi Tuyết Phong. Thị giả bảo :
-Tuyết
Phong sư phụ gọi ông.
Sư
phụ gọi, đương nhiên ông phải tới. Công án này kể một
câu chuyện nhỏ : Đức Sơn sai thị giả gọi Tuyết Phong tới,
không phải là có chuyện gì mà là chỉ cho ông đừng ứng
duyên. Tôi sai người gọi ông đến, ông lại đến thật.
Ông đến làm gì ? Có quan hệ gì đến ông ? Nếu là người
chân tu thì ông cứ mặc sư phụ gọi, đó là biểu thị tâm
ông không bị động, lúc đó sư phụ sẽ khen :
-Được
lắm ! Tâm ông có thể như như không động.
Nhưng
nếu sư phụ không phải là thiền sư thì sẽ nói :
-Tôi
kêu ông tới, sao ông dám không tới ? Trong mắt ông tôi còn
là sư phụ chăng ?
Do
đó, thiền tông yêu cầu thiền sinh phải đào luyện tâm như
tường đồng, vách sắt không theo duyên mà ứng, không bị
chướng ngại làm cho phiền não. Cứ chạy theo cảnh mà sinh
tâm thì làm sao mà nhập đạo ? Vì vậy người mới tu nên
xả thức dụng căn, không động niệm vin lấy duyên. Cho nên
khi niệm Phật hay khi ngồi thiền, một niệm khởi lên không
kể là thật hay giả chỉ thoáng biết qua rồi thôi, không
chạy theo nó.
1747.- Đi rửa bát đi
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu ;
-Thế
nào là tự kỷ của con ?
-Ông
đã ăn cháo chưa ?
-Dạ
! Đã .
-Đi
rửa bát đi !
(Công
Án Thiền Cơ)
Công
án này đề cập đến ngộ (ăn cháo) và tu tập (rửa bát) để chứng ngộ. Từ ngộ đến chứng ngộ là một con đường
rất xa. Lục tổ sau khi ngộ, ẩn cư ở nơi rừng sâu, núi
thẳm, sống lẫn lộn cùng đám thợ săn 15 năm để tu tâm
dưỡng tánh rồi mới ra hoằng dương Phật pháp. Một ông
tăng đã ngộ, hỏi Triệu Châu :
-Cái
nào là tự kỷ của con ? Con đang ở đâu ?
Tự
kỷ ở đây không phải là chỉ nhục thể, cái sắc thân quả
báo cũng không phải là tâm mà là cái thể chân chánh. Thầy
nói minh tâm là có thể kiến tánh, vậy tại sao con không nhận
thức được tự tánh ?
Triệu
Châu hỏi :
-Ông
đã ăn cháo chưa ?
Muốn
nhận biết bản lai diện mục, hãy tự hỏi mình đã thực
sự ngộ chưa ? Ăn cháo là chỉ khai ngộ.
-Dạ,
đã !
Con
đã ngộ rồi nhưng chưa thấy tự kỷ.
Người
khai ngộ bồ đề tự tánh và thiên nghiệp lưu thức (遷 業流
識) cùng hiện, do đó không thấy được tự tánh, không biết
tự tánh là cái gì ? Ăn cháo xong thì phải rửa bát vì đồ
dơ chính là nghiệp thức đã được huân tập, nghiệp thức
sạch rồi thì tự tánh tự nhiên hiển lộ. (Xem thêm công
án 1029)
1748.- Nghe mà chẳng biết.
Có
ông tăng hỏi Trí Thường :
-Thầy
có phương tiện nào chỉ cho con đường vào không ?
-Quán
âm diệu trí lực, có thể cứu khổ thế gian.
-Thế
nào là quán âm diệu trí lực ?
Thiền
sư gõ vào đỉnh 3 lần, hỏi :
-Ông
nghe không ?
-Dạ,
nghe.
-Sao
tôi lại không nghe ?
Ông
tăng không trả lời được, sư đánh đuổi ra.
(Công
Án Thiền Cơ)
Phật giáo có tám vạn bốn ngàn pháp môn, biết cửa nào là khế cơ có thể vào ? Ông tăng xin Trí Thường chỉ cho ông đường vào Đạo. Thiền sư chỉ cho ông pháp “Nhĩ căn viên thông” của Bồ tát Quán Thế Âm. Thiền sư gõ vào đỉnh : đinh, đinh, đinh, hỏi : “Ông có nghe không?” và “Sao tôi lại không nghe?” là chỉ cho ông tăng phải xả thức dụng căn, đừng phan duyên vào tiếng mà khởi tâm phân biệt. Thiền sư nói : sao tôi lại không nghe, là nói về thể tánh. Khi thanh âm tới tai thì thức thứ 6 liền khởi phân biệt, tiếng nhỏ, tiếng to, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng du dương đáng yêu, tiếng chát chúa đáng ghét v . v . thức thứ 8 cũng nghe nhưng không khởi phân biệt.
1749.- Dùng roi chăn trâu.
Trường
Khánh Đại An đến tham phỏng Bách Trượng, lạy rồi thưa
:
-Con
muốn thành Phật, Phật là thế nào ?
-Giống
như cưỡi trâu mà tìm trâu .
-Thấy
rồi thì sao ?
-Như
cưỡi trâu đã về tới nhà.
-Làm
sao để bảo nhiệm ?
-Như
người chăn dùng roi không cho trâu ăn lúa ruộng người.
(Công
Án Thiền Cơ)
Đại
An khai ngộ nhưng không biết làm sao bảo nhiệm để thành
tựu Phật đạo. Bách Trượng bảo ông :
-Giống
như cưỡi trâu mà tìm trâu.
Ông
đã thấy vết chân trâu (ngộ) muốn tìm ra trâu (chứng ngộ),
nếu ông dùng sắc tướng mà tìm Phật thì tìm không ra đâu
!
-Vậy
phải làm sao ?
-Như
cưỡi trâu đã về tới nhà.
Sau
khi đã thuần phục được dã tánh của trâu rồi thì có thể
cưỡi nó về nhà.
-Nhưng
làm sao bảo nhiệm ?
-Như
người chăn dùng roi đừng để trâu ăn lúa ruộng người.
Khi
khởi tâm động niệm liền tạo ra nghiệp, cho nên thời thời
khắc khắc đều phải tu. Tâm địa chúng ta là đại đạo
trường. Ngày hôm nay có chuyện gì ? người đó nói câu gì
? chúng ta phản ứng ra sao ? Tâm chúng ta phải thanh tịnh nếu
chúng ta phản ứng thì chúng ta phải điều chỉnh. Đó mới
là chân chánh tu hành.
1750.- Thấy núi xanh đi.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Khi
thấy núi xanh thường đi, ai biết trong đêm đá trắng sanh
con.
Nói
rồi xuống tòa giảng.
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Nguyên câu nói này là của Phù Dung Đạo Giai trong Phổ Đăng Lục : Núi Xanh thường đi, ban đêm thạch nữ sanh con. Trong tắc này Đạo Nguyên đổi thành đá trắng. Trong thế giới tuyệt đối , núi xanh và chúng ta là một, siêu việt hết tất cả tư lượng.
1751.- Ca Diếp đạp bùn.
Sư
thượng đường kể :
-Xưa,
khi ngài Ca Diếp đạp bùn để xây tường, một sa di hỏi
:
-Tôn
giả, sao lại làm việc này ?
-Nếu
tôi không làm thì ai làm cho tôi ?
Đạo
Nguyên thêm :
-Tâm
như cái quạt trong tháng 12, thân như đám mây trong hang lạnh.
Nếu hiểu được ý “tôi làm” trong câu nói của tôn giả
thì không có nhị kiến ta người. Hành vi của tôn giả như
bức tường sắt, sừng sững khiến người khó thấy.
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Do công án này có thể thấy Thiền tông rất đề cao lao động. Bách Trượng cũng có nói : “Một ngày không làm, một ngày không ăn”.
1752.- Phật tánh.
Sư
thượng đường nói :
-Tôi
nhớ có một ông tăng hỏi Triệu Châu như sau :
-Thế
giới chưa có, tánh này đã có. Thế giới diệt rồi, tánh
này không diệt. Tánh bất hoại này là gì ?
Triệu
Châu đáp :
-Tứ
đại, ngũ uẩn.
-Vẫn
bị hoại, cái gì không hoại ?
-Tứ
đại, ngũ uẩn.
Đạo
Nguyên nói :
-Triệu
Châu cổ Phật chỉ biết nghiêm khắc, nhưng chẳng khoan dung,
còn Vĩnh Bình tôi sẽ nói : “Nước sâu thuyền cao, bùn nhiều
Phật lớn”.
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Tuy hình thể vô thường, theo thời gian mà tiêu diệt, nhưng Phật tánh trong chúng ta thì bất diệt.
1753.- Ngày giỗ Như Tĩnh.
Ngày
giỗ Như Tĩnh, Đạo Nguyên thượng đường nói :
-Tôi
đến Trung Quốc vào đời Tống, theo Như Tĩnh học Phật pháp
như người tới Hàm Đan học đi đứng, chỉ học được mắt
ngang, mũi dọc. Chớ nói Như Tĩnh dấu người học mà là Vĩnh
Bình tôi lừa Như Tĩnh.
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Ở đây Đạo Nguyên đề cập đến chuyện trong Thu Thủy Thiên (một thiên trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử) kể rằng người ở Hàm Đan (kinh đô nước Triệu đời chiến quốc, nay thuộc tỉnh Hà Bắc) đi đứng rất tao nhã, lịch sự. Người ở các nơi đến học tập, kết quả là chưa học được cách đi đứng mới mà đã quên cả cách đi đứng cũ, phải bò mà về xứ. Đạo Nguyên đưa ra tỷ dụ này để chỉ rằng ông theo Như Tĩnh, Phật pháp chưa học được tốt mà những gì tu học lúc trước đều đã quên cả.
1754.- Rửa bát quét nhà.
Một
ông tăng mới vào thiền viện hỏi Triệu Châu :
-Con
mới vào thiền viện, xin thầy đặc biệt chỉ thị.
-Ông
đã ăn sáng chưa ?
-Dạ
! Đã ăn rồi .
-Vậy
sao ? Hãy đi rửa bát đi.
-Đã
rửa sạch sẽ rồi.
-Vậy
đi quét nhà đi.
Ông
tăng lộ vẻ bất mãn :
-Chẳng
lẽ ngoài rửa bát quét nhà ra thầy không còn thiền pháp nào
sao ?
-Ngoài
rửa bát quét nhà ra, tôi chẳng còn biết thiền pháp nào nữa.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền không lìa sinh hoạt. Mặc áo, ăn cơm là thiền, bổ củi, xách nước là thiền. Một người không lo sinh hoạt cho tốt : bát không rửa, nhà không quét thì làm sao giải quyết được vấn đề sanh tử giải thoát ? (Xem thêm công án 1073)
1755.- Cá nhỏ nuốt cá lớn.
Đạo
Nguyên thượng đường nêu công án một ông tăng hỏi Nham
Đầu :
-Buồm
cũ chưa treo thì thế nào ?
-Cá
nhỏ nuốt cá lớn.
Nếu
các ông muốn biết ý nghĩa của công án này thì hãy nghe bài
kệ của Vĩnh Bình tôi :
小
魚
吞 大 魚
Tiểu
ngư thôn đại ngư
和
尚 讀 儒 書
Hòa
thượng độc nho thư
透
出 佛 魔 網
Thấu
xuất Phật ma cương
法
塵 也 掃 除
Pháp
trần dã tảo trừ.
Cá
nhỏ nuốt cá lớn
Hòa
thượng đọc sách Nho
Ra
khỏi lưới ma, Phật
Là
sạch hết bụi nhơ.
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Đạo Nguyên nêu công án này để thuyết minh chân lý vượt lên, Nho, Phật, ngay cả Phật cũng không chấp.
1756.- Chưa đủ.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Ngày
nay trong chư vân thủy huynh đệ có ai ngộ không ?
-Có
ông tăng bước ra lạy.
-Có
loại người này nhưng vẫn chưa đủ.
-Chưa
đủ ở chỗ nào ?
-Ông
không biết sao ? Là không tin đạo. Một người chân chính
ngộ đạo, tâm không phụ người, mặt không sắc thẹn.
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Tin đạo và thấy đạo đồng nghĩa. Không tin đạo thì không thấy được đạo lý.
1757.- Đông Ấn quốc vương.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Đông
Ấn quốc vương mời tôn giả Bát Nhã Đa La thọ trai. Vương
hỏi :
-Mọi
người đều tụng kinh, thầy vì sao không tụng ?
-Bần
đạo thở ra không theo chúng duyên, hít vào không ở ấm giới,
thường chuyển trăm ngàn vạn ức quyển kinh.
Ai
có thể nói ra đạo lý ảo diệu của tôn giả ?
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Đạo Nguyên nêu công án này để thuyết minh tụng kinh chân chính là lãnh hội đạo lý tự nhiên của trời đất.
1758.- Phật Pháp.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Bỗng
nghe 2 tiếng Phật pháp làm bẩn cả tai tôi, các ông chưa tới
Pháp đường đã bị ăn 30 gậy rồi. Tuy là vậy, sư núi này,
hôm nay cũng vì các ông mà tận tâm nói pháp.
Nói
rồi Đạo nguyên hét lên một tiếng, xuống tòa giảng.
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Phật pháp là chân lý tối thượng, nếu lấy đó làm đối tượng chấp trước thì chân lý không còn là chân lý nữa.
1759.- Không từ ngoài tới.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Không
từ ngoài tới, không từ trong ra, đối mặt chỉ vẫy tay một
cái mọi việc đều được giải quyết, đâu cần nhọc công
truy vấn. Đó chính là trí tuệ Bát Nhã vậy.
(Đạo
Nguyên Ngữ Lục)
Đây là Đạo Nguyên giảng về Phật tánh.
1760.- 500 vị A La Hán.
500
vị A La Hán cùng tu với Đức Phật. Các vị này đều chứng
ngũ thông, chỉ còn Lậu Tận Thông là chưa chứng thôi. Các
vị này dùng trí thần thông mà quán sát chính mình thì thấy
trong quá khứ hoặc giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá
hòa hợp tăng v . v . toàn là những đại tội. Dùng Túc Mạng
thông, họ thấy kiếp này phạm tội gì, kiếp kia phạm tội
gì, tội nghiệp vô lượng, vô biên. Lòng đầy mặc cảm tội
lỗi, họ rất sợ hãi, cùng rủ nhau đến bạch Phật :
-Thế
Tôn ! Ngài giảng rất nhiều pháp, nhưng chúng con vẫn chưa
đạt được cứu cánh. Tại sao chúng con tự mình quán sát
những nhân duyên trong quá khứ, nội tâm không siêu việt được
mà còn phát sinh ra những cảm giác tội lỗi, sợ hãi ?
Lúc
đó Văn Thù Sư Lợi đang ngồi bên Phật bèn đứng dậy, dùng
kiếm trí tuệ đến bên Phật uy hiếp. Thế Tôn nói :
-Được
rồi ! hãy ngưng lại. Diễn đến đây là được rồi ! Các
ông vừa thấy Văn Thù định giết ta, cũng như các ông trong
quá khứ đã giết cha, hại mẹ. tất cả đều đã là quá
khứ rồi. Dù là trăm ngàn năm hay vài giây thôi, quá khứ
vẫn là quá khứ. Khi tâm niệm khởi, tâm này có thật không
? Có thể nắm giữ không ? Không. Tâm này là hư ảo, không
thật, không nắm được, có gì mà phải sợ ?
(Công
Án Thiền Cơ)
Những ai tu đến Đệ tứ thiền đều có Ngũ thần thông, nhưng muốn đạt tới Lậu Tận thông thì phải tu được Ngã không và Pháp không. Lúc đó tất cả mọi phiền não do nội tâm, ngoại cảnh đều không làm lay động được tâm như như bất động này. Tuy những gì ta tưởng, ta thấy đều là hư ảo nhưng những tập khí khiến chúng ta vẫn cứ phiền não, cứ theo nghiệp duyên mà lưu chuyển. cho nên lý giải là một chuyện, tu chứng lại là một chuyện khác.
1761.- Bài kệ của Vân Cái Trí Bản :
一
年 春 盡 一 年 春
Nhất
niên xuân tận nhất niên xuân
野
草 山 花 幾 度 新
Dã
thảo sơn hoa cơ độ tân
天
曉 不 因 鐘 鼓 動
Thiên
hiểu bất nhân chung cổ động
月
明 非 爲 夜 行 人
Nguyệt
minh phi vi dạ hành nhân.
Một
năm xuân hết một năm xuân
Cỏ
hoang, hoa núi nở mấy lần
Trời
sáng chẳng do chuông, trống đánh
Trăng
tỏ đâu vì dạ hành nhân.
(Thiền
Thị Kiếm Nhẫn Đích Sự)
Trời sáng là trời sáng không do chuông, trống đánh mà tối sớm hay muộn, trăng soi vằng vặc chẳng liên quan gì đến người đi đêm. Nhưng vì chúng sanh điên đảo, nhận rằng thời gian và không gian vì mình mà chuyển động, cứ lo thủ, xả cả đời. Đó chính là căn nguyên của phiền não.
1762.- Bài kệ của Tuyết Đậu Trùng Hiển :
牛
頭 峰 頂 鎖 重 雲
Ngưu
đầu phong đỉnh tỏa trùng vân
獨
坐 寥 寥 寄 此 身
Độc
tọa liêu liêu ký thử thân
百
鳥 不 來 春 又 去
Bách
điểu bất lai xuân hựu khứ
不
知 誰 是 到 庵 人
Bất
tri thùy thị đáo am nhân
Mây
phủ Ngưu Đầu đỉnh
Vắng
ngắt một mình ngồi
Chim
bay rồi, xuân tận
Người
nào tới am chơi ?
(Thiền
Môn Khai Ngộ Thi)
Tuyết
Đậu nhắc tới công án Tứ tổ tới thăm Pháp Dung.
(Xem
công án 1082)
1763.- Bài kệ của Phật Tâm Bổn Tài :
草
鞋 頭 戴 與 誰 論
Thảo
hài đầu đới dữ thùy luận
四
海 無 風 浪 自 平
Tứ
hải vô phong lãng tự bình
解
道 曲 終 人 不 知
Giải
đạo khúc chung nhân bất tri
江
頭 贏 得 數 峰 青
Giang
đầu doanh đắc sổ phong thanh.
Dép
cỏ đội đầu cùng ai luận ?
Bốn
biển không gió sóng bình an.
Hết
câu, hiểu đạo người chẳng biết.
Đầu
sông xem thấy vài non xanh.
(Thiền
Môn Khai Ngộ Thi)
Phật Tâm Bổn Tài nhắc đến công án Nam Tuyền chém mèo. (Xem công án 563)
1764.- Bài kệ của Hoàng Long Huệ Nam :
盧
陵 米 价 逐 年 新
Lô
Lăng mễ giá trục niên tân
道
聽 虛 傳 未 必 真
Đạo
thính hư truyền vị tất chân
大
意 不 須 歧 路 問
Đại
ý bất tu kỳ lộ vấn
高
低 宜 見 本 來 人
Cao
đê nghi kiến bản lai nhân.
Giá
gạo Lô lăng mỗi năm thay.
Lý
đạo được nghe chửa chắc ngay
Đại
ý chẳng nên cặn kẽ hỏi
Thấp
cao căn cứ mặt xưa nay.
(Thiền
Môn Khai Ngộ Thi)
Hoàng
Long nhắc lại công án “Giá gạo ở Lô Lăng.”
(Xem
công án 772)
1765.- Vô minh và Phật tánh.
Hòa
thượng Thần Hội nói :
-Vô
minh và Phật tánh đều là tự nhiên mà sanh. Vô minh dựa vào
Phật tánh; Phật tánh dựa vào Vô minh; cả 2 dựa vào nhau,
có thì cùng có. Giác rồi là Phật tánh, không giác là vô
minh.
(Thiền
Ngộ Dữ Thực Hiện)
Lý tánh và dục vọng, chúng ta gọi chung là Phật tánh và phiền não. Nếu chúng ta không tỉnh giác thì không thể tự do tự tại làm chủ được chính mình. Chúng ta sẽ trở thành con ngựa lỏng cương, túng dục vô độ bị vô minh trói buộc, không thể tự chế.
1766.- Phàm phu và đạo nhân.
Thiền
sư Hoàng Bá nói :
-Phàm
phu giữ cảnh, đạo nhân giữ tâm.
(Thiền
Ngộ Dữ Thực Hiện)
Nếu con người không tự chủ được chính mình thỉ dễ bị hoàn cảnh chi phối.
1767.- Tâm bình thường.
Đời
Đường, một đệ tử hỏi Cảnh Sầm :
-Tâm
bình thường là sao ?
-Muốn
ngủ thì ngủ, muốn ngồi thì ngồi.
-Con
không hiểu.
-Nóng
tìm chỗ mát, lạnh thì gần lửa.
(Thiền
Ngộ Dữ Thực Hiện)
Cảnh Sầm đã giảng rất rõ đói ăn mệt ngủ, nhưng người thường ăn chẳng lo ăn, mệt chẳng lo ngủ, chỉ nghĩ chuyện đâu đâu.
1768.- Phật Đại Thông Trí Thắng.
Một
ông tăng hỏi Sùng Huệ :
-Phật
Đại Thông Trí Thắng là sao ?
-Từ
vô lượng kiếp không bị ngưng trệ, chẳng phải là Phật
Đại Thông Trí Thắng thì là ai ?
(Thiền
Ngộ Dữ Thực Hiện)
Phật
Đại Thông Trí Thắng là người giác ngộ, có thể khế hợp
với tất cả, nhưng không nắm giữ gì cả.
(Xem
công án 193)
1769.- Tiếc thay một chén trà.
Một
ông tăng sau khi xem công án đạp đổ tịnh bình (Xem công án
210) khi bưng trà cho sư phụ không biết cố ý hay lỡ tay làm
rơi vỡ chén trà. Sư phụ bảo :
-Tiếc
thay một chén trà ! (Xem công án 324)
(Nhất
Chuyển Ngữ Thiền)
Ý của thiền sư là ông vừa đánh vỡ một chén trà, thật là đáng tiếc. Nếu ông là người có năng lực thì như trong tay áo có nắm một cái chùy, không cần phải lộ cái chùy ra ngoài cho người khác thấy. Làm việc chỉ cần tận lực mà làm, cũng là vô tâm mà làm không cần đả động đến tâm người khác. Hơn nữa, thiền trọng sự sáng tạo chứ không thích mô phỏng.
1770.- Nghe lời chỉ trích nên hoan hỉ.
Có
một ông tăng bảo thiền sư Linh Mặc :
-Trong
đám đệ tử của thầy có một ông tăng thường nói xấu
thầy và loan truyền những lời không tốt, thầy nên khai trừ
hắn.
-Dù
ông ta có phao ngôn khắp nơi về tôi thì sao chứ ? Huống hồ
ông ta là đệ tử của tôi. Cứ để ông ta nói chán thì thôi.
Ông ta chỉ trích chỉ là muốn tôi thành một vị thầy tốt.
(Nhất
Chuyển Ngữ Thiền)
1771.- Thương Na Hòa Tu.
Thương
Na Hòa Tu là tổ thứ 3 của Thiền tông Ấn Độ. Ông hỏi
A Nan :
-Tự
tánh là cái gì mà có thể sanh ra vạn pháp ?
A
Nan chỉ vào cà sa của ông. Ông không hiểu, lập lại câu
hỏi. A Nan nắm lấy chéo áo của ông giật mạnh một cái.
Thương Na Hòa Tu hoát nhiên đại ngộ.
(Zen
Light)
Thương
Na Hòa Tu hỏi A Nan về tự tánh, cái bất sinh bất diệt, cái
tuyệt đối –mặt trăng. Ông muốn A Nan chỉ cho ông cái bí
mật của vũ trụ, cái chất keo dính mọi vật lại. Ông thử
thách A Nan xem A Nan có thể chỉ cho ông cái không thể chỉ
? hoặc thực tình ông mong mỏi cái mà mọi người mọi lứa
tuổi, mọi thời đại muốn biết, những câu nói cuối của
kịch bản Ghost của Henrik Ibsen :
-Mẹ
ơi ! Hãy cho con mặt trời.
Sau
khi nói xong lời này đứa con trở nên điên luôn, không thể
chữa được nữa. Cũng như con thiêu thân bay vòng quanh ngọn
lửa, chỉ có một cách được nó là mất nó vĩnh viễn.
Thi
nhân Lý Bạch đời Đường chết đuối vì cố ôm bóng trăng
được phản chiếu trên mặt hồ. Hãy cho tôi ngọn lửa, cho
tôi sự bí mật của vô sanh, cho tôi mặt trời, cho tôi mặt
trăng.
A
Nan không điên. Ông biết dục vọng của con thiêu thân sẽ
khiến nó lao vào lửa và chết. Ông biết muốn với tới mặt
trăng chỉ đưa tới rồ dại. Do đó ông dùng ngón tay trỏ
mặt trăng. Ngón tay là ngón tay, mặt trăng là mặt trăng, đừng
lầm ngón tay với mặt trăng. Hạt bụi nhỏ trên áo cà sa
Thương Na Hòa Tu là mặt trăng, là tự tánh. Thương Na Hòa
Tu phải tự mình thấy. Ông không thấy do đó A Nan kéo áo
ông để nhắc nhở. Cuối cùng thì Thương Na Hòa Tu đã ngộ.
1772.- Cưu Ma Đa La.
Cưu
Ma Đa La là tổ thứ 19 của Thiền tông Ấn Độ. Có một lần
Già Gia Xá Đa (tổ thứ 18) bảo ông :
-Lúc
trước Thế Tôn có phó chúc rằng : “Sau khi tôi diệt độ
một ngàn năm, một đại sĩ xuất hiện ở nước Nguyệt Thị
sẽ đảm đương chánh giáo mà quảng độ quần sanh.’ Nay
ông gặp tôi thật là may mắn.
Nghe
lời này Cưu Ma Đa La liền đắc túc mạng minh (rõ được
các kiếp trước).
Keizan
có bài kệ :
Trong
quá khứ ông ta đã bỏ hết xác này đến xác khác
Giờ
đây, ông ta lại gập lại người bạn cũ.
(Zen
Light)
Công án này đề cập đến ánh sáng. Người bạn cũ trong bài kệ của Keizan là ánh sáng. Cái ánh sáng này chiếu khắp mọi vật, mọi thời. Sau này Bàn Khuê gọi nó là Tâm bất sinh. Phật trong tiếng Phạn có nghĩa là người tỉnh thức, là người giác ngộ. Phật là người sống trong ánh sáng nội tâm ấy. Tỉnh thức là hiện diện trong ánh sáng nội tâm, không để những khái niệm, tư tưởng, hình ảnh, hoặc sự chồng chất các sự kiện làm mờ đi cái ánh sáng ấy.
1773.- Leo núi.
Thiền
sư Động Sơn trách Vân Cư :
-Ông
không ở thiền đường mà dụng công, lại chạy đi đâu ?
-Con
đi leo núi.
-Leo
núi nào ?
-Chẳng
có ngọn nào để con leo.
-Ý
ông là đã leo hết mọi núi rồi ?
-Cũng
không phải như vậy.
-Vậy
là ông đã tìm được đường ra.
-Không
có đường ra.
-Nếu
không có đường ra sao ông có thể gập tôi ở đây ?
-Nếu
có đường ra vậy thầy và con đã cách nhau một ngọn núi
!
Không
lâu, Động Sơn lại hỏi ;
-Ông
đi đâu ?
-Con
đi leo núi.
-Có
leo tới đỉnh không ?
-Có.
-Trên
đỉnh có người không ?
-Không
có.
-Có
thể thấy ông vốn không leo tới đỉnh.
-Nếu
không leo tới đỉnh sao con biết đỉnh núi không có người
?
-Vì
sao ông không ở lại ?
-Không
phải là con không muốn ở, nhưng người ở đó không cho.
Động
Sơn cười ha hả :
-Tôi
đã sớm biết ông leo qua núi đó rồi.
(Thiền
Vị)
Tu đạo giống như leo núi, quá trình gian khổ chỉ tự mình biết. Người đã leo tới đỉnh cảm nhận cảnh trí ở đó như thế nào, chỉ người ấy biết thôi.
1774.- Cháo và trà.
Thiền
sư Triệu Châu rất chú trọng đến sinh hoạt, ông biểu lộ
thiền phong trong mọi sinh hoạt.
Có
ông tăng đến hỏi :
-Con
mới vào nghiệp lâm, xin thầy khai thị.
-Ông
ăn cháo chưa ?
-Dạ
! đã ăn rồi.
-Vậy
đi rửa bát đi.
Ông
tăng này do đó khai ngộ.
Một
ông tăng khác hỏi :
-Con
mới vào nghiệp lâm, xin thầy khai thị.
-Ông
đến đây lâu chưa ?
-Dạ
! vừa mới đến sáng nay.
-Đã
uống trà chưa ?
-Dạ,
đã uống rồi.
-Ông
hãy đến khách đường báo danh.
(Thiền
Vị)
Cái gọi là Phật pháp, thiền tâm đều không lìa sinh hoạt. Ăn cho hợp vị là thiền, ngủ cho no giấc là thiền. Nếu lìa sinh hoạt, Phật pháp còn có ích lợi gì ?
1775.- Phất trần nói pháp.
Động
Sơn Lương Giới khi còn tham học với Quy Sơn Linh Hựu, có
lần hỏi Quy Sơn :
-Lão
sư ! Con không hiểu công án “Vô tình thuyết pháp” của
Nam Dương Huệ Trung. Hữu tình thuyết pháp có thể hiểu được,
còn vô tình làm sao thuyết pháp, chẳng hạn cái bàn, cái ghế thuyết pháp làm sao ? Xin thầy phương tiện chỉ thị.
Quy
Sơn giơ phất trần lên, hỏi :
-Cái
này, ông hiểu không?
-Dạ,
không hiểu. Xin thầy từ bi chỉ thị.
-Miệng
cha mẹ tôi sanh ra không phải để bảo cái bí mật này cho
ông.
Động
Sơn không cho là phải :
-Phật
pháp cũng có bí mật sao ?
Quy
Sơn lại giơ phất trần lên :
-Cái
này là bí mật.
-Nếu
thầy không muốn bảo cho con biết cái bí mật ấy, con có
thể hỏi bạn đồng tham của thầy không ?
-Ở
Lễ Lăng (huyện Du) có một động đá trong đó có một vị
Vân Nham đạo nhân, nếu ông tìm gập được thì nhất định
ông ta sẽ bảo cho ông biết.
-Không
biết ông ta là người thế nào ?
-Ông
ta từng tham với tôi.
-Ông
ta học được gì ở thầy ?
-Ông
ta hỏi tôi làm sao để chặt đứt phiền não ?
-Thầy
trả lời sao ?
-Tôi
bảo ông cứ làm theo ý tôi là được.
-Ông
ta có làm theo ý thầy không ?
-Ông
ta rất theo ý tôi.Ông ta hiểu vô tình làm sao thuyết pháp.
Ông coi. Phất trần đang thuyết pháp đấy thôi.
Động
sơn cuối cùng đại ngộ.
(Thiền
Vị)
Chỉ cần lắng nghe, Phật pháp ở khắp mọi nơi, không đâu không có.
1776.- Buông đao đồ tể.
Mộng
ước của Ương Quật Ma La là trở thành quốc vương. Một
tà sư ngoại đạo bảo ông chỉ cần có một ngàn ngón tay
cái đủ để làm một sâu chuỗi thì ước muốn sẽ thành
sự thật. Do đó ông đi khắp nơi để thu thập, cuối cùng
đã được 999 ngón. Ông định giết luôn cả mẹ để hoàn
thành ước nguyện. Đức Phật đang ở núi Linh sơn quán chiếu
thấy vậy, muốn độ ông. Ngài bèn hóa thành một vị sa di
xuất hiện trước mặt Ương Quật Ma La. Ma La vội đuổi theo
để giết. Vị tỳ kheo cứ chậm chậm mà đi nhưng Ma La cố
hết sức đuổi theo mà vẫn không kịp. Ông hét lên :
-Ngừng
lại !
Phật
tổ bảo ông :
-Tôi
ngừng đã từ lâu rồi, sao ông còn chưa chịu ngừng ?
Ương
Quật Ma La đột nhiên giác ngộ, vội bỏ đao xuống, xin quy
y Phật.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Làm sao để tâm phiền não ngừng lại ? Chúng ta phải có thời gian tư khảo, tham ngộ để tâm được an định.
1777.- Đối người thân thiết, đối mình nghiêm khắc.
Câu
này thường gập trong các bộ ngữ lục, có ý là đối với
người mình phải đem hết lòng dâng hiến còn đối với mình
phải thật nghiêm khắc, nỗ lực bài trừ ngã chấp. Sơn Bản
Huyền Phong, năm 19 tuổi mắt bị bệnh cơ hồ gần mù. Ông
lưu lạc tứ xứ. Một hôm vừa bệnh, vừa đói ngã gục trước
Tuyết Hề Tự, được trụ trì là Sơn Bản Thái Huyền cứu
sống. trụ trì hỏi ông :
-Sau
này ông định làm gì ?
-Con
muốn làm hòa thượng.
-Thật
vậy sao ?
-Dạ
! Nhưng con là một gã mù dở, không đọc kinh được, có thể
làm hòa thượng được không ?
-Tuy
ông không thành một ông tăng phổ thông, nhưng nếu quyết
tâm có thể thành một hòa thượng chân chính.
(Nhất
Chuyển Ngữ Thiền)
Quả nhiên về sau Huyền Phong trở thành một vị thiền sư trứ danh cận đại.
1778.- Bước bước là đạo trường.
Hòa
thượng Từ Hải ở Kim Các Tự, trên đường gập một vị
giáo sư. Hai người nói chuyện rất hợp ý. Khi chia tay hòa
thượng mời giáo sư có rảnh thì đến vãn cảnh chùa. Giáo
sư rất vui, nghĩ bụng hòa thượng đã mời chắc phải có
gì đặc biệt cho mình coi. Được một ngày nghỉ, giáo sư
bèn đến chùa. Tới nơi không lâu thì đến bữa ngọ. Giáo
sư nghĩ chắc phải có bữa cơm chay đặc biệt, nào ngờ khi
đem ra cũng chỉ có đậu phụ và tương. Sau bữa cơm, giáo
sư ngỏ ý muốn bàn luận về thiền. Hòa thượng bảo :
-Ông
muốn tôi nói về thiền sự là không được. Tôi chỉ là
người được chùa giao cho việc quét dọn. Quét dọn là việc
tôi rành nhất. Được để tôi kể ông nghe.
Nói
rồi, hòa thượng dẫn giáo sư đi khắp nơi từ nhà kho, nhà
bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, sân chùa, v . v . Tới mỗi
nơi đều cắt nghĩa phải làm gì, dùng chổi như thế nào.
Giáo sư rất kinh ngạc :
-Cám
ơn thầy đã tận tình tiếp đãi.
Nói
rồi chuồn mất.
(Nhất
Chuyển Ngữ Thiền)
Quét nhà chỉ là một việc, còn nhiều việc khác nữa chúng ta cho là vô ý nghĩa. Nếu chúng ta nhất tâm, nhất ý làm thì đó là một cách ma luyện chính mình, khảo nghiệm thực lực của mình. Nếu bị sai làm một việc mà ta cảm thấy phiền não thì ta phải lấy câu “Bước bước là đạo trường” mà cảnh giác.
1779.- Giữ giới.-
Trào Minh, thiền sư Phổ Minh có làm Mục Ngưu Đề Tụng (Tụng Tranh chăn trâu) trong đó bài Vị mục (Chưa chăn) như sau :
生
獰 頭 角 趑 咆 哮
Sanh
nanh đầu giác tư bào hao
奔
走 溪 山 路 轉 遙
Bôn
tẩu khê sơn lộ chuyển dao
一
片 黑 雲 橫 谷 口
Nhất
phiến hắc vân hoành cốc khẩu
誰
知 步 步 犯 佳 苗
Thùy
tri bộ bộ phạm giai miêu.
Vênh
váo đầu sừng miệng hậm hự
Chạy
theo khe núi mỗi lúc xa
Một
dải mây đen ngang cửa động
Ai
hay từng bước dẫm mạ a !
Dã tánh và trí tuệ cùng tồn tại, cũng giống như vàng lẫn trong khoáng chất. Dã tánh là phiền não, trí tuệ là Phật tánh. Muốn lấy vàng thì phải dùng lửa để tinh luyện. Chất khoáng sẽ bị đốt thành than và vàng sẽ được tinh luyện. Phiền não là tối ám dùng sáng để phá tối chứ không thể dùng tối để phá sáng. Muốn dùng sáng để phá tối thì theo Phổ Minh đầu tiên là phải dùng giới luật nên ông làm bài Sơ Điều (Mới chăn) như sau :
我
有 芒 繩 驀 鼻 穿
Ngã
hữu mang thằng mạch tỵ xuyên
一
迴 奔 競 痛 加 鞭
Nhất
hồi bôn cạnh thống gia tiên
從
來 劣 性 難 調 制
Tòng
lai liệt tánh nan điều chế
猶
得 山 童 盡 力 牽
Do
đắc sơn đồng tận lực khiên.
Ta
có giây thừng xỏ mũi ngươi
Kéo
về chẳng được liền dùng roi
Từ
đây nếu vẫn còn khó dậy
Mục
đồng đành phải tận sức lôi.
(Thiền
Ngộ Dữ Thực Hiện)
Dây thừng và roi là chỉ giới luật. Không giữ giới thì không thể chế ngự được phiền não của nội tại, dễ dàng đánh mất chính mình.
1780.- Đột phá giới luật.
Thời
Nam, Bắc triều, Trúc đạo Sinh là một vị cao tăng mẫn tiệp.
Một lần tống Văn Đế thiết trai cúng dường chư tăng, nhưng
vì sửa soạn quá lâu khi dọn bữa ra thì đã quá ngọ. Chư
tăng không dám đụng đũa. Tống văn đế bảo ;
-Chẳng
quan hệ, bây giờ mới là chính ngọ.
Chư
tăng vẫn không dám dùng bữa. Lúc đó Trúc Đạo Sinh đứng
dậy lớn tiếng nói :
-Thanh
thiên bạch nhật, thiên tử nói chính ngọ thì là chính ngọ,
còn ngờ gì nữa ?
Nói
rồi cầm bình bát lên ăn, chúng tăng cũng làm theo.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Giới luật nhất định phải theo. Nhưng giới luật không phải là cố định mà tùy theo hoàn cảnh, thời gian mà thay đổi, như vậy mới bắt kịp sự tiến triển của xã hội.
1781.- Không tại nơi khác.
Một
hôm Động Sơn Lương Giới hỏi Vân Nham :
-Lão
sư ! nếu như thầy trăm năm rồi, có người hỏi con phong
tư diện mạo thầy, con phải trả lời sao ?
-Tôi
không ở chỗ khác.
Động
Sơn trầm ngâm, Vân Nham bảo :
-Giới
thượng tọa ! Đối với sự tình này ông phải để ý, xử
lý thận trọng.
Động
Sơn lòng đầy hoài nghi chẳng lẽ hỏi vấn đề này là phạm
úy kỵ gì ? Về sau Động Sơn qua cầu, nhìn thấy bóng mình
dưới sông đột nhiên tỉnh ngộ, bèn làm bài kệ (Xem công
án 1083) Động Sơn về gập Vân Nham vui vẻ thưa :
-Lão
sư ! Bất kể lúc nào dù trải qua ngàn vạn kiếp, phong tư
diện mạo của thầy con đã biết rồi.
Vân
Nham nghiêm trang bảo :
-Lúc
đó tôi không ở đó.
Động
Sơn lập tức lãnh ngộ, vội nói :
-Không
tại lúc đó, không tại chỗ khác.
(Thiền
Vị)
Tín
ngưỡng chân chính được xây dựng trên nền đá tảng, không
bị những lớp sóng thời gian lay chuyển.
1782.- Không thể bắt chước.
Thiền
sư Lâm Tế sắp viên tịch, chiêu tập đệ tử lại bảo :
-Tôi
nhập diệt rồi, các ông không thể để chánh pháp nhãn tạng
của tôi bị tiêu diệt.
Đại
đệ tử Tam Thánh lập tức biểu lộ quyết tâm :
-Đệ
tử chúng con đâu dám để chánh pháp nhãn tạng của thầy
bị hủy diệt.
Lâm
Tế gật gù :
-Vậy
sao ? Giả như về sau có người hỏi Phật pháp của tôi thế
nào, các ông trả lời làm sao ?
Tam
Thánh bắt chước Lâm Tế hét lớn. Lâm Tế lắc đầu :
-Ai
ngờ đâu chánh pháp nhãn tạng của tôi bị hủy diệt bởi
con lừa mù này. Thật là đau lòng !
Nói
rồi, Lâm Tế đoan tọa tại pháp đường mà tịch.
Thấy
Lâm Tế lìa đời, Tam Thánh rất thương tâm, bảo đại chúng
:
-Bình
thường lão sư đối với người đến tham học đều hét
lên một tiếng, tại sao chúng ta cũng hét mà lại không được
?
Đột
nhiên Lâm Tế mở mắt ra nói :
-Tôi
ăn các ông không thể no, tôi chết các ông cũng không thế
được.
Chúng
đệ tử đều quỳ lạy, Tam Thánh thưa :
-Xin
lão sư tha thứ chúng con đã không hiểu rõ giáo huấn của
thầy. Xin thầy đừng vội đi, xin hãy chỉ điểm thêm cho
chúng con.
Lâm
Tế hét lên một tiếng lớn rồi bảo :
-Tôi
không để cho các ông bắt chước.
Nói
rồi, lần này đi luôn.
(Thiền
Vị)
Trí tuệ chân chánh không thể mô phỏng được.
1783.- Đơn Hà đốt Phật.
Một
hôm Đơn Hà Thiên Nhiên quải đơn ở một ngôi chùa nhỏ.
Lúc đó trời rất lạnh, tuyết rơi bời bời. Đơn Hà lấy
pho tượng Phật bằng gỗ đem đốt để sưởi ấm. Củ sát
sư của chùa trông thấy, tức giận hét lớn :
-Thật
đáng chết ! Sao ông dám đem tượng Phật ra đốt ?
-Tôi
đốt để tìm xá lợi.
-Nói
bậy không à ! Phật gỗ làm sao có xá lợi ?
-Đúng
rồi ! Phật gỗ đương nhiên không có xá lợi, vậy chắc
ông không ngại cho tôi xin một pho nữa đốt để sưởi ấm
chứ ?
(Thiền
Vị)
Tượng Phật là Phật giả, nội tâm mới là Phật thật.
1784.- Ý nghĩa bài kệ Vô Môn.
Trong
công án “Tâm bình thường là đạo”, thiền sư Vô Môn có
làm bài tụng sau : (bản chữ Hán xin xem công án 982)
Xuân
có trăm hoa, Thu có nguyệt
Hạ
có gió mát, Đông tuyết rơi
Nếu
không chuyện gì làm bận óc
Thì
chính nhân gian buổi đẹp trời.
(Thiền
Ngộ Dữ Thực Hiện)
Mọi người dĩ nhiên hiểu và thưởng thức được cái đẹp của hoa Xuân và trăng Thu, nhưng cũng không quên những luồng gió mát của mùa Hè và cảnh đẹp của mùa Đông bao phủ dưới làn tuyết trắng. Nếu chúng ta quá coi trọng thắng bại, được mất thì sẽ đánh mất đi cái lạc thú của đời sống. Nếu chúng ta có thể dùng tâm bình thường mà sinh hoạt thì cuộc sống sẽ tự do tự tại và đầy vui vẻ. Thiền dạy chúng ta khẳng định sinh hoạt, tâm trí sẽ tĩnh lặng và tỉnh giác. Khẳng định sinh hoạt tức là dùng tâm bình thường vậy.
1785.- Có oán thù gì ?
Có
một vị thiền tăng tình nguyện chung thân giữ mộ tổ sư
Đạt Ma. Đời Đường Đại Tông, tháp này được gọi là
Viên Giác Đại Sư Không Quán tháp. Người ta gọi vị thiền
tăng đó là tháp chủ. Tương truyền các thiền sinh, trong đời
nhất định phải có một lần đến thăm tháp này. Một hôm,
thiền sư Lâm Tế cùng mọi người đến thăm tháp. Vì Lâm
Tế là truyền nhân đời thứ 11, tháp chủ trông thấy
bèn hỏi :
-Xin
hỏi trưởng lão lễ Phật trước hay bái tổ trước ?
-Tôi
tới đây không phải để lễ Phật hay bái Tổ.
Tháp
chủ bất mãn hỏi :
-Phật
và Tổ có oán thù gì với trưởng lão ?
-Vậy
Phật và Tổ có ân tình gì với ông ?
Tháp
chủ không trả lời được, một lát sau hỏi :
-Vậy
phải làm sao ?
-Diệt
hết oán thù và ân tình, thể hội Phật pháp bình đẳng thì
có thể thấy khuôn mặt xưa nay của Tồ sư.
-Thế
nào là Phật pháp bình đẳng ?
Lâm
Tế trả lời bằng câu của Tam Tổ Tăng Xán :
-Đạo
lớn không khó, chỉ vì chọn lựa thôi.
(Thiền
Vị)
Trong tự tánh không có phân biệt.
1786.- Hãy bỏ tâm sân đi đã.
Có
một vị tướng quân từng lăn lộn nhiều năm ngoài chiến
trường. Một hôm ông đến thăm thiền sư Đại Huệ và yêu
cầu xuất gia.
-Thiền
sư, con nay đã chán hồng trần, xin thầy từ bi xuống tóc
cho con, nhận con làm đệ tử.
Đại
Huệ từ chối :
-Ông
có gia đình, có nhiều tập khí xã hội, chưa thể xuất gia
ngay được, hãy từ từ.
Tướng
quân vội đáp :
-Thiền
sư, hiện giờ cái gì con cũng bỏ xuống được, vợ con, gia
đình đều không thành vấn đề. Xin thầy cho con xuất gia.
Đại
Huệ lập lại :
-Hãy
từ từ.
Tướng
quân chưa chịu thôi, một hôm đến chùa thật sớm. Đại
Huệ hỏi :
-Sao
mới sáng sớm mà ông đã tới lễ Phật vậy ?
Tướng
quân bèn ngâm hai câu thơ :
Để
dập tắt ngọn lửa
Dậy
sớm lễ tôn sư.
Đại
Huệ cười :
Sao
ông dậy sớm thế ?
Chẳng
sợ vợ bỏ ư ?
Tướng
quân nổi giận :
-Lão
quái này sao dám mạ lỵ người.
Đại
Huệ cười ha hả, đọc cho một bài kệ :
輕
輕 一 撥 扇
Khinh
khinh nhất bát phiến
性
火 又 燃 燒
Tánh
hỏa hựu nhiên thiêu
如
此 暴 躁 氣
Như
thử bạo táo khí
怎
算 放 得 下
Chẩm
toán phóng đắc hạ.
Nhè
nhẹ quạt một cái
Ngọn
lửa lại cháy bùng
Tánh
tình thô bạo thế
Bỏ
xuống được hay chăng ?
(Thiền
Vị)
1787.- Phật Đà Nan Đề.
Phật
Đà Nan Đề là tổ thứ 8 của Thiền tông Ấn Độ. Khi ông
gập tổ thứ 7 là Di Dá Ca, ông nói :
-Tôi
đến luận nghĩa với sư.
-Này
hiền giả, nếu luận thì chẳng phải là chân lý, chân lý
chẳng cần phải luận.
Nghe
rồi Phật Đà Nan Đề liễu ngộ cái lý vô sanh.
(Zen
Light)
Có
một
câu chuyện nổi tiếng về một người đến hỏi Phật :
-Bạch
Thế Tôn, có linh hồn không ? Linh hồn có vĩnh viễn không
? Khi chết rồi linh hồn sẽ ra sao ? v . v .
Trong
một thoại bản Đức Phật im lặng không trả lời.Trong một
thoại bản khác Đức Phật kể một câu chuyện : Có một
người bị tên độc bắn. Chúng ta nên rút mũi tên ra và lo
chữa trị cho người đó hay là hỏi ai bắn ? Vì lý do gì
mà bị bắn v . v . Trả lời những câu hỏi này cần nhiều
thì giờ, nhưng chúng ta không có thì giờ. Chúng ta đang sống
trong tình trạng cấp cứu vì chúng ta đang bị bắn bởi những
mũi tên buồn khổ, bệnh tật, chết chóc. Chúng ta phải hành
động để giải quyết những vấn đề này ở đây và ngay
bây giờ. Những giải thích siêu hình thì lý thú thật nhưng
xa vời với thực tại chúng ta đang sống. Thiền là ở đây,
ngay bây giờ, ở trong việc rửa bát, quét nhà, cãi lộn giữa
vợ chồng, con cái, bạn bè.
1788.- Xà Dạ Đa.
Xà
Dạ Đa là tổ thứ 20 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần
tổ thứ 19 là Cưu Ma Đa La bảo ông :
-Mặc
dầu ông tin vào ba nghiệp, nhưng ông chưa rõ nghiệp ấy là
do vọng mà sanh, vọng lại do thức mà có. Thức lại do bất
giác sanh, mà bất giác lại ở nơi tâm. Tâm vốn thanh tịnh,
không sanh diệt, không tạo tác, không báo ứng, không hơn kém,
êm đềm sáng suốt. Nếu ông tin nhận pháp môn này thì ông
cũng giống như chư Phật không khác. Tốt, xấu, hữu vi, vô
vi, đều là chiêm bao, mộng ảo.
Nghe
được lời này Xà Dạ Đa hiểu được thâm ý và nẩy sanh
trí huệ ông đã có từ muôn kiếp.
(Zen
Light)
Công án này nêu lên vấn đề nghiệp và công lý. Tại sao có những người hiền lành làm nhiều việc tốt mà vẫn chịu khổ sở, trong khi những kẻ xấu xa, tội lỗi lại được hưởng đời sống vinh hoa, phú quý ? Thực ra nghiệp rất phức tạp. Có những nhân gieo trong đời này có kết quả ngay, nhưng cũng có khi đến các đời sau quả mới hiện thành. Tâm có thể phân làm phàm tâm và chân tâm. Cưu Ma Đa La chỉ cho chúng ta biết chân tâm vắng lặng không có tốt xấu, hữu vi, vô vi, tất cả là mộng ảo. Nghiệp không tồn tại trong chân tâm. Trái lại, phàm tâm có phân biệt tốt xấu, hơn kém, chủ thể, đối tượng. Phàm tâm thấy kẻ xấu sống sung sướng trong khi người tốt lại chịu nhiều đau khổ. Chính cái phàm tâm này tạo nên nghiệp báo ba đời. Phải bỏ xuống hết. Đạo Nguyên nghe Như Tĩnh bảo phải thoát lạc thân tâm liền giác ngộ. Chúng ta phải bỏ xuống mọi khát khao, thực hiện công lý, cũng bỏ xuống sự chán ghét mọi bất công. Bỏ của cải, bỏ tư tưởng, bỏ chấp trước. Bỏ xuống những gì ta nghĩ ta không cần. Những gì ta nghĩ ta cần là vọng, những gì ta nghĩ ta không cần cũng là vọng nốt.
1789.- Ưu Ba Cúc Đa.
Ưu
Ba Cúc Đa là tổ thứ 4 của Thiền tông Ấn Độ. Ông theo
học Thương Na Hòa Tu ba năm rồi xin xuống tóc. Một lần Thương
Na Hòa Tu hỏi ông :
-Ông
xuất gia là thân ông xuất gia hay tâm ông xuất gia ?
-Là
thân con xuất gia.
-Diệu
pháp của chư Phật có liên quan gì đến thân hay tâm ?
Nghe
lời này Ưu Ba Cúc Đa hoát nhiên đại ngộ.
(Zen
Light)
Thế
đạo luôn phân biệt, chia cách, đa thù và vọng tưởng. Chúng
ta đang sống trong thế giới ảo vọng.
Phật
đạo từ vạn pháp trở về một, là con đường chữa lành
vết thương của thân và tâm. Phật đạo chỉ rằng thân và
tâm không phải chỉ là thân hoặc tâm mà là thân tâm. Khi
chúng ta giác ngộ (trở về với cái một) và thực hành hạnh
bố thí thì tặng phẩm của chúng ta cho người khác là tặng
phẩm của cái một. Đó là lý do tại sao Đức Phật nói :
“Khi bố thí chân chính thì không có người cho, kẻ nhận
chỉ có sự bố thí.”
1790.- Một hạt chủng tử.
Quế
Khâm đến tham phỏng Huyền Sa. Huyền sa biết ông nghiên cứu
Duy Thức rất thâm, cố ý trỏ một cái ghế, hỏi :
-Ba
giới duy tâm, vạn pháp duy thức, cái này ông lý giải ra sao
?
-Nếu
nói đến duy thức, duy tâm thì dùng cái nhìn của duy thức,
duy tâm mà lý giải là được rồi.
Huyền
Sa không cho là phải :
-Đứng
trên lập trường đạo lý mà nói thì như vậy nhưng cũng
có lúc không có cách chi nhận thức được vũ trụ vạn hữu.
Quế
Khâm chỉ một cái bàn hỏi :
-Xin
hỏi thầy gọi cái này là cái gì ?
-Cái
bàn.
Quế
Khâm lắc đầu :
-Thầy
không hiểu ba giới duy tâm, vạn pháp duy thức, cái này không
chỉ cái bàn. Cái bàn là giả danh, giả tướng.
-Không
sai, “cái này” không phải là cái bàn, chân tướng của
cái này là gỗ. Gỗ đóng thành bàn gọi là cái bàn, đóng
thành ghế gọi là cái ghế. Khuôn mặt xưa nay của cái bàn,
cái ghế là gỗ.
Quế
Khâm gật đầu. Nhưng Huyền Sa chỉ cái bàn :
-Cái
này không phải là cái bàn, không phải là gỗ, là cây lớn
trong rừng.
Huyền
sa thấy Quế Khâm định mở miệng liền ngăn lại, nói tiếp
:
-Cái
này cũng không phải là một cây lớn mà là một chủng tử
quy tụ các duyên ánh sáng, đất, nước, không khí mà thành
cây, thành gỗ, thành bàn, thành ghế. Nói tóm lại là vũ trụ,
vạn hữu do nhân duyên tạo thành.
-Vũ
trụ vạn hữu là duy thức, duy tâm.
-Ông
đã tới đây tham học sao không nói vũ trụ vạn hữu là thiền
tâm.
(Thiền
Vị)
Trong tâm mỗi người đều có chủng tử thiền tâm, sao không để nó lớn lên và trở thành cây lớn.
1791.- Bất Như Mật Đa.
Bất
Như Mật Đa là tổ thứ 26 của Thiền tông Ấn Độ. Khi còn
là thái tử, tổ 25 hỏi ông :
-Khi
ông xuất gia, ông định làm gì ?
-Khi
con xuất gia con chẳng làm gì đặc biệt.
-Ông
không làm những việc gì ?
-Con
không làm những việc thế tục.
-Vậy
ông tính làm gì ?
-Con
làm việc Phật.
-Thái
tử thiệt là thiên tư mẫn tuệ, ông phải là một vị thánh
ứng thế.
Nói
rồi cho phép ông xuất gia.
(Zen
Light)
Có thể làm sáng bản tâm là làm việc Phật. Bản tâm chứa trong mọi vật. Mọi vật đều có bản tâm. Do đó, không có sự khác biệt giữa tu sĩ, cư sĩ, đàn ông đàn bà, cảnh sát, kẻ tù tội , v . v . Bất cứ ta sống duới dạng thức nào cũng là Đạo. Chúng ta có thể tu ở bất cứ đâu. Bất cứ cái gì chúng ta làm cũng là biểu hiện của Đạo. Không cần phải đi đâu, tìm học một cuốn kinh sách gì, chúng ta đang ở trong Đạo, điều phải làm là thực hành.
1792.- Không thấy mình.
Có
một học tăng đến tham học với Trí Thường. Lúc gập Trí
Thường đang cuốc đất, một con rắn trong đám cỏ bỗng
bò ra. Trí Thường giơ cuốc bổ xuống.
Học
tăng kinh ngạc :
-Từ
lâu vẫn mộ danh nơi đây đạo phong từ bi, tới nơi chỉ
thấy một gã tục nhân thô lỗ.
-Như
ông nói thì ông thô hay tôi thô ?
Học
nhân không vui hỏi :
-Thế
nào là thô ?
Trí
Thường ném cuốc xuống ;
-Thế
nào là tế ?
Trí
Thường giơ cuốc lên làm bộ chém rắn.
Học
tăng không hiểu ý Trí Thường hỏi :
-Thiền
sư nói thô tế khiến người ta chẳng hiểu gì cả.
Trí
Thường hỏi ngược lại :
-Không
nói thô, tế nữa; xin hỏi ông thấy tôi chém rắn ở đâu
?
Học
tăng không khách khí đáp :
-Ngay
đây.
Trí
Thường giáo huấn ông :
-Ngay
đây ông không thấy mình, lo xem người khác chén rắn làm
gì ?
Học
tăng do đó tỉnh ngộ.
(Thiền
Vị)
Người ta thường chỉ chăm phê bình người khác mà không lo xét mình.
1793.- Hạc Lặc Na.
Hạc
Lặc Na là tổ thứ 23 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần
kia tổ 22 là Ma Na La bảo ông :
-Tôi
có pháp bảo quý báu ông phải lắng nghe, tiếp nhận rồi
tương lai sẽ giáo hóa cho chúng sanh.
Nghe
lời này Hạc Lặc Na tỉnh ngộ.
(Zen
Light)
Công
án này là nói về pháp bảo. Đức Phật nói:
-Tôi
giáo hóa 49 năm mà chưa hề mở mồm nói một điều gì.
Thế
là thế nào? Phật đã chẳng dạy Tứ diệu đế, 12 nhân duyên
và Bát chánh đạo đó sao ?
Trong
cuộc trò truyện với học trò, Socrates bảo họ mọi
thứ đều là tiến trình nhớ lại những gì họ đã có trong
họ.
Đức
Phật nói :
-Hãy
nội quán và các ông sẽ thấy các ông là Phật.
Trong
một lần đi thuyết pháp, Đức Phật qua một làng nọ, người
làng thưa :
-Có
nhiều vị thầy đến làng chúng tôi. Một vị nói thế này,
thế này là chân lý. Một vị khác nói ngược lại vị trên, như vậy, như vậy mới là chân lý. Một vị khác nữa nói
khác hẳn hai vị kia và quả quyết chân lý phải như thế
này cơ. Lời giảng của vị nào là đúng và làm sao nhận
ra thế nào là pháp bảo ?
Và
Phật trả lời :
-Hãy
nhìn vào trong ông. Ông thấy điều nào tốt cho mình và không
hại cho người thì làm. Điều nào không tốt cho mình và cho
người thì không làm. Đừng trông vào ai, chỉ nương tựa
vào chính mình.
1794.- Bát Nhã Đa La.
Bát
Nhã Đa La là tổ thứ 27 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần
tổ 26 là Bất Như Mật Đa hỏi ông :
-Ông
còn nhớ chuyện quá khứ không ?
-Con
nhớ nhiều kiếp trước đã ở chung với thầy. Thầy có giảng
kinh Ma ha Bát Nhã, còn con thì giảng kinh Thậm Thâm Tu Đa La.
Việc gặp gỡ ngày nay là do túc duyên lúc trước.
(Zen
Light)
Công
án này đề cập đến thời gian. Keizan có nói :
-Hôm
nay thấy là thấy từ vĩnh cửu, nếu ông nhìn lại vĩnh cửu
thì thấy hôm nay. Khi chúng ta đạt đến cảnh giới này thì
không có quá khứ, hiện tại, tương lai. Pháp vượt thời
gian. Hiện tại chứa cả 3 thời.
1795.- Chân, giả.
Có
lần Đạo Quang hỏi Đại Châu Huệ Hải :
-Thiền
sư bình thường dụng công là dùng tâm nào để tu ?
-Lão
tăng không có tâm nào để dùng, đạo nào để tu.
-Vậy
sao hàng ngày thiền sư tụ chúng, khuyên người tham thiền
tu đạo ?
-Lão
tăng trên không có mái ngói, dưới không có tấc đất cắm
dùi làm gì có chỗ để tụ chúng ?
-Sự
thực thì thiền sư mỗi ngày đều tụ chúng luận đạo, chẳng
lẽ không phải là thuyết pháp độ chúng ?
-Ông
đừng đổ oan cho tôi, ngay lời nói tôi cũng không biết nói,
làm sao luận đạo, một người tôi cũng không gặp làm sao
độ chúng ?
-Thiền
sư đã vọng ngữ rồi !
-Lão
tăng ngay lưỡi cũng không có, làm sao vọng ngữ ?
-Chẳng
lẽ khí thế gian, hữu tình thế gian, sự tồn tại của thiền
sư và con, còn có tham thiền thuyết pháp đều là giả sao
?
-Đều
là thật.
-Nếu
là thật sao thiền sư lại phủ định ?
-Giả
cũng phủ định, thật cũng phủ định.
Đại
Quang cuối cùng đại ngộ.
(Thiền
Vị)
Không tâm để dùng, không đạo để tu, đó chính là cảnh giới đắc đạo.
1796.- Nghe không hiểu.
Vương
cư sĩ là một tín đồ rất cung kính Phật pháp. Hễ có thời
gian rảnh rỗi là ông chạy tới chùa hoặc giúp viên đầu
trồng rau, tưới nước, hoặc giúp điển tọa bổ củi, nấu
cơm, nói tóm lại là luôn luôn bận rộn. Nếu gặp thiền
sư Vô Danh thuyết pháp cho đại chúng thì cũng hết sức lắng
nghe. Có một lần Vương cư sĩ ở ngoài thiền đường nhìn
các học tăng mắt nhìn mũi, mũi quán tâm, không nén được
thở dài, gập lúc thiền sư Vô Danh đi qua nghe được.Thiền
sư bèn hỏi :
-Vương
cư sĩ, sao ông lại thở dài ?
Vương
cư sĩ lại thở một hơi dài nữa. Vô Danh không hiểu lại
hỏi :
-Bình
thường ông rất cung kính Phật pháp, lại hết lòng giúp đỡ
làm các việc trong chùa, gập buổi thuyết pháp thì chăm chú
lắng nghe. Có thể nói thân, khẩu, ý đều phiếm du trong bể
pháp. Vì sao lại thở dài ?
-Thiền
sư, phiền não của con là nghe Phật pháp mà không hiểu. Thiền
sư giảng cho các học tăng nào là “Ý của tổ sư từ Tây
sang”, “Con chó có Phật tánh không”, “Tức tâm, tức Phật”,
“Thế nào là bản lai diện mục” v . v . Con đều nghe mà
chẳng hiểu gì cả, giống như xem hoa trong sương mù. Vì sao
con hết lòng nghe mà chẳng hiểu ?
-Lúc
trước, khi một học tăng đến nhập môn, Đức Sơn liền
đánh, Lâm Tế thì hét, Tuyết Phong thì hỏi là cái gì ? Lịch
đại tổ sư, đại đức cả đời chỉ tham một công án mà
cũng chưa khai ngộ, cho thấy học thiền phải dụng công mà
tham, không chỉ nghe không mà được.
Vương
cư sĩ vẫn không hiểu hỏi :
-Làm
sao để tham ?
-Trước
hết ông hãy tham “Nghe mà chẳng hiểu”.
(Thiền
Vị)
Chẳng kể hiểu hoặc không hiểu, nên lắng nghe tiếng nói của nội tâm.
1797.- Thấy và không thấy.
Khi
Hà Dịch Thần Hội mới đến tham học lục tổ Huệ Năng,
tổ hỏi :
-Ông
từ xa tới đây, đường xá diệu vợi gian khổ, có đem tự
tánh thiền tâm theo không ? Có thể thấy bản thể của pháp
tánh là cái gì không ?
-Bẩm
sư phụ, “ngã” có đến đi, còn “tự tánh” không có
đến đi, bản thể pháp tánh ở khắp pháp giới làm sao nói
thấy hoặc không thấy ?
-Ông
thật mẫn tiệp.
Nói
rồi dùng gậy đánh, Thần Hội không tránh hỏi ngược lại
:
-Lúc
sư phụ tọa thiền là thấy hay không thấy ?
Lục
tổ không đáp ngay, dùng gậy đánh Thần Hội 3 gậy, hỏi
:
-Tôi
đánh ông đau hay không đau ?
-Cũng
đau, cũng không đau.
Tổ
cũng theo ngữ khí của Thần Hội mà đáp :
-Tôi
tọa thiền cũng thấy, cũng chẳng thấy.
Thần
Hội không bỏ lỡ cơ hội, hỏi tiếp :
-Vì
sao sư phụ cũng thấy, cũng chẳng thấy ?
-Tôi
thấy là thường thấy những lỗi lầm của mình, không thấy
là không thấy thị phi, thiện ác của người khác. Cho nên
nói cũng thấy, cũng chẳng thấy. Còn như ông nói không đau
thì ông giống như sỏi đá, không có tri giác, còn nói đau
thì giống như tục nhân có tâm oán hận. Tôi bảo cho ông
biết thấy và không thấy là chấp vào lưỡng biên, đau và
không đau là hiện tượng sanh diệt. Ông ngay tự tánh chưa
rõ, còn nói không tới, không đi ?
Về
sau khi Huệ Năng sắp viên tịch, chúng đệ tử đều buông
tiếng khóc lớn, chỉ có Thần Hội là yên lặng không khóc.
Tổ bảo :
-Tại
sao các ông lại khóc ? Tôi đã biết rõ sẽ đi về đâu. Nếu
tôi không biết làm sao có thể nói trước cho các ông biết
? Chỉ có Thần Hội vượt qua được quan niệm thiện ác đạt
tới cảnh giới hoại không động, buồn vui không sanh. Đại
chúng nên ghi nhớ pháp tánh vốn không sanh diệt, đến đi.
(Thiền
Vị)
Con mắt thường đánh lừa chúng ta.
1798.- Bà Xá Tư Đa.
Bà
Xá Tư Đa là tổ thứ 25 của Thiền tông Ấn Độ. Tổ 24 là
Sư Tử Tôn Giả bảo ông :
-Nay
tôi truyền chánh pháp nhãn tạng của Như Lai cho ông, ông phải
hết lòng hộ trì và quảng thí cho tất cả quần sanh trong
tương lai.
Bà
Xá Tư Đa nghe rồi rõ được nguyên nhân của nghiệp báo và
được truyền tâm ấn.
(Zen
Light)
Công án này nói về cái một. Chúng ta theo một cách nào đó đều liên quan đến cái một. Lòng từ bi là một chứng cớ. Chúng ta có thể cảm nhận nỗi đau đớn hay nỗi hân hoan của người khác mặc dù thân thể ta không đau đớn hoặc đó không phải là chuyện vui của ta. Công án này chỉ cho chúng ta thấy cái một vượt lên trên sanh tử, những gì đã có trong quá khứ thì sẽ có trong tương lai. Cái một vượt lên trên không gian và thời gian.
1799.- Ba Tu Bàn Đầu.
Ba
Tu Bàn Đầu là tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Có lần
tổ 20 là Xà Dạ Đa nói :
-Tôi
không cầu đạo, cũng không điên đảo; tôi không lễ Phật
cũng không khinh dể Phật, tôi không ngồi lâu cũng không lười
biếng. Tôi không độ ngọ cũng chẳng ăn tạp. Tôi không biết
đủ cũng không tham lam. Tâm không cần gì. Đó gọi là Đạo.
Ba
Tu Bàn Đầu nghe lời này bỗng phát sinh trí vô lậu.
(Zen
Light)
Công
án này đề cập đến sự cố gắng tu tập. Đạo Nguyên nói
:
-Ngồi
thiền, tự nó là con đường giác ngộ.
Chúng
ta thường ngồi thiền với mục đích đạt được một cái
gì, chẳng hạn chúng ta muốn trở thành thiền sinh, thiền
sư, hay được tâm an bình. Công án này bảo cho chúng ta thấy
có một mục đích để đạt thì không phải là Đạo, có
mục đích là chúng ta đã đánh mất Đạo. Tại sao không có
gì để đạt tới ? Vì chúng ta đã có nó rồi. Ở đâu ?
Ngay trong chúng ta. Chúng ta ngồi là ngồi, không phải để
trở thành Phật, để được giác ngộ, để giải một công
án. Vậy thì học công án thế nào ? Chúng ta hãy để cho công
án thấm qua các lỗ chân lông và trở thành một với công
án.
1800.- Thiền là thế đó.
Có
một vị y sĩ, y thuật rất giỏi, mỗi ngày đều nhìn thấy
nhiều bệnh nhân qua đời, do đó ông bị ám ảnh bởi cái
chết, sinh ra lo sợ. Ông nghe nói học thiền thì có thể khắc
phục trạng thái tâm lý này. Ông đến gập thiền sư Nam Ẩn
xin được khai thị. Nam Ẩn bảo ông :
-Học
thiền không khó, ông vốn là một y sĩ ông hãy đối đãi
tử tế với bệnh nhân của ông. Đó là Thiền.
Y
sĩ dường như hiểu, dường như không. Ông trở lại vài lần,
lần nào thiền sư cũng bảo :
-Là
một y sĩ ông đừng phí thời gian ở chùa, hãy về săn sóc
bệnh nhân.
Y
sĩ không hiểu loại khai thị này làm sao trừ được nỗi
sợ chết chóc ? Do đó lần tham phỏng thứ tư, ông trách :
-Có
một vị vân thủy tăng bảo cho con biết, học Thiền thì sẽ
không còn sợ chết nữa, nhưng mỗi lần con đến thầy đều
bảo con lo săn sóc bệnh nhân. Điều này thì con đã rõ, nhưng
đó gọi là Thiền thì về sau con không dám đến làm phiền
thầy nữa.
Nam
Ẩn mỉm cười :
-Tôi
quá nghiêm khắc với ông, hãy thử cho ông một công án xem
sao.
Nói
rồi bảo y sĩ về tham thoại đầu chữ “Vô” của Triệu
Châu.
Y
sĩ khổ công tham thoại đầu này nhiều năm, cuối cùng tự
giác tâm mình trong sáng tĩnh lặng, Vô đã trở thành chân
lý. Y sĩ chăm sóc tốt cho các bệnh nhân của mình, nhưng không
coi đó là thiện hạnh. Ông đã thoát được sự lo lắng về
cái chết. Khi y sĩ đến trình sự tu tập của mình cho Nam
Ẩn. Thiền sư mỉm cười bảo ông :
-Từ
vong ngã đến vô ngã, đó là sự biểu hiện của thiền tâm.
(Thiền
Vị)
Vong ngã là để hết tâm chí vào một việc gì, vô ngã là trí huệ thấy mọi pháp đều là không.
1801.- Phú Na Dạ Xa.
Phú
Na Dạ Xa là tổ thứ 11 của Thiền tông Ấn Độ. Ông đứng
chấp tay trước mặt tổ thứ 10. Tổ thứ 10 là Hiếp Tôn
Giả, hỏi ông :
-Ông
từ đâu đến ?
-Tâm
con không đến, không đi.
-Ông
trụ ở đâu ?
-Tâm
con không chuyển, không trụ.
-Vậy
ông chẳng nhất định sao ?
-Chư
Phật cũng vậy.
-Ông
không phải là chư Phật và chư Phật cũng chẳng phải.
Nghe
lời này Phú Na Dạ Xa nhập định 21 ngày đắc vô sanh pháp
nhẫn và đưa ra câu trả lời :
-Chư
Phật chẳng phải và chư Phật cũng chẳng phải là thầy.
Hiếp
Tôn Giả gật đầu và truyền tâm ấn cho ông.
(Zen
Light)
Công án này nói về trụ xứ. Chúng ta trụ ở đâu ? Ở Nữu Ước ? Ở nhà ? Ở rừng ? Ở thân ? Ở tâm ? Ở Phật ? Không ! Không ở những chỗ này. Vậy thì ở đâu ? (Vô sanh pháp nhẫn : cảnh giới không làm các hành vi tạo nên nghiệp)
1802.- Sư Tử Tôn Giả.
Sư
Tử Tôn Giả là tổ thứ 24 của Thiền tông Ấn Độ. Ông
hỏi tổ 23 là Hạc Lặc Na :
-Con
muốn cầu Đạo, vậy phải dụng tâm thế nào ?
-Muốn
cầu đạo thì không phải dụng tâm.
-Nếu
không dụng tâm thì ai làm việc Phật ?
-Nếu
ông dụng tâm thì không có công đức. Nếu ông không làm gì
cả thì đó là làm việc Phật. Kinh nói : Công đức tôi làm
không phải là của tôi.
Nghe
lời này Sư Tử Tôn Giả phát sanh Phật huệ.
(Zen
Light)
Công
án này chỉ rằng Phật đạo không phải là con đường ta
có thể tạo nên để đi trên đó. Sư Tử Tôn Giả hỏi :
-Con
phải làm gì để đi trên đường Đạo ?
-Không
làm gì cả hãy ra khỏi đường là ở trên đường.
Cố
gắng đạt Đạo giống như muốn tạo thêm một cái đầu
mới. Chúng ta đã có một cái đầu đầy đủ tai, mắt, mũi,
miệng và chúng ta có thể nghe, nhìn, ngửi, nếm. Chúng ta đâu
cần có thêm một cái đầu nữa để làm gì ?
1803.- Lý Vạn Quyển.
Trong
kinh Duy Ma Cật phẩm Bất Khả Tư Nghị trong đó có các câu
: “Hạt cải đựng núi Tu Di” và “Nước của bốn biển
chứa trong một lỗ chân lông”.
Đời
Đường, Lý Bột là một người nổi tiếng xem nhiều sách.
Vì số sách ông đọc nhiều hơn vạn cuốn nên người ta gọi
ông là Lý Vạn Quyển. Một hôm, Lý Bột đến thăm Trí Thường,
ông hỏi :
-Trong
kinh điển nhà Phật có câu “Hạt cải đựng núi Tu Di”,
làm sao giải thích đây ?
-Người
ta gọi ông là Lý Vạn Quyển, không biết vạn quyển đó làm
sao chứa trong đầu ông hả ?
Lý
Bột hoát nhiên đại ngộ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Tất
cả mọi pháp, có khi từ sự mà nói, có khi từ lý mà giải.
Nên biết vũ trụ thế gian trong sự có lý, trong lý có sự.
Tu Di đựng hạt cải là sự, hạt cải đựng Tu Di là lý.
Nếu rõ lý sự vô ngại thì chư pháp sẽ viên dung vậy. (Tinh Vân)
(Xem
thêm công án 985)
1804.- Đứng trên đỉnh núi cao, đi dưới đáy bể sâu.
Đời
Đường, Lý Cao khi nhậm chức Đỉnh Châu Châu Mục, ông đến
bái phỏng hòa thượng Dược Sơn (751-834), hỏi :
-Xin
hỏi thầy : thế nào là Giới, Định, Tuệ ? (giữ giới, thiền
định và trí tuệ, thường được gọi là tam học, là cơ
bản tu học trong Phật giáo)
-Ở
đây bần đạo không có chuyện bá láp này. (nói cách khác
là ở đây tôi không có loại công cụ vô dụng này)
-Thật
là lời huyền chỉ khó lường. (Lời thầy khó hiểu quá,
con chẳng hiểu gì cả)
-Thí
chủ à ! Loại chuyện này (Phật pháp đại sự), nếu muốn
gánh vác trên vai thì ông phải đứng trên ngọn núi cao và
đi dưới đáy bể sâu. Nếu ông bỏ xuống được những chuyện
trong khuê phòng thì tất cả phiền não sẽ được giải trừ.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Trong
bài dân dao (ca dao) đầy ý vị thiền Sơn Mụ (bà già trong
núi) có câu : Đỉnh cao của pháp tánh lộ rõ lòng mong cầu
bồ đề, vô minh của hang sâu chỉ ra sự giáo hóa chúng sanh.
Câu
nói này chúng ta phải suy ngẫm cho kỹ.
1805.-
Một người đứng trên đỉnh núi cao không có đường ra, Một người đứng ở ngã tư đường không biết xoay lưng vào hướng nào ?
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Đây
là câu nói của hòa thượng Lâm Tế. Nói cách khác, khi đạt
tới tâm cảnh tuyệt đối bình đẳng nhưng thân vẫn ở trong
trần cảnh bất bình đẳng, cũng là nói muốn viên dung bình
đẳng và bất bình đẳng của pháp giới sự sự vô ngại
(tư tưởng tối cao của kinh Hoa Nghiêm. Sự giao tham vô ngại
giữa hai cá thể của cảnh giới tự tha bất nhị.)
Còn
nữa, một người đứng ở ngã tư đường là sống ở thế
giới tương đối, bất bình đẳng nhưng chẳng cầu tiến,
lui. Tuy ở thế giới bất bình đẳng nhưng không bị trói
buộc bởi bất bình đẳng mà sống trong cảnh giới bình đẳng.
Trên đỉnh núi cao là cầu Bồ Đề, ngã tư đường là giáo
hóa chúng sanh.
1806.- Phật mặt trời, Phật mặt trăng.
Mã
Tổ ngã bệnh, nằm trên giường, tình trạng nguy kịch chỉ
trong sớm tối. Viện chủ tới thăm bệnh, hỏi :
-Lão
sư, gần đây thân thể thế nào ?
-Phật
mặt trời, Phật mặt trăng.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Phật
mặt trời,Phật mặt trăng dẫn xuất từ kinh Tam Thiên Phật
Danh. Phật mặt trời thọ mạng là 1800 năm; Phật mặt trăng
thọ mạng chỉ có 1 ngày 1 đêm. Mã Tổ đại sư định nói
gì ? Quản Nguyên Thời Bảo lão sư nhận rằng nói Phật mặt
trời, Phật mặt trăng là nói không muốn chết ! Không muốn
chết ! Nghe nói Ẩn lão sư khi bị giải phẫu kêu lớn :
-Đau
quá, đau quá đi ! Ai nói không đau là nói bậy !
Khi
cảm thấy trời đất là một phiến đau, nỗi đau mới chân
chánh tồn tại. Đau đớn tột cùng đó là tâm cảnh nơi đây
Huệ Huyền không có sanh tử. Cổ nhân còn nói thêm như vạn
tên xuyên ngực. (Xem thêm công án 986)
1807.- Bách Trượng ngồi một mình trên núi Đại Hùng.
Có
ông tăng hỏi Bách Trượng :
-Thế
nào là sự kỳ đặc ?
-Bách
Trượng ngồi một mình trên núi Đại Hùng.
Ông
tăng này hướng Bách Trượng lạy, Bách Trượng bèn đánh
ông.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Đối với một thiền giả chuyện kỳ đặc là chuyện ngộ đạo. Đó là tự giác thánh trí của kinh Lăng Nghiêm. Thánh trí là trí tuệ Bát Nhã là loại trí tuệ mà chủ quan và khách quan hợp nhất. Do đó, nếu có người nào hỏi tôi thế nào là ngộ ? tôi chỉ có thể bảo tôi đang ngồi đây, hoặc tôi đang dùng bút viết văn. Đây chỉ là cảnh giới của bút giả. Bách Trượng ngồi một mình trên núi Đại Hùng là nói tôi đang ngồi trên núi Bách Trượng đây. Ông tăng hiểu ý này nên lạy. Bách Trượng nhận rằng “Gã tiểu tử này có thể nói chuyện được đây nên thưởng cho ông một gậy. (Xem thêm công án 119)
1808.- Giã gạo quên nhấc chân.
Hòa
thượng Thiện Đạo (lai lịch không rõ) nhân sự kiện Hội
Xương đời Đường Võ Tông (bức hại Phật giáo) bị bắt
hoàn tục. Về sau khi pháp nạn chấm dứt ông không quay trở
lại, sống cuộc đời nửa tăng nửa tục. Người đương
thời đều gọi ông là Thạch Thất hành giả. Có một lần
đang giã gạo ông tụ tinh, hội thần tiến vào cảnh giới
vô tâm, vô ngã. Ông giơ chân lên mà quên không bỏ chân xuống,
đầu óc là một phiến hư vô. Có người đem chuyện này hỏi
Lâm Tế. Lâm Tế bảo :
-Ông
ta đã chìm sâu trong suối nước.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Vô tâm cố nhiên là tốt, nhưng nếu là một loại thiền người chết thì không có cách gì lý giải chân lý. Cái gọi là chân thiền thì phải có định tuệ (định tuệ bình đẳng), phải trong không sản sanh ra tự giác, tức là phải từ tác dụng của tam muội. Khi tọa thiền nhìn những người qua lại Ngũ điều kiều (tên cây cầu ở kinh đô) như những cây cối trong rừng sâu. Nhưng như vậy vẫn chưa đúng. Khi tọa thiền phải nhìn những người qua lại ở Ngũ điều kiều như chính họ, thì mới được.
1809.- Chẳng có công đức gì cả.
Lương
Võ Đế hỏi tổ Đạt Ma :
-Từ
khi trẫm quy y Phật, xây nhiều chùa chiền, chép nhiều kinh
Phật, cung dưỡng tăng chúng. Những chuyện này thuộc loại
công đức nào ?
-Chẳng
có công đức gì cả.
(Xem
thêm công án 1025)
(Danh Thiền Bách Giảng)
Lương Võ Đế xây chùa, chép nhiều kinh, lại tự đăng đàn giảng kinh, cho là mình có công đức vô lượng. Đối với xã hội có nhiều cống hiến, ông sinh lòng vui vẻ chứ không phải là do người khác tán dương. Đạt Ma nói không có công đức gì cả là để giáo huấn ông chớ có kiêu ngạo, tự mãn và khuyên ông phải vượt lên công đức có không, vì dân chúng tạo nhiều phúc lợi.
1810.- Phật là thế nào ?
1.-
Có một phụ nữ hỏi Bàn Khuê :
-Nghe
nói người nữ tội nghiệp thâm trọng, không thể thành Phật
có thật không ?
-Người
nam có Phật của người nam, người nữ có Phật của người
nữ. Tuy nam và nữ khác nhau, nhưng đều có thể thành Phật.
2.-
Một bà cụ hỏi Triệu Châu :
-Con
mang thân ngũ chướng, làm sao để trừ ngũ chướng ?
-Nguyện
chúng sanh đều sanh cực lạc, nguyện lão bà sanh địa ngục.
(Danh
Thiền Bách Giảng)
Đứng trên lập trường Phật giáo. Phật không có phân biệt nam nữ, ai cũng có thể thành Phật.
1811.- Ngộ và không ngộ.
Một
ông tăng cung kính hỏi Huệ Lâm Từ Ái :
-Một
người ngộ đạo có thể nói ra sự cảm thọ và ngộ cảnh
không ?
-Nếu
đã ngộ, không thể nói ra.
-Khi
không nói ra được thì cảnh tượng thế nào ?
-Giống
như người câm ăn mật.
-Một
người chưa ngộ nhưng có biện tài, những gì ông ta nói có
thể coi là thiền ngộ không ?
-Nếu
chưa ngộ, những gì nói ra sao có thể coi là thiền ngộ được
?
-Không
ngộ coi là ngộ thì giống gì ?
-Giống
như vẹt học nói tiếng người.
-Người
câm ăn mật là biết và vẹt học nói tiếng người là không
biết, như trẻ con học nói nhưng không hiểu nghĩa.
-Người
chưa ngộ làm sao thuyết pháp độ sinh ?
-Mình
biết nói cho người khác biết, mình không biết không nói
cho người khác biết.
-Hiện
lão sư biết hay không biết ?
-Tôi
như người câm ăn hoàng liên bị đắng nói không ra. Cũng
như vẹt học nói rất giống. Ông nói tôi biết hay không biết
?
Ông
tăng ngay đó giác ngộ.
(Xem
thêm công án 1002)
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Cảnh
giới giác ngộ của thiền như thế nào ? Điều này không
thể nói ra. Lịch đại tồ sư dùng đánh, hét nhưng không
nói ra. Đức Phật cũng nói : “Những gì tôi nói không phải
là Phật pháp.”
Đây
không phải là chuyện cười bởi vì không dùng lời nói để
thuyết Phật pháp, đó chính là Phật pháp. Thiền tâm là cảnh
giới tự chứng, từ bình đẳng tính trí vô phân biệt mà
biết. Đó không phải là hoàng liên (thằng cuội trong hạt
sen, vị đắng) mà là mật ngọt. Không phải là vẹt mà là
Bồ Tát.
1812.- Nghèo.
Một
hôm Hương Nghiêm ( ? - 898) khi giẫy cỏ, cuốc làm văng một
hòn đá chạm vào thân trúc phát ra một tiếng. Ông hoát nhiên
đại ngộ. Sau ông trở về bái phỏng ân sư là Quy Sơn cầu
ấn chứng. Quy Sơn rất cao hứng bảo Ngưỡng Sơn đứng hầu
bên cạnh :
-Hương
Nghiêm đã triệt ngộ rồi.
Nhưng
Ngưỡng Sơn còn trẻ người non dạ khó lòng ngay đó chấp
nhận sư đệ Hương Nghiêm đã ngộ do đó hỏi khó :
-Nếu
ông đã thực ngộ hãy thử nói chuyện khác coi sao ?
Do
đó Hương Nghiêm lại hướng Quy Sơn trình bài kệ mà 2 câu
cuối như sau :
Năm
ngoái nghèo còn có dùi cắm đất
Năm
nay nghèo ngay cả dùi cắm đất cũng không.
(Xem
thêm công án 1023 và 1048)
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Trong quá khứ nghèo không phải là chân chính không, hiện tại nghèo mới là không chân chính. Năm ngoái nghèo hãy còn có dùi cắm đất. Hiện tại ngay dùi cũng không có. Ý là không chân chính (không một vật) là ngay ý tưởng về không cũng không tồn tại.
1813.- Thấy bằng thầy thì cái đức của thầy bị giảm đi một nửa.
Một
hôm hòa thượng Bách Trượng bảo đại chúng :
-Phật
pháp không phải là chuyện nhỏ. Lúc trước, tôi bị Mã đại
sư hét một tiếng, tai tôi bị ù mất ba ngày.
Đệ
tử Hoàng Bá nghe rồi bèn thè lưỡi ra.
Bách
Trượng hỏi Hoàng Bá :
-Từ
hôm nay trở đi ông sẽ kế thừa pháp thống của Mã Tổ.
-Không,
không thể được. Hôm nay nghe lời thầy nói con mới biết
được sự vĩ đại của Mã Tổ. Con chưa từng gập Mã đại
sư, nếu dám xưng là pháp tử của đại sư thì tương lai
sẽ mất sạch pháp tử, pháp tôn.
-Ông
nói đúng lắm ! Nếu kiến địa của đệ tử giống sư phụ
thì sẽ làm giảm cái Đức của sư phụ đi một nửa. Nếu
kiến địa hơn sư phụ thì mới được gọi là chân chính
truyền thọ. Trí tuệ ông hiện đã hơn tôi rồi.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
1814.- Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh.
Chúng
ta thường thấy một bộ ba bức tranh thiền treo ở thiền
viện. Bức vẽ tổ sư Đạt Ma treo ở giữa, một bên treo
Lâm Tế mở miệng hét, một bên là Đức Sơn cầm gậy. Bộ
tranh này được gọi là Ma Đức Lâm. Cây gậy và tiếng hét
đã được coi như tiêu biểu cơ dụng của Thiền Môn. Hai
người đó được coi như những bực anh hùng. Nhưng thiền
cơ không chỉ nhờ vào hét, đánh, như Triệu Châu dùng ba tấc
lưỡi cũng đã làm mọi người tin phục.
Có
một ông tăng hỏi Thủ Sơn :
-Lâm
Tế hét, Đức Sơn đánh cứu cánh là ý nghĩa gì ?
-Ông
thử nói coi.
Ông
tăng hét lên một tiếng.
-Đồ
mù.
Ông
tăng lại hét lên một tiếng nữa.
-Đồ
mù hỗn, chỉ hét bậy, còn ra thể thống gì !
Ông
tăng vái lậy lui ra. Thiền sư lại nện cho ông một gậy.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Chúng ta có thể thấy hét cũng tốt, đánh cũng tốt, nhưng chỉ những thiền sư chân chính mới có thể dùng làm thiền cơ linh hoạt.
1815.- Siêu Phật, vượt tổ.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn :
-Thế
nào là siêu Phật, vượt tổ ?
Nghe
khẩu khí này của ông tăng thì ngay cả Phật ông cũng không
coi vào đâu, nhưng nói như vậy mà thực sự ông vẫn bị
Phật trói buộc, do đó Vân Môn đáp :
-Bánh
Hồ.
Bích
Nham Lục chép như vậy, nhưng trong Vân Môn Lục thì lại chép
câu đáp là :
-Ma
Hoàng Bồ Châu, Phụ Tử Ích Châu. (tên hai vị thuốc Bắc).
Hòa
thượng Viên Ngộ cũng nói :
-Nếu
là tôi thì tôi sẽ nói :”Nước đái con lừa, cứt con ngựa”.
Đó
là nói vất bỏ mọi Phật kiến và pháp kiến đạt tới cảnh
giới tối cao, thoát khỏi mọi hình thức.
Hòa
thượng Thiên Quế (1648-1735) trong kỳ Thiền Thất cũng nêu
lên công án siêu độ u linh. Một ông tăng lập tức làm bộ
trừ u linh. Thiên Quế cười bảo :
-Ông
cứ làm thế đi.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Nếu cứ làm như thế thì cả ngay siêu độ u linh cũng không làm được nói gì đến siêu độ cho chính mình. (Xem thêm công án 43)
1816.- Ngồi lâu sanh mệt.
Một
ông tăng hỏi Hương Lâm :
-Ý
tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Ngồi
lâu sanh mệt.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Tinh
hoa của Thiền sao lại là ngồi lâu sanh mệt ? Đừng đề
cập đến chuyện Bồ Đề Đạt Ma quay mặt vào vách tọa
thiền 9 năm ở Thiếu Lâm Tự, cũng đừng đề cập đến
chuyện các sử gia khảo chứng rằng Bồ Đề Đạt Ma chưa
từng đến chùa Thiếu Lâm. Đạt Ma Thiền chỉ đến đời
thứ 7 mới truyền đến chùa Thiếu Lâm. Cho nên ngồi lâu
sanh mệt là chỉ liên tục tu hành đạt tới cảnh giới tối
cao của thiền giả. Hòa thượng Triệu Châu cũng nói :
-Đã
năm năm rồi, tôi cũng không nói được gì.
Cũng
nên đem câu này ra mà tham khảo. Đó là phương thức không
mô phỏng, không đóng kịch mà cần chân chính ngồi lâu sanh
mệt, lúc đó có thể nhẩy nhót trước mặt tổ sư. (Xem thêm
công án 83)
1817.- Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước.
Thiền
là Phật pháp chánh truyền. Nói như thế Như Lai thiền và
Tổ sư thiền là hoàn toàn tương đồng. Nhưng thiền không
phải là một sản phẩm của Ấn Độ mà là của Trung Hoa.
Theo quan điểm này thì Tổ sư thiền và Như Lai thiền là hoàn
toàn bất đồng.
Có
ông tăng nọ hỏi Ba Lăng :
-Tổ
ý và giáo ý là đồng hay dị ?
-Gà
lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước.
Lại
có ông tăng khác hỏi :
-Con
đối với tam thừa, 12 phần giáo không có chút nghi ngờ gì,
nhưng còn việc trong tông môn (tổ ý) thì sao ?
-Đây
không phải là chuyện của nạp tăng.
-Thầy
nói vậy là sao ?
-Tham
nhìn sóng bạc, mất chèo trong tay.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Gà
vịt dùng phương cách khác nhau, nhưng cùng có một mục đích
để trốn lạnh. Nếu như chỉ tìm chi tiết trên ngôn ngữ
văn tự để tìm giải đáp thì sẽ đánh mất đi trọng điểm
của Phật ý.
(Xem
lại công án 73)
1818.- Trấn hải minh châu.
Lãng
Châu Đông Ấp Hoài Chính hòa thượng (đời thứ 3 dòng Mã
Tổ) Khi Ngưỡng Sơn đến tham học, thiền sư hỏi :
-Ông
là người ở đâu ?
-Con
người Quảng Nam.
-Tôi
nghe nói Quảng Nam có viên Trấn hải minh châu không biết có
thật không?
-Dạ
thật !
-Hình
dáng nó thế nào ?
-Khi
trăng sáng nó sẽ hiển hiện.
-Ông
có mang theo không ?
-Dạ
có mang theo.
-Sao
ông không mang ra cho lão tăng coi ?
-Khi
trước con tham lão sư Quy Sơn, lão sư cũng bảo con mang ra.
Con không trả lời, cũng chẳng tìm thấy có pháp lý nào có
thể trình ra.
-Ông
thật là sư tử con, tiếng hét rất lớn.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Trong
công án nếu các ông bị hỏi :
-Sao
không đưa ra cho lão tăng coi ?
Các
ông trả lời ra sao ? Nếu có vấn đề có thể tham khảo câu
trả lời của Đầu Tử trong công án “ Đem quạt tê ngưu
ra đây”.
1819.- Trấn Châu sản xuất củ cải to.
Có
ông tăng hỏi hòa thượng Triệu Châu :
-Nghe
nói mới đầu thiền sư theo hầu sau đó kế thừa y bát của
Nam Tuyền. Chuyện này có thật không ?
Triệu
Châu là pháp tử của Nam Tuyền, chuyện này là sự thật thiên
hạ đều hay sao ông tăng này lại đem ra hỏi ? Nếu là Lâm
Tế thì thảm rồi ! Ông tăng này sẽ như Định thượng tọa
bị Lâm Tế tóm ngực, tát cho một cái và đuổi ra khỏi cửa.
Nhưng thiền phong của Triệu Châu thì không như vậy, miệng
ông như phóng quang. Ông nói :
-Trấn
Châu sản xuất củ cải to.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Trấn Châu là tỉnh Hà Bắc ngày nay. Triệu Châu sống ở thành Triệu Châu cũng thuộc Trấn Châu. Ý muốn nói lão tăng sống ở nơi đây chính là môn hạ của đại nhân vật Nam Tuyền, chính là lão Triệu Châu đã mài nhẵn “Nhàn cổ chùy” đạt tới cảnh giới viên mãn vô ngại. (Xem thêm công án 126)
1820.- Coi chừng chó .
Tử
Hồ hòa thượng (800-880) có dựng một bảng ở trước cửa
phòng đề :
-Tử
Hồ có một con chó, trên có thể cắn đầu, giữa cắn bụng,
dưới cắn chân. Có muốn hỏi chuyện gì, thân mạng khó giữ
được.
Mỗi
khi có ông tăng mới đến, thiền sư đều hét :
-Coi
chừng chó !
Ông
tăng ngoảnh đầu lại nhìn, thiền sư bèn trở về phòng phương
trượng.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Là
một thiền giả cũng nên bị con chó ở Tử Hồ cắn một
miếng mất mạng rồi sẽ tái sanh. Lúc trước Bách Trượng
bị Hoàng Bá đánh cho một chưởng rồi bảo đại chúng :
-Dưới
núi Đại Hùng có một con hổ, các ông phải cẩn thận, lão
tăng hôm nay đã bị nó cắn một miếng đấy.
1821.- Ca Tỳ Ma La.
Ca
Tỳ Ma La là tổ thứ 13 của Thiền tông Ấn Độ. Một lần
tổ 12 là Mã Minh nói về biển tánh :
-Núi
sông, đại địa đều nương vào biển tánh mà kiến lập.
Các pháp tam muội, lục thông đều do biển tánh mà phát hiện.
Ông
nghe rồi đại ngộ.
(Zen
Light)
Công án này nói về tự tánh. Bàn Khuê gọi là tâm bất sinh. Còn nhiều tên khác như : vô sanh, chân tâm, bản lai diện mục, Đạo, nội quang v . v . Tất cả đều lầm. Những gì chúng ta có thể nói về nó đều không phải là nó. Nói ra là sai rồi. Nó là nó, không hơn, không kém. Trong chuyện Ương Quật Ma La dù cố gắng cách nào, chạy nhanh thế nào cũng không bắt kịp Phật. Dù chúng ta cố gắng và khéo léo thế nào, chúng ta cũng không thể mô tả được Phật tánh.
1822.- Bài kệ của Giám Chân Sư Nãi.
清
風 樓 上 赴 官 齋
Thanh
phong lâu thượng phó quan trai
此
日 平 生 眼 豁 開
Thử
nhật bình sinh nhãn hoát khai
方
信 普 通 年 事 遠
Phương
tín phổ thông niên sự viễn
不
從 蔥 岭 帶 將 來
Bất
tòng thông lĩnh đới tương lai
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)
Lên
lầu Thanh Phong dùng bữa ngọ
Mắt
huệ bỗng nhiên mở bừng ra
Mới
hay chuyện cũ Phổ Thông ấy
Chẳng
từ đường Thông Lĩnh đem qua.
Sư
được Mân Vương mời lên lầu Thanh Phong độ ngọ. Sư ngồi
đợi bị ánh nắng làm chói mắt, hốt nhiên ngộ bèn làm
bài kệ trên.
Phổ
Thông nguyên niên là năm Bồ Đề Đạt Ma tới Trung Hoa ngang
qua ngọn Thông Lĩnh.
1823.- Tiếc thay một chén trà.
Trung
Quốc thời ngũ đại, Khể Sơn Chương thiền sư khi còn tham
học với Đầu Tử, giữ chức Sài Đầu (lo việc củi nước).
Một hôm, sau khi làm việc Đầu Tử ủy lạo ông một chén
trà :
-Sâm
la vạn tượng đều ở trong đây. Nói vậy thì chén trà này
không phải là tầm thường, nếu cứ tùy tiện uống, ai biết
hậu quả nghiêm trọng thế nào ?
Chương
thiền sư cậy mình không thiếu tu dưỡng, không đợi thiền
sư nói hết, cầm lấy chén trà hắt đi :
-Sâm
la vạn tượng giờ ở đâu ?
Ông
tỏ rằng mình có thiền cơ linh mẫn. Đầu Tử bình tĩnh bảo
:
-Tiếc
thay một chén trà !
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Ý
nói thật là phí một chén trà, tỏ rằng Chương thiền sư
chưa lãnh ngộ thiền ý chân chính “trong đây”.
Một
chén trà có thể nói nội dung không đơn giản. Trước hết
phải trồng trà, tưới bón, ánh sáng v . v . Có thể nói cây
trà là tập hợp lực lượng của vũ trụ vạn hữu mới mọc
thành. Đó không phải sâm la vạn tượng đều trong chén trà
sao ? Chương thiền sư tuy có kiến giải nhưng không khẳng
định, chỉ có Đầu Tử là biết trọn vũ trụ là một chén
trà, một chén trà là tâm vũ trụ.
(Tinh
Vân)
(Xem
thêm các công án 324, 1769)
1824.-
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non Lô, sóng Chiết Giang.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Đây
là hai câu kết trong một bài thơ của Tô Đông Pha mà hai câu
trước là :
Khói
ngút non Lô, sóng Chiết Giang
Khi
chưa đến đó luống mơ màng.
Ý
là nếu không thấy được cảnh kỳ quan của Lô Sơn thì không
thể nào trừ được nỗi ân hận. Cũng như thế, đem hết
tâm tư hết sức cố gắng để triệt ngộ, nhưng khi ngộ
rồi thì thấy sự việc vẫn y như cũ chẳng có gì sai biệt.
Đến
rồi hóa vẫn không gì khác
Khói
ngút non Lô, sóng Chiết Giang.
Trong
Luận Hàn của Vương Sung cũng nói tương tự :
-Thái
Bình Thụy Ứng (bực vương giả thi hành chính sách nhân đạo
làm trời đất cảm động, giáng xuống nhiều điềm tốt).
Mười ngày có một cơn gió, năm ngày một trận mưa, gió không
mạnh, mưa không bạo. Đó là cảnh tượng vô sự, là quý
nhân. Trong đám đệ tử của Bạch Ẩn có một ông tăng đã
khai ngộ, nhưng tiếc rằng cái ngộ của ông chưa tới chỗ,
là ngộ lầm. Ông không lễ Phật, không dâng hương, thậm
chí còn xé Đại Bát Nhã kinh làm giấy đi cầu. Ông nói :
-Tôi
đã là Phật, kinh văn chỉ là ghi lại những gì Phật nói.
Đã có Phật ở đây thì mớ giấy lộn này còn có công dụng
gì, dùng làm giấy vệ sinh chẳng là tốt ư ?
Bạch
Ẩn bảo ông :
-Nghe
nói ông đã thành Phật. Chuyện này thật đáng vui, đáng chúc
mừng, nhưng mà đít Phật cũng đáng tôn quý, ông nên dùng
giấy trắng thì hơn.
Lời
nói của Bạch Ẩn ôn hòa, êm nhẹ như không nhưng bên trong
ngầm chứa kiếm sắc đã đâm trúng tâm gã thiền cuồng.
Ông ta sám hối với Bạch Ẩn và chân thành tham cứu cuối
cùng đã chứng nghiệm thế nào là bản lai diện mục.
1825.- Mưa xuống rêu xanh tươi.
Thi
sĩ Ba Tiêu từ lâu nay vẫn theo tham học với hòa thượng Phật
Đảnh trụ trì Lộc Đảo Căn Bản Tự. Sau một cơn mưa, hòa
thượng đến thăm Ba Tiêu ở Ba Tiêu Am, ở Thâm Xuyên, Giang
Hộ. Ba Tiêu mừng rỡ ra cửa đón vào. Khi hai người trò chuyện,
hòa thượng cảm thấy Ba Tiêu hình như trừ bỏ được một
cái gì, bèn hỏi :
-Gần
đây có chuyện gì vậy ?
-Mưa
xuống rêu xanh tươi.
Khi
tâm nhãn mở ra thì có thể thấy chân như tướng (những gì
mắt nhìn thấy đều là thật). Nói cách khác, mưa xuống rêu
xanh tươi, cái cảm giác mới mẻ này là của con mắt đã
giác ngộ. Hòa thượng không bỏ qua, truy vấn :
-Thế
nào là Phật pháp lúc rêu chưa xanh ? (thế giới hỗn độn
khi chưa có sinh vật).
Đây
cũng là ý của câu “Ngọn Côn Lôn đen ngòm đi trong đêm”
là đồng công, dị khúc. Nhưng Ba Tiêu không bị rơi vào hang
tối (vô sai biệt của cảnh giới ác bình đẳng) nên ngâm
bài cú trứ danh sau để trả lời :
Hồ
cũ lặng yên
Một
con ếch nhẩy vào
Bõm.
Trong
khoảnh khắc tâm nhãn của Ba Tiêu đã mở ra. Thi phong của
ông đã tiến vào cảnh xuất thần nhập hóa.
1826.- Bị đá đè măng mọc nghiêng
Bên bờ vách hoa nở ngược.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Câu
này ý nói là đợi đối phương hành động ra sao, chúng ta
sẽ tìm phương cách thích hợp nhất để đối phó. Đó là
tâm của thiền giả. Khi hòa thượng Già Sơn (1825-1895) ở
Bát Phan Viên Phúc Tự nhậm chức Quản trưởng ở Từ Dã
Đại Đức Tự (quản lý một tông phái), ông dùng thuyền
từ Giang Châu Ngạn Cách tới Đại Tân đi qua hồ Tỳ Bà.
Đi cùng thuyền còn có một người về sau là trụ trì Nga
Sơn Thiên Long Tự, lúc đó còn tu ở Mỹ Nùng Chánh Pháp Tự.
Ông phụng mệnh sư phụ đến tiệm may pháp y ở kinh đô.
Nga Sơn đối với vị lão tăng mặc áo rách, đầu đội nón
giống như một nông phu, chỉ nhìn bằng nửa con mắt. Với
vóc dáng khôi ngô, ông có vẻ như một vị tổ sư, ông vào
ngồi giữa thuyền. Không lâu, ông thấy vị tăng già bắt
đầu tụng kinh, ông nghĩ thầm :
-Ông
già này đã đi nửa đường rồi mà bây giờ mới học tụng
kinh.
Do
đó ông thuyết pháp cho Già Sơn nghe thiền học khó khăn như
thế nào, phải ra sức làm sao v . v . Già Sơn chỉ im lặng.
Đến bờ rồi hai người cùng đi trên đường Đại Tân, gần
tối mới tới tiệm may pháp y. Lúc đó Nga Sơn mới biết ông
già là Già Sơn Quản Trưởng thì rất kinh sợ. Về sau Nga
Sơn trở thành đệ tử của Già Sơn.
1827.- Tôi ở nơi Đam Nguyên được thể, ở nơi Quy Sơn được dụng.
Ngưỡng
Sơn mới đầu theo Thạch Sương Tánh Không. Có một lần một
ông tăng hỏi Thạch Sương :
-Thế
nào là ý tổ sư từ Tây sang ?
-Nếu
như có một người rơi xuống giếng sâu ngàn thước, ông
có thể cứu người ấy ra mà không dùng một tấc giây thừng
nào thì tôi sẽ bảo cho ông biết.
Ngưỡng
Sơn đứng một bên nghe được đoạn đối thoại này bèn
lấy đó làm công án, tham cứu nhiều năm mà vẫn không ngộ.
Về sau Ngưỡng Sơn theo học Đam Nguyên, bèn đem chuyện này
ra hỏi :
-Làm
sao cứu được người ở trong giếng ra ?
Đam
Nguyên mắng :
-Con
trùng hồ đồ này! Ai ở trong giếng hả ?
Ngưỡng
Sơn kinh ngạc, có chỗ sở ngộ. Về sau khi đến tham học
Quy Sơn lại đem vấn đề trên ra hỏi . Quy Sơn lên tiếng
gọi :
-Huệ
Tịch !
-Dạ
!
-Đã
ra rồi !
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Động
tác trả lời là Dụng. Ai lên tiếng dạ ? chả là đã ra khỏi
giếng rồi sao ? Ngay từ đầu vốn chẳng có ai ở trong giếng.
Đến vãn niên Ngưỡng Sơn có nói qua :
-Tôi
ở Đam Nguyên được Thể, ở Quy Sơn được Dụng.
Thiền
vốn siêu việt thường thức. Nếu chỉ căn cứ trên sự tướng
mà giải thích thế này, thế kia thì chỉ là dùng tri kiến
của vọng tâm, không phải là sự thể ngộ của thiền tâm. (Tinh Vân)
(Xem
thêm công án 1014)
1828.- Bài kệ của Hoa Đình Nhị Ẩn Mật Thiền Sư.
Năm
Khang Hi Giáp Thân, sư biết thế duyên đã tận hỏi thị giả
:
-Tới
ngọ chưa ?
-Thưa
đã quá ngọ.
Hôm
sau sư lại hỏi :
-Tới
ngọ chưa ?
-Dạ,
đúng ngọ.
Sư
bèn đọc bài kệ từ biệt :
昨
日 歸 家 時 未 至
Tạc
nhật quy gia thời vị chí
今
日 歸 家 正 午 時
Kim
nhật quy gia chính ngọ thời
夢
幻 空 花 留 不 住
Mộng
ảo không hoa lưu bất trú
此
心 能 有 幾 人 知
Thử
tâm năng hữu cơ nhân tri.
(Thiền
Lâm Châu Cơ)
Hôm
qua về nhà chưa tới lúc
Hôm
nay về nhà tới lúc rồi
Mộng
ảo không hoa đâu giữ được
Tâm
này biết có mấy người hay ?
1829.- Bồ Đề Đạt Ma.
Bồ
Đề Đạt Ma là tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ. Tổ
27 là Bồ Đề Đa La hỏi :
-Ông
có biết trong mọi vật, vật nào là vô tướng ?
-Ở
trong mọi vật, không khởi một niệm là vô tướng.
-Ở
trong mọi vật, vật nào là lớn nhất ?
-Ở
trong mọi vật, pháp tánh là lớn nhất.
(Zen
Light)
Tâm điểm của công án này là thực tại. Bát Nhã Đa La trắc nghiệm sự hiểu biết của Bồ Đề Đạt Ma bằng hai câu hỏi về thực tại, và Bồ Đề Đạt Ma trả lời là không khởi niệm và pháp tánh. Kết hợp hai ý này là có thực tại. Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta biết cả vũ trụ nằm trên đầu một sợi lông. Thực tại là bây giờ, là làn gió, là lá bay, là tiếng chim hót, là dòng suối chẩy. Chúng ta biết thực tại trong xương tủy chúng ta.
1830.- Phục Đà Mật Đa.
Phục
Đà Mật Đa là tổ thứ 9 của Thiền tông Ấn Độ. Ông nghe
tổ thứ 8 là Phật Đà Nan Đề nói bài kệ :
Lời
ông là một với tâm ông
Ngay
cha mẹ ông cũng không gần hơn
Hành
động của ông cùng đạo là một
Cái
tâm ấy là Phật.
Nếu
ông tìm bên ngoài một vị Phật có hình tướng
Thì
vị Phật ấy chẳng giống ông.
Nếu
ông muốn biết bản tâm ông
Thì
tâm ấy chẳng lìa chẳng hợp.
Nghe
được bài kệ này ông liền giác ngộ.
(Zen
Light)
Có
hai chuyện có thể giải thích công án này.
Chuyện
thứ nhất.- Một ông tăng hỏi Lâm Tế :
-Nếu
gập Phật ở trên đường thì phải làm sao ?
-Giết
liền !
Chuyện
thứ hai.- Ương Quật Ma La cố đuổi theo Phật để giết nhưng
dù cố gắng cách nào cũng không đuổi kịp.
Trong
câu chuyện thứ hai, Đức Phật có hiện hữu không ? hay Ngài
là ma ? Ngài ở đâu ?
Phật
Đà Mật Đa biết điều này, ông nói :
-Cha
mẹ chẳng gần tôi
Ai
là người thân nhất với tôi ?
Phật
chẳng phải là đường của tôi
Con
đường nào thân nhất với tôi ?
1831.- Bãi cứt trâu.
Tô
Đông Pha cùng ngồi thiền với Phật Ấn, ông cảm thấy thân
tâm thông sướng, bèn hỏi Phật Ấn :
-Thầy
thấy tôi ngồi thiền như thế nào ?
-Rất
trang nghiêm, giống như một vị Phật.
-Còn
học sĩ thấy tôi ngồi thiền như thế nào ?
-Giống
một bãi cứt trâu.
Phật
Ấn nghe rồi rất cao hứng. Tô Đông Pha nghĩ mình chiếm được
thượng phong, lấy làm khoái chí đi khoe cùng khắp. Chuyện
tới tai người em gái là Tô tiểu muội, cô bảo anh :
-Ca
ca sai rồi ! Trong óc thiền sư như Phật nên thấy anh là Phật.
Trong óc anh như cứt trâu nên thấy thiền sư là bãi cứt trâu.
Đông
Pha á khẩu, mới biết thiền công của mình còn kém Phật
Ấn xa.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền không phải là tri thức mà là ngộ tánh. Thiền không phải là ăn nói cho giỏi mà là linh tuệ. Thiền sư cơ phong linh lợi, sắc bén, không nói nhưng pháp âm có thể làm điếc cả tai.
1832.- Trộm trăng.
Một
lần thiền sư Lương Khoan đi vắng, một tên trộm lẻn vào
am cỏ của ông nhưng chẳng tìm thấy món đồ nào có giá
trị để lấy. Đúng lúc đó Lương Khoan trở về. Ông không
nỡ để tên trộm về tay không bèn cởi áo ra cho. Tên trộm
vội vơ lấy áo mang đi. Lương Khoan mình trần nhìn trăng sáng
cảm khái :
-Tiếc
thay tôi không thể cho hắn vầng trăng sáng này.
(Thiền
Vị)
Vầng
trăng tượng trưng cho tự tánh của chúng ta. Tự tánh trong
chúng ta có vô hạn bảo tàng, nếu có thể nhận biết bảo
tàng của mình thì đâu cần đi ăn trộm của người.
(Xem
công án 351)
1833.- Đông Tây đều là giặc.
Thiền
sư Tự Tân từng theo học với Đạo Ưng, về sau quy ẩn ở
Chung Lăng Quảng Đức Sơn. Văn Mục Vương dẫn quân đi chinh
phục Chung Lăng, khi quân tới chùa, đại chúng đều chạy
trốn cả, chỉ có một mình Tự Tân ngồi thiền như bình
thường. Văn Mục Vương ngạc nhiên hỏi :
-Mọi
người đều chạy trốn, sao thầy không chạy ?
-Đông
Tây đều là giặc, lão tăng chạy đi đâu ?
Văn
Mục Vương nghe lời chỉ trích ngay thẳng, cảm phục, hạ
lệnh rút quân.
Về
sau Vương xây Đoan Ứng Viện cho thiền sư và tặng hiệu Quảng
Hiện đại sư.
(Thiền
Vị)
Thất bại có thể dẫn đến thắng lợi, tử vong có thể dẫn tới vĩnh sanh.
1834.- Đồ chồn hoang này.
Nhân
chuyện Kim Ngưu hòa thượng (Xem công án 156) Trường Khánh
phê bình :
-Có
gì đâu, giống như tụng kinh trước khi thọ trai vậy.
Một
ông tăng không hiểu hỏi Đại Quang câu này có ý nghĩa gì.
Đại Quang bèn nhẩy múa để trả lời. Ông tăng lạy. Đại
Quang hỏi :
-Ông
thấy gì mà lạy ?
Ông
tăng bèn nhẩy múa. Đại Quang mắng :
-Đồ
chồn hoang này !
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Tuy nói thiền là không dính mắc gì, nhưng không thể không phân rõ ràng mà ha hả cười lớn hoặc nhẩy múa, thậm chí còn nhẩy múa trần truồng trước mặt người nữ. Đó là giả thiền của bọn chồn hoang. Nghe nói Tuyết Đậu cũng thích câu nói này nên chép vào Bích Nham Lục.
1835.- Hiếp Tôn Giả.
Hiếp
Tôn Giả là tổ thứ 10 của Thiền tông Ấn Độ. Ông theo
tổ thứ 9 là Phục Đà Mật Đa, ba năm liên tục không nằm
xuống ngủ. Một hôm, Phục Đà Mật Đa đọc một cuốn kinh
và giảng lý vô sanh của tự tánh. Nghe lời này ông đại
ngộ.
(Zen
Light)
Ngày xưa kinh được chép trên những tấm lụa, cuốn vào một trục. Khi đọc kinh người ta mở tấm lụa ra, phần nào đã đọc xong người ta cuốn vào một trục khác. Vì tấm lụa chép kinh được mở ra bởi một trục và cuốn lại bởi một trục khác nên người ta còn gọi đọc kinh là chuyển kinh (chuyển pháp luân). Ở Tây Tạng thì người ta khắc kinh trên những cối đá xoay có tay cầm để xoay. Hãy khiến những lời kinh trở thành lời của chính các ông. Hãy chuyển, chuyển cho tới khi sự chuyển kinh trở thành các ông.
1836.- Mã Minh.
Mã
Minh là tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ. Ông hỏi tổ
thứ 11 là Phú Na Dạ Xa :
-Con
muốn biết Phật, Phật là thế nào ?
-Ông
muốn biết Phật, thì chỗ không biết ấy là Phật.
-Đã
chẳng biết Phật, sao biết đó là Phật.
-Ông
đã không biết Phật, sao biết đó không phải là Phật.
-Giống
như là cưa.
-Giống
như là gỗ. Tôi hỏi ông cưa nghĩa là sao ?
-Con
và thầy bình phân như răng cưa trên lưỡi cưa, còn gỗ nghĩa
là gì ?
-Ông
cưa tôi ra.
Nghe
rồi Mã Minh đại ngộ.
(Zen
Light)
Không
biết ở đây không có nghĩa là ngu si chẳng biết gì cả,
mà là không có một quan điểm đặc biệt nào, là cởi mở
với bất cứ cái gì xẩy ra, không có ước lượng, không
đánh giá, chỉ nhìn sự vật như chính nó không thêm thắt
gì. Chúng ta thường có khuynh hướng thêm thắt. Hãy làm một
thử nghiệm. Chúng ta hãy kể một chuyện gì đó cho một nhóm
5 người, rồi sau đó bảo họ kể lại. Chắc chắn là năm
chuyện kể lại không giống như những gì ta kể cho họ. mỗi
người trong nhóm đều có thêm thắt một cái gì. Nghe không
đơn giản chỉ là nghe. Nó là một tiến trình gồm kinh nghiệm,
ý kiến, tiên kiến, những cái chúng ta yêu ghét, tín ngưỡng
v .v . Vì vậy khi kể lại những yếu tố này đã ảnh hưởng
đến câu chuyện. Khi Phú Na Dạ Xa trả lời Mã Minh :
-Chỗ
không biết ấy là Phật.
Không
phải ông bảo “không biết” là Phật mà là chính Mã Minh
ông “Không biết” đã là Phật rồi.
1837.- Cưỡi trâu tìm trâu.
Có
ông tăng hỏi Bách Trượng :
-Con
muốn thành Phật, xin thầy từ bi chỉ thị phải làm sao cho
tốt ?
-Giống
như cưỡi trâu tìm trâu.
-Nếu
tìm được trâu rồi thì sao ?
-Cưỡi
trâu về nhà.
-Làm
sao giữ cho trâu khỏi chạy rông ?
-Phải
coi cho kỹ đừng để cho nó ăn lúa ruộng người.
(Thiền
Vị)
Tự
tánh ai cũng có.
(Xem thêm công án 448)
1838.- Thiếu gì ?
Trần
Tôn Túc hỏi một lão thiền sư :
-Nếu
có một đồng hành huynh đệ đến, thiền sư sẽ nói gì ?
-Đợi
họ đến sẽ nói.
-Sao
bây giờ không nói ?
-Ông
có thiếu gì ?
-Tốt
! Tốt ! Đừng nói những lời vô bổ .
(Tứ Lý Thiền)
Đây là đối thoại của 2 vị cao thủ. Trần Tôn Túc trước công sau thủ, lão thiền sư trước thủ sau công. Hai người ngang tay.
1839.- Một câu nói hết.
Một
ông tăng hỏi Trần Tôn Túc :
-Làm
sao là một câu nói hết ?
-Câu
nói của ông vốn có khuyết điểm, không thể đứng vững.
(Tứ
Lý Thiền)
Câu hỏi của ông tăng vốn đã có mâu thuẫn. Nếu đã là một câu nói hết thì tại sao lại còn thêm làm sao ?
1840.- Buổi tham chiều của Mục Châu.
Mục
Châu Trần Tôn Túc là học trò của Hoàng Bá Hi Vận, là sư
huynh của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Một hôm nhân buổi tham vấn
bảo :
-Các
ông đã thấy đường vào cửa thiền chưa ? Nếu chưa thì
hãy cố gắng tìm. Khi tìm được rồi đừng hạnh phụ lão
tăng.
Lúc
đó một ông tăng đứng ra thưa :
-Về
sau con không dám hạnh phụ hòa thượng.
-Ông
nói vậy là đã hạnh phụ lão tăng rồi, còn nói gì về sau
nữa ?
(Tứ Lý Thiền)
Cảnh giới thiền là không linh, không vết tích. Ông tăng này đem “Không dám hạnh phụ” ném vào tâm, tuy có lòng thành nhưng cũng đã lìa xa thiền một vạn tám ngàn dậm rồi.
1841.- Tăng Già Nan Đề.
Tăng
Già Nan Đề là tổ thứ 17 của Thiền tông Ấn Độ. Một
lần tổ thứ 16 đọc cho ông nghe một bài kệ :
Tôi
vốn không ngã
Ông
nên thấy ngã
Vì
ông nhận tôi là thầy
Ông
sẽ hiểu tôi không phải là ngã.
Ông
nghe bài kệ này, tâm huệ mở ra, cầu tổ độ thoát.
(Zen Light)
Một trong những giáo lý của Như Lai là vô thường. Điểm này không có gì là khó hiểu. Chúng ta thấy với chính mắt chúng ta mọi vật luôn thay đổi. Ngã không cố định, nó luôn biến đổi. Chúng ta không thể chỉ vào nó và nói đây là ngã. Cái mà ta chỉ không phải là nó nữa rồi, nó đã đổi khác. Từ đó chúng ta sẽ cảm nhận về giáo lý của tánh không. Chúng ta có thể nói ngã là không. Thân ta, con chó, con mèo, sông, núi, hoa lá v . v . chúng đều có một điểm chung : chúng đang chuyển động, thay đổi, không bao giờ cố định. Lời nói là sai lầm. Chúng ta cố dùng lời để xác định một sự vật, nhưng chúng ta quên rằng mọi vật luôn thay đổi. Khi chúng ta gập một người sau nhiều năm thì người đó không phải là người mà chúng ta quen lúc trước nữa. Vấn đề là ở chỗ chúng ta cứ bám víu vào một cái gì đó mà chúng ta tin là ngã. Khảo sát tế bào bằng những kính hiển vi điện tử chúng ta thấy rằng những khoảng trống giữa các tế bào rất lớn. Càng nhìn gần chúng ta thấy khoảng cách càng lớn. Ngã là không. Trong tánh không chúng ta hoàn toàn cởi mở với người khác.
1842.- Chỉ là cái đó.
Thiền
sư Ngũ Tiết Linh Mặc mới đầu tham học nơi Mã Tổ, sau lại
đến bái phỏng Thạch Đầu Hi Vận. Khi gặp mặt Thạch Đầu,
ông hỏi :
-Nếu
thầy nói một câu khế hợp con sẽ ở lại theo thầy, nếu
nói không khế hợp con sẽ đi nơi khác.
Thạch
Đầu ngồi im trên thiền sàng, không thèm để ý đến ông.
Linh Mặc quay đầu đi ra. Thạch Đầu bỗng gọi :
-Xà
lê !
Linh
Mặc bất giác quay đầu lại. Thạch Đầu bảo :
-Ông
hãy chú ý ! Một người từ sanh đến tử đều y cứ vào
cái đó, đầu ông quay đi, quay lại suy nghĩ lung tung có ích
gì ?
Thạch
Đầu vừa nói xong, Linh Mặc liền triệt ngộ, bẻ gậy ở
lại bái Thạch Đầu làm thầy.
(Tứ Lý Thiền)
Công án này rất tinh xảo. Descartes có nói : “Tôi suy nghĩ, vậy tôi hiện hữu.” Nhưng cái tôi này là gì ? Trăm năm, ba vạn sáu ngàn ngày, cái tôi này ngày ngày theo ta như thế nào, e rằng ít người biết rõ. Không biết có gương báu nào có thể soi thấy cái tôi bản lai diện mục này ? Người nào có hứng thú có thể dùng tiếng gọi của Thạch Đầu quay đầu lại tự phản tỉnh chính mình.
1843.- Đống củi.
Thạch
Đầu hỏi một ông tăng mới tới :
-Ông
từ đâu đến ?
-Con
từ Giang Tây lại.
-Ông
có đến tham vấn Mã đại sư không ?
-Dạ
có !
Thạch
Đầu chỉ đống củi ở sân thiền viện :
-Ông
thấy Mã đại sư có giống đống củi này không ?
Ông
tăng không trả lời được, trở về Giang Tây thuật lại
cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ hỏi :
-Ông
thấy đống củi ấy nặng hay nhẹ ?
-Con
không cân nên không biết.
-Ông
thật có sức mạnh, vác một đống củi từ Hồ Nam về đến
Giang Tây.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền luôn luôn chỉ đến chỗ tận cùng của chân lý (tự tánh). Các thiền sư khảo nghiệm, ấn chứng là xem các thiền sinh thể nghiệm tự tánh này như thế nào. Cái tự tánh này ở trong vạn vật nhưng lại độc lập, người thường dùng lý luận chia chẻ nên không nhận ra. Ông tăng trong công án này không biết cái gì là Mã Tổ, cái gì là đống củi. (Xem thêm công án 888)
1844.- Phật, pháp đều là bụi.
Thiền
sư Hương Nghiêm Nghĩa Đoan là học trò Nam Tuyền Phổ Nguyện
có lần bảo đại chúng :
-Huynh
đệ, các ông trong khi tu hành nên biết Phật là bụi, pháp
cũng là bụi, đều là đối tượng của tư duy, không phải
là Phật thật, pháp thật. Do đó các ông cả ngày đi tìm
chỉ là tốn công, phí sức làm sao có thể chân chánh an tĩnh
thành Phật, chân chánh hiểu pháp ? Tôi bảo cho các ông biết
phương pháp khi làm bất cứ một sự việc gì không giữ thiện
cũng không bỏ ác. Các ông chớ nên bị hiện tượng này làm
mê muội. Đó là chỗ các ông phải tu.
(Tứ Lý Thiền)
Công án này chỉ rõ phương pháp của Thiền tông, chỉ rằng đừng mê tín Phật, pháp, điều quan trọng là làm sao tự mình đạt tới cảnh giới Phật. Nhưng con người ta vì chấp vào chuyện giữ thiện, bỏ ác quá nặng nên khó thoát khỏi cái vòng tư duy tương đối này.
1845.- Núi xanh chẳng động.
Có
ông tăng hỏi Linh Vân Chí Cần :
-Tu
hành làm sao để đạt tới cảnh giới không bị thọ khổ
bởi những hiện tượng vô thường : sinh, lão, bệnh, tử
?
-Ông
có thấy ngọn núi xanh sừng sững trước mặt không ? Nó đứng
đây từ ngàn vạn năm không hề chuyển động mặc mây sớm
mưa chiều, mưa móc tới rồi đi.
(Tứ Lý Thiền)
Sinh lão bệnh tử là bốn sự việc vô thường tối thống khổ. Cái ngã chịu sự chi phối bởi sinh lão bệnh tử khác với chân ngã bất động như ngọn núi xanh không hề hấn gì bởi mây sớm mưa chiều. Hiểu rõ cái chân ngã ấy rồi thì ta sẽ hưởng dụng được thường, lạc, ngã, tịnh.
1846.- Ông chính là Phật.
Thiền
sư Phù Dung Linh Huấn tham học với Quy Tông Trí Thường, ông
hỏi :
-Làm
sao mới thành Phật ?
-Nếu
tôi nói rõ cho ông, ông có tin không ?
-Lão
thiền sư thành tâm, thành ý bảo sao con dám không theo ?
-Ông
chính là Phật.
Linh
Huấn tâm lãnh, thần hội, lại hỏi :
-Làm
sao bảo nhậm ?
-Một
hạt bụi rơi vào mắt, không hoa rơi loạn.
(Tứ Lý Thiền)
Một
hạt bụi trong mắt, không hoa rơi loạn, một mạch không thông,
toàn thân chẳng an, một lỗ kiến nhỏ di hại vạn dậm đê.
Cẩn thận.
1847.- Con chó không có Phật tánh.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con
chó có Phật tánh không ?
-Không
!
(Tứ Lý Thiền)
Phật
tánh không thể dùng lý luận mà biết được, mà phải thực
chứng.
(Xem
thêm công án 1020)
1848.- Con chó có Phật tánh.
Một
ông tăng khác lại hỏi Triệu Châu :
-Con
chó có Phật tánh không ?
-Có !
-Tại
sao phải làm thú ?
-Biết
mà cứ làm.
(Tứ Lý Thiền)
Ông tăng đã biết Phật tánh là bình đẳng, sao còn phân biệt người với chó ?
1849.- Huệ Năng nghe kinh.
Lục
tổ Huệ Năng lúc còn nhỏ, bố mất sớm, sống với mẹ.
Về sau mẹ rời về Nam Hải Quần ( nay là Quảng Châu). Ngày
ngày ông phải đi đốn củi, rồi gánh ra chợ bán để sống.
Một hôm ở chợ, ông nghe một người khách đọc kinh. Huệ
Năng nghe rồi tâm liền khai ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Trong thế giới này mọi người đều bình đẳng, bình đẳng trong sinh hoạt, bình đẳng trong chân lý; chẳng vì giàu nghèo mà có sai biệt. Vấn đề là tâm để ở đâu thôi.
1850.- Vua làm ruộng.
Một
ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm :
-Bản
lai nhân (tự tánh) có cần thành Phật không ?
-Ông
có thấy Hoàng đế Đại Đường xuống ruộng cầy, cấy không
?
(Tứ Lý Thiền)
Nhìn là công việc của mắt, nghe là công việc của tai, tiêu hóa là công việc của dạ dày và ruột. Những việc này đều do đại não cai quản, nhưng đại não không làm những việc này. Thiền tông nhận định rằng thành Phật là một quá trình tu hành, và quá trình này chỉ là sự trở về của Phật tánh. Tôi bỏ nhà ra đi, nay trở về nhà tôi vẫn có.
1851.- Tâm bình thường.
Một
ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm :
-Thiền
tông nói tâm bình thường là đạo, xin hỏi tâm bình thường
là cái gì ?
-Muốn
ngủ thì ngủ, muốn ngồi thiền thì ngồi. Đó là tâm bình
thường.
-Con
vẫn chưa hiểu.
-Nóng
thì tìm bóng mát, lạnh thì lại gần đống lửa. Đó là tâm
bình thường.
(Tứ
Lý Thiền)
Tâm bình thường là tâm chúng ta dùng hàng ngày có thể sản xuất thiện ác, xấu đẹp, có thể phát minh, sáng tạo. Nó bình thường không có đặc điểm gì. Nếu có đặc điểm gì thì là do nó tạo ra không phải là bản thân nó.
1852.- Dạy ông suy nghĩ.
Một
ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm :
-Sư
phụ của thầy là Nam Tuyền chết rồi đi đâu ?
-Hòa
thượng Thạch Đầu lúc còn trẻ là sa di có đến tham phỏng
Lục tổ.
-Con
không hỏi chuyện hòa thượng Thạch Đầu đến tham Lục tổ,
con hỏi là hỏi Nam Tuyền chết rồi đi đâu ?
-Tôi
dạy ông suy nghĩ .
(Tứ Lý Thiền)
Một người chết rồi đi đâu ? Có thật là có linh hồn không ? Thiền tông phản đối chuyện này. Cứ theo Thiền tông thì sau khi chết con người có tồn tại hay không, không cần biết, điều ta cần biết là ngay lúc này ta tồn tại hay không tồn tại ?
1853.- Ông lão 80.
Bạch
Cư Dị thỉnh giáo điểu sào thiền sư :
-Đại
ý Phật pháp là gì ?
-Không
làm mọi điều ác, làm tất cả mọi điều lành.
-Trẻ
ranh 3 tuổi cũng biết điều này.
-Trẻ
3 tuổi biết, nhưng lão 80 chưa chắc đã làm được !
(Tứ Lý Thiền)
Biết
là một chuyện, làm được hay không lại là một chuyện khác.
Ai cũng muốn được Chân, Thiện, Mỹ nhưng đạt được thì
có mấy người ?
(Xem
thêm công án 75)
1854.- Hư không rơi xuống đất.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Cây
bách khi nào thành Phật ?
-Khi
hư không rơi xuống đất.
-Khi
nào hư không rơi xuống đất.
-Khi
cây bách thành Phật.
(Tứ Lý Thiền)
Câu trả lời của Triệu Châu không có khởi điểm, cũng không có kết cục. Ở đây thời, không không phải là cốt yếu mà là hiện tại. Ông việc gì phải phí tâm lực lo lúc nào cây bách thành Phật, mà không nghĩ lúc nào mình thành Phật ?
1855.- Tâm động.
Lục
tổ sau khi giác ngộ, ẩn cư 15 năm trong dân gian, sau đó tới
Pháp Tánh Tự. Lúc đó gió thổi, cờ bay. Có 2 ông tăng tranh
luận. Một ông nói gió động, một ông nói cờ động. Lục
tổ bảo :
-Không
phải gió động, không phải cờ động mà là tâm các ông
động.
(Xem
công án 95)
(Tứ Lý Thiền)
Đây là một chuyện triết lý thú vị. 3 đáp án, câu nào trúng ? Dĩ nhiên là câu của Lục tổ, và như vậy Lục tổ đã đội mũ duy tâm chủ nghĩa. Nhưng Thiền không phải là triết học mà là sự tu dưỡng của tâm và thân. Trong kinh Phật có câu đếm của báu của người dù có đếm bao nhiêu cũng vô dụng. Trong Thiền học chúng ta phải bắt tay vào chính của báu của mình là thân và tâm chứ ngưng lại ở nhận thức do đọc sách hay nghe giảng thì có lợi ích gì ?
1856.- Quán Âm vào cửa.
Có
một lần Bách Trượng dẫn chúng tăng làm ruộng trên núi.
Đúng ngọ, tiếng trống chùa vang lên báo giờ cơm đã đến.
Vì Bách Trượng chưa ra lệnh nghỉ nên chư tăng vẫn làm việc.
Có một ông tăng nghe tiếng trống bèn vác cuốc lên vai, cười
ha hả đi về chùa. Bách Trượng trông thấy, khen ngợi :
-Hay
quá ! đúng là Quán Âm vào cửa.
Khi
về tới chùa Bách Trượng kêu ông tăng đó lại hỏi :
-Hôm
nay ông thấy đạo lý gì mà có cử chỉ ấy ?
-Chẳng
có đạo lý gì cả. Buổi sáng nay con chưa ăn cơm, cảm thấy
đói bụng, nghe tiếng trống báo giờ ăn nên chạy về chùa
ăn.
Bách
Trượng nghe xong ha hả cười lớn.
(Tứ Lý Thiền)
Đừng coi chân lý là những lý lẽ huyền diệu của bờ bên kia. Trong sinh hoạt hàng ngày đi, đứng, nằm, ngồi đều thấm nhuần chân lý. Đừng đem chân lý ném vào đầu não, mà để đầu não trở về với sinh hoạt hiện thực, như thế không phải đi tìm, chân lý luôn theo bên ông.
1857.- Bài kệ của Thảo Đường.
七
百 僧 中 選 一 个
Thất
bách tăng trung tuyển nhất cá
本
來 無 物 便 相 親
Bản
lai vô vật tiện tương thân
夜
傳 衣 缽 曹 溪 去
Dạ
truyền y bát Tào Khê khứ
銕
樹 開 花 二 月 春
Thiết
thụ khai hoa nhị nguyệt xuân.
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)
Trong
bẩy trăm tăng chọn lấy một
Vốn
không một vật lại là thân
Lục
tổ đêm ấy nhận y bát
Dường
như cây sắt nở hoa xuân
Thảo Đường nhắc lại chuyện ngũ tổ truyền y bát cho Lục tổ Huệ Năng.
1858.- Thể của Bát Nhã.
Đời
Mạt Đường, Triệu Châu Tòng Thẩm khi du phương có đến
Hàn Châu Đại Từ Sơn. Triệu Châu hỏi Đại Từ Hoàn Trung
:
-Bát
Nhã lấy gì làm thể ?
Đại
Từ lập lại :
-Bát
Nhã lấy gì làm thể ?
Triệu
Châu cười lớn đi ra, ông đã gập được tri âm. Ngày hôm
sau, Triệu Châu đang quét sân, Đại Từ đến bên hỏi :
-Bát
Nhã lấy gì làm thể ?
Triệu
Châu bỏ chổi xuống, vỗ tay cười lớn. Đại Từ không hỏi
nữa, trở về phòng phương trượng. Ông biết ông đã cắn
phải hột hồ tiêu rất cay.
(Tứ Lý Thiền)
Bát Nhã là trí tuệ đáo bỉ ngạn, ở khắp nơi. Nếu nói đến nó là giới hạn nó. Do đó các thiền sư khi gập phải vấn đề này, nếu không chỉ Đông nói Tây thì tránh né không nói, về sau thì dùng tiếng hét hay dùng gậy đánh.
1859.- Không một vật.
Nghiêm
Dương đến tham học với Triệu Châu, ông hỏi :
-Khi
tu hành đạt tới cảnh giới không một vật, trừ hết tạp
niệm, mọi tư duy thì sao ?
-Ông
hãy bỏ niệm đầu không một vật xuống đi.
-Nếu
đã không một vật thì còn gì để bỏ xuống nữa ?
-Nếu
không bỏ xuống được, thì ông hãy mang nó đi.
Nghiêm
Dương cuối cùng đã ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền nhấn mạnh đến không nhưng nhiều người lại chấp vào không coi đó như một giáo điều thành ra “không” không còn là không nữa.
1860.- Nô bộc của thời gian.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Trong
12 thời làm sao dụng tâm ?
-Ông
bị 12 thời chuyển, còn lão tăng chuyển 12 thời.
(Tứ Lý Thiền)
Nên làm chủ thời gian hay làm nô lệ cho nó ? Làm sao để từ nô lệ biến thành chủ nhân ông ?
1861.- Kiếp hỏa.
Một
ông tăng hỏi Đại Tùy :
-Khi
kiếp hỏa đến, đại thiên thế giới đều bị hủy diệt,
không biết cái đó (tự tánh) có bị hủy không ?
-Bị
hủy.
-Nói
như vậy là không thể tránh khỏi bị hủy diệt ?
-Đương
nhiên là như vậy.
Ông
tăng này không cho câu đáp của Đại Tùy là đúng, đem hỏi
Đầu Tử, Đầu tử bảo :
-Tứ
Xuyên có Phật ra đời.
(Tứ Lý Thiền)
Biến và bất biến không thể tách rời ra được, không thể ở trong biến mà đẩy bất biến về bờ bên kia được.
1862.- Ý chỉ Hoàng Mai.
Có
ông tăng hỏi Lục tổ :
-Ngũ
tổ Hoàng Mai truyền Đạt Ma đốn giáo tông chỉ, người nào
nhận được ?
-Dĩ
nhiên là người hiểu Phật pháp nhận được.
-Hòa
thượng có nhận được không ?
-Tôi
không nhận được vì tôi không hiểu Phật pháp.
(Tứ Lý Thiền)
Có nhiều chuyện người hiểu lại chẳng hiểu gì cả, còn người không hiểu lại hiểu.
1863.- Thế nào là Đạo ?
Trần
Tôn Túc hỏi một lão tú tài :
-Tiền
bối đọc kinh gì vậy ?
-Lão
chuyên nghiên cứu kinh Dịch.
-Trong
kinh Dịch có câu “Lão bá tánh dùng hàng ngày mà không biết”,
xin hỏi tiền bối : Lão bá tánh không biết cái gì ?
-Lão
bá tánh không biết sự vận hành của Đạo.
-Vậy
Đạo là gì ?
Lão
tú tài không trả lời được.
(Tứ Lý Thiền)
Sinh
hoạt hàng ngày vốn là Đạo, bỏ sinh hoạt hàng ngày để
đi tìm Đạo thì không thể nào tìm được.
1864.- Tôi ngộ rồi.
Ngũ
Đài Sơn Trí Thông mới đầu đến tham học với Quy Tông Trí
Thường. Một đêm bỗng ở tăng đường hét lớn :
-Tôi
ngộ rồi !
Làm
tăng chúng đang ngủ hoảng sợ tưởng ông phát khùng. Ngày
hôm sau Quy Tông bảo :
-Hôm
qua ông tăng nào kêu đại ngộ hãy đứng ra coi.
Trí
Thông bước ra, Quy Tông hỏi :
-Hôm
qua ông ngộ được đạo lý gì hãy nói tôi nghe thử.
-Nguyên
lai ni cô là người nữ.
Quy
Tông kinh dị câu đáp của Trí Thông thật chẳng giống ai.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông không có gì là thần bí, cũng không có gì là cao thâm, chỉ bình thường nhưng người thường không thấy được ý thú này vì tự tánh đã bị che mờ.
1865.- Vì ông nói pháp.
Phù
Dung Linh Huấn theo học nhiều năm với Quy Tông Trí Thường,
một hôm hướng Quy Tông cáo biệt. Quy Tông bảo :
-Ông
ở đây đã nhiều năm, thu xếp hành trang xong hãy đến đây,
tôi sẽ vì ông giảng pháp.
Linh
Huấn nghe lời thu xếp hành trang xong thành tâm, thành ý đến
trước mặt Quy Tông. Quy Tông bảo ông :
-Bây
giờ trời đang lạnh, ông đi đường phải cẩn thận.
Linh
Huấn nghe rồi bỏ xuống sở học, những nhận thức về cảnh
giới giác ngộ v . v . bỏ tất cả xuống, tất cả chỉ là
không.
(Tứ Lý Thiền)
Người ta tưởng Quy Tông sẽ nói Phật pháp gì hóa ra chỉ là những lời thông thường. Không nên để tri thức là cái bao, cũng không nên để cảnh giới thiền là cái bao để bọc mình. Đó mới là chân chính thiền.
1866.- Nuôi ngỗng trong bình.
Lục
Hằng hỏi Nam Tuyền :
-Người
xưa nuôi ngỗng trong bình. Ngỗng dần dần lớn lên không ra
khỏi bình được. Xin hỏi trưởng lão phải làm sao để mang
ngỗng ra mà không phá bình, cũng không làm ngỗng bị thương
?
Nam
Tuyền cười cười gọi :
-Thích
sử đại nhân !
-Dạ
!
-Con
ngỗng đó đã chẳng ra rồi sao ?
Lục
Hằng do đó lãnh ngộ diệu thú của thiền.
(Tứ Lý Thiền)
Thường
thường tư duy dễ dàng lọt bẫy của chính tư duy. Trong sinh
hoạt hàng ngày nếu chúng ta có thể vượt lên được chủ
quan thì chúng ta sẽ không bị công việc làm cho phiền não.
Tư duy là một chìa khóa vạn năng có thể mở bất cứ cửa
mê nào, nhưng chúng ta đừng để nó lại ở bất cứ ổ khóa
nào.
(Xem
thêm công án 993)
1867.- Vô minh.
Một
thiền sư nói :
-Thiền
có thể trừ bỏ vô minh, phiền não của con người.
Lúc
đó có một người bước ra thưa :
-Con
thật không biết cái gì là phiền não của con. Xin hỏi thiền
sư : Vô minh là gì ? Từ đâu mà ra ?
-Chuyện
đơn giản, ngu xuẩn thế mà ông cũng hỏi được !
Người
đó tức giận hỏi lại :
-Thiền
sư không trả lời cũng được, nhưng tại sao lại khinh người
như thế ?
Thiền
sư cười :
-Đó
là vô minh, vô minh được sanh ra như thế.
(Thiền Tư)
Vô
minh được sanh ra từ ngu muội.
1868.- Mật truyền tâm.
Có
một người đọc kinh gập đoạn không hiểu chạy hỏi thiền
sư Huyền Ngộ :
-Thế
nào là mật truyền tâm ?
Huyền
Ngô im lặng bất động. Người đó không biết thiền cơ,
tức giận hỏi thiền sư :
-Thầy
làm gì vậy ? Con đang vểnh tai chờ nghe thầy chỉ thị đây
!
Huyền
Ngộ mặc kệ ông, bảo thị giả :
-Đi
đun nước đi !
(Thiền Tư)
Mật truyền tâm là lấy chân tâm truyền chân tâm, im lặng mà truyền tâm, không rơi vào hình tích. Thiền sư im lặng không nói hồi lâu là chỉ cho người đó thế nào là mật truyền tâm. Nói pháp cho người không có tuệ căn giống như đàn cầm mà gẩy tai trâu vậy.
1869.- Sợ ông rơi vào phàm, thánh.
Mạt
Đường, Thúy Nham là một vị thiền sư có tu chứng. Một
hôm, một ông tăng đến thiền đường thi lễ rồi hỏi :
-Một
hạt hoàn đơn điểm sắt thành vàng, một lời chí lý chuyển
phàm thành thánh. Học nhân nay không cầu gì khác, chỉ xin
thầy điểm.
-Tôi
không điểm.
-Tại
sao thầy không điểm ?
-Tôi
sợ ông rơi vào phàm, thánh.
Ông
tăng vẫn năn nỉ :
-Xin
thầy cho con một lời chí lý.
Thiền
sư lớn tiếng gọi :
-Thị
giả ! Mang trà ra.
(Thiền Tư)
Phật tâm chỉ bình thường, nếu có tâm phân biệt phàm thánh thì đã lìa xa Phật pháp rồi.
1870.- Kiến tánh thành Phật.
Nam
Tháp Quang Dõng đến bái kiến Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Ngưỡng
Sơn hỏi :
-Ông
đến làm gì ?
-Đến
bái kiến thiền sư.
-Có
thấy lão tăng không ?
-Có
thấy.
-Thấy
lão tăng có giống con lừa không ?
-Con
thấy thầy cũng không giống Phật.
-Nếu
không giống Phật thì giống gì ?
-Nếu
nói giống gì thì có khác gì là giống lừa ?
Ngưỡng
Sơn khen :
-Tôi
dùng câu hỏi này 20 năm nay chưa có người nào triệt ngộ.
Nay câu trả lời của ông phàm thánh đều quên, tình tận,
thể lộ. Khó có người ưu tú như ông. Ông hãy bảo trọng.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Kinh Kim Cương có nói : Phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy không tướng là thấy Như Lai. Ngưỡng Sơn và Quang Dõng nghị luận Ngưỡng Sơn không giống lừa, không giống Phật, vậy cứu cánh là giống gì ? Giống chính mình. Chỉ có thấy tự tánh của mình mới có thể phàm thánh đều quên, thể dụng là một. Đó mới là thấy chân đế vô tướng. Chỉ khi nào ông quên chính mình thì đó mới thật là thiền. (Xem thêm công án 33)
1871.- Tâm nhẫn nhục.
Thiền
sư Đạo Nguyên người Nhật Bản khi du học ở Trung Quốc
về, có người hỏi ông tu đến cảnh giới nào ? Ông trả
lời :
-Cũng
chẳng có gì lạ, chỉ được một tâm nhẫn nhục.
(Thiền Tư)
Tâm chúng ta có một tính cách rất cương ngạnh, đó là ngã mạn (tự cao, tự đại). Khi tiếp xúc với ngoại giới nhất định bạo phát tựa hồ như nó là vĩ đại lắm. Trong thiền học không tu tâm nhẫn nhục thì không đạt được chính đạo.
1872.- Bản Tịch.
Sáng
lập ra tông Tào Động là Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn
Bản Tịch. Khi Tào Sơn đã tham học với Động Sơn được
ít lâu, Động Sơn thấy thời cơ đã chín mùi bèn lấy tên
của Tào Sơn là Bản Tịch để khảo nghiệm.
Động
Sơn hỏi Tào Sơn :
-Ông
có vẻ là người có đức hạnh, ông tên gì ?
-Con
tên Bản Tịch.
-Bản
Tịch hả ? Tên Bản Tịch có thể nói thêm gì nữa không ?
-Không
gì để nói.
-Tại
sao ?
-Nếu
có gì để nói thì không phải là Bản Tịch nữa !
Động
Sơn do đó coi trọng Tào Sơn. Tào Sơn về sau trở thành một
vị đại tông sư một thời.
(Thiền Tư)
Thiền
giả nhận rằng bản tính con người là không hư, tịch tĩnh,
không rơi vào ngôn ngữ, văn tự cho nên gọi là Bản Tịch.
Bản Tịch tự nhiên là không thể dùng lời nói.
(Xem
thêm công án 1693)
1873.- Người cởi chính là người buộc.
Lúc
trước có một người luôn đau khổ, phiền não. Ông ta nghe
bạn bè nói Phật có thể giải trừ mọi phiền não, bèn đi
tìm Phật hỏi. Đức Phật bảo ông :
-Người
có thể giải thoát phiền não của ông là chính ông .
-Nhưng
chính con trong tâm bị phiền não đau khổ mà ?
-Ông
thử nghĩ coi phiền não, đau khổ trong tâm ông là do ai đem
vào ?
Ông
ta im lặng suy nghĩ. Phật từ bi khai thị :
-Người
nào đem vào thì người đó đem ra !
Người
đau khổ sau cùng đã hiểu.
(Thiền Tư)
Khổ não chỉ là một loại chấp trước, muốn giải thoát chỉ nhờ vào chính mình.
1874.- Tâm giao.
Một
ông tăng hỏi Đức Sơn :
-Người
đạt đạo gặp một người đạt đạo khác trên đường
nếu không dùng ngôn ngữ văn tự, họ dùng cách nào để giao
lưu ?
-Giống
như tôi vậy.
Đức
Sơn nói rồi đứng im lặng hồi lâu. Ông tăng đợi lâu không
thấy Đức Sơn nói, liền ho lên một tiếng. Đức Sơn hỏi
:
-Ông
còn muốn hỏi gì ?
Ông
tăng quả nhiên mở miệng định hỏi, Đức Sơn không khách
khí đuổi ông ra khỏi phòng.
(Thiền Tư)
Đã
đạt đạo thì cần gì nói, chỉ im lặng lấy tâm ấn tâm.
1875.- Con cóc và quả cà.
Đời
Tống, thiền sư Thanh Viễn Pháp Nhãn có kể cho đại chúng
nghe câu chuyện sau :
Có
một ông tăng tu giới. Ông giữ giới rất nghiêm, chưa từng
phạm giới. Một đêm có việc phải ra ngoài. Đêm đó trời
rất tối, ông ta đi vội, đột nhiên ông cảm thấy mình đạp
phải một vật gì dưới chân, hình như một con vật gì phát
ra tiếng kêu khổ não. Ông tăng tự nhủ :
-Hỏng
rồi ! Là con cóc chăng ? Đúng là con cóc rồi ! Trời ơi tôi
đã sát sanh rồi ! Nhỡ nó là cóc mẹ, trong bụng còn nhiều
con nữa . . .
Ông
tăng đó vừa sợ vừa hối. Đêm đó trằn trọc mãi không
ngủ được. Sau một lúc mệt quá ngủ thiếp đi thấy cả
trăm con cóc đến đòi mạng, ông sợ quá hét lên, giật mình
tỉnh dậy thì ra chỉ là một cơn ác mộng. Ngày hôm sau ông
vội chạy tới hiện trường, chẳng thấy xác con cóc đâu
cả, chỉ thấy một quả cà dập nát nằm ở giữa đường.
Ông tăng thở phào nhẹ nhõm.
Kể
xong chuyện này Thanh Viễn tiếp :
-Người
tu hành phải lìa tình niệm, nếu không sẽ khổ. Giờ tôi
hỏi các ông : Ông tăng đó đạp trúng con cóc hay quả cà
? Nếu là con cóc thì khi trời sáng sao lại nhìn ra là quả
cà ? Nếu là quả cà thì sao trong mộng lại có cóc đến đòi
mạng ? Ai có thể giải thích ?
(Thiền Tư)
Người
nghi ngờ quá nhiều thân không thể an.
1876.- Có và không.
Đại
Điên khi chưa khai ngộ đến tham Thạch Đầu, hỏi :
-Người
xưa bảo : nói có nói không đều là bài báng Phật pháp, xin
thầy giải thích.
-Có
và không là một thể hai mặt, có là không, không là có, có
gì để giải thích ? Không cần giải thích.
(Thiền Tư)
Trong
khoảng có, không chứa nhiều huyền cơ.
1877.- Nghe không hiểu.
Có
một ông tăng, tham thiền không lâu hỏi Quy Tông Trí Thường
:
-Thầy
có phương pháp nào để chúng con vào cửa Thiền nhanh chóng
?
-Có,
pháp Quán Âm diệu trí lực có thể cứu khổ thế gian.
Ông
tăng vội hỏi :
-Thế
nào là Quán Âm diệu trí lực ? làm sao mới tu thành ?
Trí
Thường thuận tay gõ vào đỉnh ba cái : đinh, đinh, đinh và
hỏi :
-Ông
có nghe không ?
-Có
nghe.
-Sao
tôi lại không nghe ?
Ông
tăng mê hoặc, nghĩ cả nửa ngày không ra, rõ ràng là có tiếng
sao sư phụ lại không nghe được ?
(Thiền Tư)
Người tu hành chân chánh nhìn không thấy, nghe chẳng được. Tâm không tìm kiếm gì khác mới có thể chuyên tâm trì trí.
1878.- Muối đắt, gạo rẻ.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Hòa
thượng năm nay bao nhiêu tuổi ?
-Một
chuỗi hạt, đếm vô tận.
-Hòa
thượng kế thừa ai ?
-Thiền
sư Tòng Thẩm.
-Nếu
có người hỏi Triệu Châu nói pháp gì, không biết hòa thượng
trả lời sao ?
-Muối
đắt, gạo rẻ.
(Thiền Tư)
Những bậc tu hành lớn đều không lìa chi tiết sinh hoạt hàng ngày.
1879.- Không thể sờ vào kiếm.
Một
ông tăng hỏi Tứ Xuyên Bố Thủy :
-Bảo
kiếm mới đúc xong còn chưa mài thì thế nào ?
-Vô
dụng.
-Chưa
mài thì vô dụng, còn mài rồi thì thế nào ?
-Không
sờ vào được.
(Thiền Tư)
Mỗi người đều có tự tánh thanh tịnh nhưng vì tập khí chưa trừ được thì không khởi tác dụng gì, giống như bảo kiếm chưa mài không thể dùng. Bảo kiếm mài rồi sẽ sắc bén, đụng vào sẽ đứt tay. Người tu hành đắc Pháp thân rồi sẽ có thần thông diệu dụng, hành động phải thận trọng nếu không sẽ làm thương tổn đến người khác và tự hại chính mình. Chưa ngộ đạo thì phải cố gắng, ngộ rồi thì phải cố giữ gìn.
1880.- Hòa thượng và công sai.
Có
vị hòa thượng phạm tội, bị công sai đến bắt đưa vào
ngục. Trên đường đi, lúc nghỉ ngơi, hòa thượng mời công
sai uống rượu, uống đến say mèm. Hòa thượng bèn cạo đầu
công sai trọc lóc, sau đó trốn đi. Khi công sai tỉnh rượu,
đi tìm hòa thượng khắp nơi mà không thấy đâu, vô ý thức
gãi đầu thấy đầu trọc lóc, bèn tự hỏi :
-A
! Thì ra hòa thượng ở đây, còn ta ở đâu ?
(Thiền Tư)
Đã có mấy người tìm ra ”ngã”.
1881.- Lớn và nhỏ.
Một
ông tăng hỏi Đại Châu :
-Thế
nào mới được coi là lớn ?
-Lớn.
-Lớn
chừng nào ?
-Không
giới hạn.
-Thế
nào mới được coi là nhỏ ?
-Nhỏ.
-Nhỏ
thế nào ?
-Nhìn
không thấy.
-Lớn
vô biên, nhỏ không thấy, chúng ở nơi nào vậy ?
-Ông
nói coi nơi nào không có lớn, nhỏ ?
(Thiền Tư)
Có lớn nhỏ vì có so sánh, không so sánh thì không có lớn nhỏ.
1882.- Khác với người.
Một
ông tăng hỏi một thiền sư :
-Vân
Môn, Triệu Châu đều không nói thế, thiền sư vì sao nói
thế ?
Thiền
sư không coi đó là ngỗ nghịch, bình tĩnh bảo :
-Mỗi
nhà đều có bật lửa riêng.
(Thiền Tư)
Mỗi người đều có đường riêng, tại sao phải mô phỏng người khác ? Mô phỏng người khác sẽ đánh mất chính mình.
1883.- Quét hết bụi trần.
Có
ông tăng hỏi thiền sư Lạc Phổ Sơn Nguyên An :
-Người
tu hành làm sao để về nhà ? Về nhà rồi thì sao ?
-Nhà
bị phá rồi, ông còn muốn về đâu ?
Ông
tăng kinh ngạc, tỉnh ngộ :
-Nếu
đã không có chỗ về, vậy không về nữa ?
-Tuyết
đọng ngoài sân sẽ bị mặt trời làm tan, nhưng bụi trong
phòng ai quét ?
(Thiền Tư)
Người ngộ đạo trước mắt sẽ là cảnh giới mới, không còn là cảnh cũ nữa.
1884.- Thuận theo tự nhiên.
Phúc
Châu La Sơn Đạo Nhàn tham bái Thạch Sương hỏi :
-Linh
giác của tâm đã hiện, nhưng bị một khối niệm đầu bao
bọc, trong lúc đó con phải dụng công thế nào ?
-Tốt
nhất là đối diện với nó, vất bỏ tất cả mọi niệm
đầu.
Ông
tăng không vừa ý với câu trả lời này lại đi hỏi Toàn
Hoát. Toàn Hoát nói :
-Tâm
cuồng vọng nên ngừng thì ngừng, cứ thuận theo tự nhiên,
để ý đến nó làm gì ?
(Thiền Tư)
Tâm người phức tạp, khởi phục bất định, cứ để mặc tự nhiên.
1885.- Trên đường gập hổ.
Một
ông tăng hỏi Vân Cư Sơn Thiệu Hóa :
-Trên
đường bỗng gặp một con hổ dữ thì phải làm sao ?
-Biết
bao người khác không gặp hổ dữ, đủ biết tâm ông không
thanh tịnh.
(Thiền Tư)
Một người tâm hay thay đổi, làm sao làm việc được thành công?
1886.- Đạo.
Triệu
Châu hỏi Nam Tuyền :
-Đạo
không ở ngoài vật, ở ngoài vật không là Đạo, có Đạo
ở ngoài vật không ?
Nam
Tuyền bèn giơ gậy đánh. Triệu Châu nắm lấy gậy :
-Về
sau thầy đừng đánh lầm người.
-Rồng
rắn dễ phân, nạp tăng khó dối.
(Tứ Lý Thiền)
Người không ăn sẽ chết. Có người nào không ăn mà không chết không ? Đạo lý này thật rõ ràng nhưng điều tối kỵ là vẽ rắn thêm chân. Tây triết có câu chân lý nếu bước thêm một bước nữa sẽ thành sai lầm. Nhưng con người thích bước xa hơn chân lý. Đối với hạng người này lại không đáng đánh hay sao ?
1887.- Một trở về đâu ?
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Vạn
pháp trở về một, còn một trở về đâu ?
-Tôi
ở Thanh Châu may một cái áo bông nặng 7 cân.
(Tứ Lý Thiền)
Triệu Châu dùng lời khôi hài để diễn tả chân lý : vạn pháp đều sanh từ “ngã” lại trở về “ngã”. Tôi may một cái áo bông rồi lại tự mặc trên người đó, thấy không ? (Xem thêm công án 1040)
1888.- Tâm mình là Phật.
Đường
Huyền Tông Khai Nguyên nguyên niên, Lục tổ Huệ Năng ở Quảng
Đông Tân Châu, Quốc Ân Tự dùng xong bữa ngọ, đột nhiên
hướng đại chúng tuyên bố :
-Các
ông hãy ngồi yên, tôi sẽ cùng các ông vĩnh biệt.
Chúng
đệ tử kinh sợ, có người bật khóc. Lúc đó đệ tử Pháp
Hải bước ra chắp tay lạy, nén bi thương thưa :
-Sư
phụ lưu lại di huấn gì để chúng sanh đời sau có thể tu
thành Phật quả ?
-Các
ông hãy nghe cho kỹ ! Nếu liễu ngộ tự tánh thì tất cả
chúng sanh đều là Phật, nếu Phật tánh mê chấp thì Phật
là chúng sanh. Nếu bản tâm không thiện hoặc bất chánh thì
là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm chân giác, bình đẳng
vô sai biệt thì chúng sanh là Phật. Tâm các ông vốn là Phật,
tự tâm Phật mới chính là Phật. Nếu các ông không có Phật
tâm thì đi đâu mà tìm Phật thật ? Tâm các ông là Phật,
đừng ngờ gì cả. Tôi đi đây !
(Nhất Nhật Nhất Thiền)
Từ xưa đến nay những người biết trước tử kỳ đều ung dung tự tại đối với cái chết. Chúng ta những người còn đang sống hãy trân trọng mạng sống, hãy trân trọng mỗi ngày.
1889.- Thưởng trăng.
Khi
Nam Tuyền và chúng đệ tử đang thưởng trăng, có một ông
tăng cảm khái thưa :
-Không
biết đến lúc nào con mới tu đến trình độ tâm sáng như
trăng ?
-Vương
lão sư 20 năm trước đã tới cảnh giới này.
-Vậy
nay thầy đã đạt tới cảnh giới nào nữa?
Nam
Tuyền không đáp tự trở về phòng phương trượng.
(Tứ Lý Thiền)
Người ở cảnh giới thấp cầu cảnh giới cao. Người ở cảnh giới cao lại cầu vô cảnh giới. Người đạt tới vô cảnh giới lại trở về trong sự sinh hoạt bình thường.
1890.- Ra cửa liền là cỏ.
Có
ông tăng từ Động Sơn đến thăm Khánh Chư. Khánh Chư hỏi
:
-Ông
từ đâu tới ?
-Con
từ Động Sơn tới.
-Động
Sơn có lời gì dạy các ông ?
-Động
Sơn nói : Đầu Thu cuối Hạ, các ông có người đi Đông,
có người đi Tây, nên đi về nơi vạn dậm không tấc cỏ.
Một
lúc sau lại hỏi :
-Vạn
dậm không tấc cỏ ở đâu ?
Khánh
Chư hỏi :
-Có
người nào trả lời được không ?
-Không.
-Tại
sao không đáp : Ra cửa liền là cỏ.
Ông
tăng trở về báo cáo với Động Sơn, Động Sơn bảo :
-Đây
là vị thầy của 1500 chúng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)
Cỏ chỉ phiền não. Ra cửa liền là cỏ : Trong đời sống thế tục đâu đâu cũng có phiền não. Nếu muốn đến một nơi không một tấc cỏ thì phải nhổ cỏ ngay trước mắt. Trong sinh hoạt tâm thường chạy theo cảnh, chỉ có đạt được tâm tịnh thì mới tìm được tĩnh thổ không cỏ. (Xem thêm công án 668)
1891.- Một sinh vạn pháp, vạn pháp trở về một.
Long
Đàm Sùng Tín vốn người Hồ Nam. Khi chưa xuất gia, bán bánh
bên cạnh chùa, nghèo khổ đến chỗ ở cũng không có. Đạo
ngộ thương tình cho ông ở nhờ ở một gian phòng nhỏ.
Để trả ơn, Sùng Tín mỗi ngày đều mang biếu Đạo Ngộ
10 cái bánh. Mỗi lần Đạo Ngộ đều sai thị giả trả lại
một cái. Một hôm Sùng Tín phản đối :
-Con
mang bánh tặng thầy, tại sao mỗi lần thầy đều trả lại một cái ?
-Ông
mỗi ngày đều tặng tôi 10 cái bánh, tại sao tôi lại không
thể trả lại một cái ?
-Thầy
trả lại một cái là có ý gì ?
Đạo
Ngộ cười ha hả :
-Trả
lại một cái không đủ sao ? 10 cái ông không cho là nhiều,
một cái lại cho là ít sao ?
Sùng
Tín nghe rồi có chỗ sở ngộ, xin được xuất gia. Đạo Ngộ
ưng thuận. Đạo Ngộ lại nói :
-Một
sinh 10, 10 sinh 100, trăm sinh ngàn vạn, chư pháp đều do một
sinh ra.
Sùng
Tín đáp lại :
-Một
sinh vạn pháp, vạn pháp đều là một.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Đạo Ngộ cho Sùng Tín ở nhờ là của ta là của người, trả lại một cái bánh là của người là của ta. Đạo Ngộ đã làm cho Sùng Tín khởi nghi tình mà giác ngộ tự tha là một, tâm vật chẳng hai. Nguyên lai, vũ trụ vạn vật thiên sai vạn biệt chỉ là một tâm. Một tâm chứa vạn vật, vạn vật quay về một tâm, nếu thấy thế thì một và vạn vật còn sai biệt gì ? (Xem thêm công án 997)
1892.- Làm sao ra khỏi ba giới ?
Có
ông tăng hỏi Hàng Châu Thiên Long (đệ tử của Đại Mai Trí
Thường) :
-Làm
sao để ra khỏi dục giới, sắc giới và vô sắc giới ?
-Hiện
nay ông ở đâu ?
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông nhận định rằng : ba giới đều ở trong “Ngã”, giống như các cảnh biến ảo trong kính vạn hoa.
1893.- Thế nào là huyền chỉ ?
Có
ông tăng hỏi Quy Tông Trí Thường :
-Thế
nào là huyền chỉ ?
-Không
ai hiểu được.
-Con
nỗ lực nghiên cứu, truy tầm có được không ?
-Ông
nghiên cứu, truy tầm là đã sai rồi.
-Nếu
không nghiên cứu, truy tầm thì sao ?
-Nhưng
ai là người nghiên cứu, truy tầm ?
Lại
thêm :
-Ông
nên biết huyền chỉ của Phật không cần nghiên cứu, truy
tầm.
(Tứ Lý Thiền)
Trong đời người cưỡi lừa đi tìm lừa rất nhiều, họ đều đi tìm một cái gì bên ngoài, không biết hướng vào trong.
1894.- Rắn gỗ.
Đời
Đường, Tuyết Phong nhân thấy tiều phu mang củi về có một
khúc rễ trông giống như một con rắn bèn khắc vào mấy chữ
: “Vốn tự nhiên không khắc thêm gì”, rồi đem tặng cho
Đại An. Đại An xem rồi nói :
-Bản
sắc người ở núi là không dùng đao búa.
(Tứ Lý Thiền)
Tuyết Phong khéo quá hóa vụng, vẽ rắn thêm chân. Đại An mặt sắt vô tư, câu nói của ông có nghĩa là :”Nếu Tuyết Phong là người tu hành chân chánh thì không cần phải khắc gì thêm vào cái tâm vốn thanh tĩnh.
1895.- Mây ở trời xanh, nước ở bình.
Đời
Đường, Lý Cao, Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên v. v. lấy văn kết
bạn. Lý Cao trước tác Phục Tánh Thư do Thiền vào Nho, về
phương diện này kiến giải của ông so với Hàn Dũ thì cao
thâm hơn nhiều, ông còn được coi là tiên phong của nhóm
lý học gia sau này.
Lý
Cao rất ngưỡng mộ đức hạnh của thiền sư Dược Sơn Duy
Nghiễm. Khi ông nhậm chức Lương Châu Thích Sử đã nhiều
lần mời thiền sư hạ sơn luận đạo, nhưng đều bị cự
tuyệt. Lý Cao đành tự đến bái kiến, gập lúc thiền sư
đọc kinh dưới gốc tùng. Tuy Thái thú thân đến bái phỏng,
nhưng thiền sư không có ý nghênh tiếp. Thị giả nhắc :
-Thái
thú đợi thầy đã lâu.
Thiền
sư dường như không nghe, nhắm mắt dưỡng thần. Lý Cao là
người nóng tánh, thấy thái độ thiền sư như vậy, tức
giận nói to :
-Thật
đúng là gặp mặt chẳng bằng nghe danh.
Nói
rồi phất tay áo định đi. Dược Sơn lúc đó từ từ mở
mắt ra hỏi :
-Sao
Thái thú lại trọng tai khinh mắt như vậy ?
Lý
Cao tạ tội và hỏi :
-Xin
hỏi thế nào là giới, định, tuệ ?
Giới,
định, tuệ là phương thức tiệm tu do Bắc phương Thần Tú
đề xướng : trước tiên giữ Giới sau tiến tới Định,
từ định sanh Tuệ. Nhưng Dược Sơn thuộc Nam tông của Huệ
Năng chỉ giảng đốn ngộ. Do đó Dược Sơn nói :
-Nơi
đây, tôi không có những chuyện vô dụng này.
Lý
Cao không hiểu xoay qua chuyện khác :
-Quý
tánh của thầy là gì ?
-Chính
lúc này.
Lý
Cao càng không hiểu quay qua hỏi sư tổng quản. Tổng quản
bảo :
-Thiền
sư tánh Hàn. Nay là mùa Đông, trời chẳng đang lạnh (hàn)
đó sao ?
Dược
Sơn phì cười :
-Nói
bậy không à, chẳng lẽ Thái thú đến vào mùa Hạ, tôi lại
có tánh Nhiệt (nóng) hay sao ?
Lý
Cao cũng không nhịn được cười, lại hỏi :
-Thế
nào là Đạo ?
Thiền
sư lấy tay chỉ lên trời rồi lại chỉ xuống đất, sau đó
hỏi :
-Ông
hiểu không ?
Lý
Cao lắc đầu :
-Dạ,
không.
-Mây
ở trời xanh, nước ở bình.
Câu
nói này có hai ý :
1.-Mây
ở trời xanh, nước ở bình, cũng như mắt ngang, mũi dọc
là bản lai diện mục của sự vật, chẳng có chỗ nào đặc
biệt. Chỉ cần ông hiểu biết được bản chất của sự
vật, ngộ kiến bản lai diện mục của chính mình thì sẽ
hiểu Đạo là gì.
2.-Là
nước trong bình cũng như tâm người chỉ cần giữ cho thanh
tịnh, không bị ô nhiễm thì tâm liền trong trẻo. Dù đổ
nước vào bình tròn hay vuông, nước cũng thích ứng được.
Tâm cũng có thể cứng, có thể mềm, có thể lớn, có thể
nhỏ giống như mây ở trời xanh tự do, tự tại.
Lý
Cao hốt nhiên tỉnh ngộ, bèn đọc bài kệ :
Luyện
được thân hình như vóc hạc
Dưới
gốc ngàn tùng hai hòm kinh
Đáp
câu hỏi Đạo không thừa thãi
Mây
ở trời xanh, nước ở bình.
(Nguyên
văn chữ Hán xem công án 1021)
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Dược Sơn Duy Nghiễm mới đầu cố ý không để mắt tới Lý Cao để bẻ gẫy ngạo khí và nộ khí của ông. Sau đó thấy ông đã tâm bình khí hòa rồi mới chỉ cho ông lý Đạo. (Xem thêm công án 1021)
1896.- Không.
Đường
triều sơ niên, một hôm Tứ tổ Đạo Tín đi tới huyện Hoàng
Mai (nay là Hồ Bắc), trên đường gặp một đứa trẻ nhỏ
cốt cách, tướng mạo thập phần kỳ tú, không giống như
mọi trẻ bình thường khác. Đạo Tín hỏi :
-Ngươi
tánh gì ?
-Con
dĩ nhiên là có tánh, nhưng tánh không giống như mọi người
có.
-Vậy
là tánh gì ?
-Phật
tánh.
-Nói
vậy là ngươi không có tánh sao ?
-Vạn
sự, vạn vật bản tánh đều là “Không”, biến hóa vô
thường, con tánh “không” cho nên nói không có tánh.
Đạo
Tín thấy đứa nhỏ này là một pháp khí có thể truyền thừa
Phật pháp, ông thầm chấp nhận, sau lại thâu làm đệ tử
và truyền cho y bát. Đứa nhỏ đó là Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
(Tứ Lý Thiền)
Tánh danh là tự ngã, tự ngã là ai ? Tự ngã là cơ sở để ta cảm thọ, nhận thức, nếu không có ngã thì không có cảm thọ nhận thức. Nhưng cái ngã này là thực tại bất biến hay như Phật giáo chủ trương là “Không” ? Bụng nếu chẳng “Không” thì không ăn được. Não nếu chẳng không thì cũng không suy nghĩ được. Thế giới này có cái gì là không biến đổi đâu, cái “không” này biến hay không biến ? (Xem thêm công án 662)
1897.- Người ăn mày mua bánh.
Có
một trưởng lão một chùa nọ tinh thông kỹ xảo làm bánh
tiêu. Bánh tiêu của chùa làm vừa thơm, vừa ngon khiến các
khách đến viếng cảnh đều vui vẻ mua để thưởng thức.
Chùa càng ngày càng hưng thịnh. Một hôm có một gã ăn mày
từ xa lại muốn thưởng thức bánh tiêu. Các chú tiểu thấy
gã quần áo rách rưới hôi hám, ngăn không cho gã vào phòng
bếp. Hai bên tranh cãi náo loạn. Lúc đó trưởng lão đi ra
bảo đồ đệ :
-Kẻ
xuất gia phải có lòng từ bi, các chú sao lại làm thế ?
Nói
rồi thân lựa một cái bánh tiêu to cung kính đưa cho gã. Gã
ăn mày rất cảm động, ăn xong mang 3 xu ra trả:
-Đây
là tiền con xin được, xin trưởng lão nhận cho.
Trưởng
lão thâu tiền, chắp tay nói :
-Đa
tạ ! Thí chủ lên đường mạnh giỏi.
Gã
ăn mày đi rồi, chúng đệ tử phiền muộn hỏi :
-Trưởng
lão đã bố thí sao còn nhận tiền ?
-Ông
ta không ngại từ ngàn dậm tới chỉ để thưởng thức bánh
tiêu, nên tôi tặng không cho ông ta. Nhưng không ngờ ông ta
là người hiểu chuyện cho nên tôi lại nhận 3 xu của ông
ta là để trân trọng và khích lệ, tương lai sự thành tựu
của ông ta chắc là vô lượng.
Chúng
đệ tử không cho là phải, nghĩ sư phụ là lão hồ đồ,
chỉ nói chuyện trong mộng. Vào khoảng 10 năm sau, một vị
phú thương đến lễ Phật, dâng cúng tiền nhang đèn rất
nhiều. Chư tăng trông thấy đều kinh ngạc : Ông chính là
gã ăn mày năm cũ.
(Nhất Thiến Nhất Thế Giới)
Bố thí bánh khiến gã ăn mày khỏi khổ vì đói, lại thâu tiền để thỏa mãn lòng tự tôn của gã. Ăn no chỉ giải quyết nhu cầu một thời, nhưng tôn trọng nhân cách một người sẽ khích lệ cả đời người ấy.
1898.- Sớm đã không hợp Đạo.
Một
ông tăng hỏi Mã Tổ Đạo Nhất :
-Làm
sao để hợp Đạo ?
-Tôi
sớm đã không hợp Đạo.
-Ý
tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Nếu
tôi không đánh ông thì chư hòa thượng, đại đức mọi nơi
sẽ cười tôi.
(Tứ Lý Thiền)
Đạo nói được thì không phải là Đạo thường. Nói thì dễ nhưng muốn thân, tâm, tánh, mạng tại mọi nơi cùng vũ trụ dung hợp làm một thì không thể dùng lời mà tả ra được.
1899.- Phật là thế nào ?
Có
ông tăng hỏi Bá Trượng :
-Phật
là thế nào ?
-Ông
lại là ai ?
-Con
là mỗ.
-Ông
biết rõ mỗ không ?
-Biết
rõ ràng.
Bá
Trượng giơ phất tử lên :
-Ông
còn thấy không ?
-Thấy.
Bá
Trượng lặng im.
(Tứ Lý Thiền)
Đối với Thiền tông mà nói thì người người đều là Phật, điều quan trọng là ông có nhận thức được chính mình không. Ngã là gì ? Có phải là hình trên tấm ảnh chụp ? Cái ngã này ngàn người, ngàn mặt, cứu cánh ngã là gì ? Thiền chỉ cho chúng ta phương hướng để tìm cái ngã này.
1900.- Bá Trượng hạ đường.
Một
lần Bá Trượng thuyết pháp xong, thấy đại chúng đang giải
tán, bèn lớn tiếng hô :
-Đại
chúng !
Đại
chúng ngoảnh đầu lại tưởng Bá Trượng còn dặn dò gì,
nào ngờ Bá Trượng hỏi :
-Là
cái gì ?
(Tứ Lý Thiền)
Một người đang nằm mộng được một người khác gọi liền tỉnh mộng. Lúc đó người ấy thấy hiện cảnh và mộng cảnh hoàn toàn khác nhau. Nay chúng ta đang sinh hoạt, bỗng có người gọi ngã thì cái ngã trong ngã có tỉnh không ? Không phải ai cũng có kinh nghiệm này, nhưng khi cái ngã đó giác tỉnh thì sẽ thấy non xanh, nước biếc nhân gian đẹp làm sao !
1901.- Đánh là không đánh.
Đại
Đạo vô hình, cái vô hình này thường khiến gây ra nhiều
chuyện cười. Có một thư sanh đến chùa lễ Phật. Một ông
tăng trẻ coi việc tiếp khách thấy thư sanh quần áo lôi thôi,
tầm thường không thèm để ý tới. Thư sanh rất giận gã
tiểu hòa thượng này chỉ trọng bề ngoài thật đáng ghét.
Một lúc sau một vị tài chủ quần áo sang trọng đến lễ
Phật, tiểu hòa thượng lăng xăng chạy Đông chạy Tây, bưng
trà ân cần tiếp đãi, dạ vâng liên hồi. Thư sanh bèn chất
vấn :
-Cùng
đốt hương lễ Phật, sao thầy lại đối đãi khác biệt
?
-Ông
là người đọc sách hiểu lý chẳng lẽ không nghe nói qua
chiêu đãi là không chiêu đãi, không chiêu đãi lại là chiêu
đãi sao ?
Thư
sanh nghe rồi cho tiểu hòa thượng một bạt tai :
-Ông
vì sao lại đánh người ?
-Thầy
không nghe nói sao ? không đánh là đánh, đánh lại là không
đánh.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
1902.- Đơn Hà đùa ni cô.
Đơn
Hà lúc trẻ lầu thông Tứ thư, Ngũ kinh, lên kinh đô để
dự thi, được một thiền sư điểm hóa :
-Làm
quan chẳng bằng làm Phật.
Đơn
Hà bèn quyết tâm tu học, thành đại sư một thời.
Một
lần có một ni cô đến hỏi :
-Thế
nào là chân đế của Đạo ?
Đơn
Hà không nói một lời, giơ tay vỗ vào mông cô.
Ni
cô đỏ mặt, vừa ngạc nhiên, vừa tức giận :
-Không
ngờ thầy còn cái đó !
-Không
phải là tôi mà là cô. Đạo không xa người, người tự xa
Đạo.
Một
ông tăng trẻ chứng kiến chuyện này kể lại cho mọi người
nghe, rồi kết luận :
-Nguyên
lai sư phụ là kẻ hiếu sắc, trước mặt đại chúng mà dám
dỡn ni cô.
Khóa
lễ chiều có người đem chuyện này báo cáo cho Đơn Hà hay.
Đơn Hà bèn cúi đầu lạy ông tăng trẻ :
-Ngã
Phật từ bi ! Ngã Phật từ bi !
-Chà
, chà con không phải là Phật, thầy nhận lầm người rồi.
-Tôi
không nhận lầm người. Tôi lạy là lạy Phật mắt thịt,
thai phàm không những nhận lầm người mà còn nhận lầm chính
mình.
Ông
tăng trẻ hốt nhiên tỉnh ngộ.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Mắt thịt nhìn không nhất định là thật. Chân lý phải dùng tâm nhãn mới thấy.
1903.- Hạ sơn.
Chư
tăng muốn xuống núi phải được thiền sư cho phép. Có một
ông tăng ở Lạc Phổ Sơn theo học với Nguyên An đã nhiều
năm, tri giác hỏa hầu đã đạt, muốn xuống núi vân du tứ
hải. Ông bèn hướng Nguyên An từ biệt. Nguyên An cười bảo
:
-Ngoài
núi còn có núi, bốn phía đều là núi, ông muốn xuống núi
nào ?
Ý
Nguyên An là ông xuống núi rồi sẽ gập nhiều khó khăn, ông
có tín tâm và dũng khí để vượt qua không .
Đáng
tiếc ông tăng này không hiểu huyền cơ, tưởng sư phụ không
cho phép xoay người đi ra, trong lòng buồn phiền, trông thật
khó coi. Sư đệ trông thấy bèn hỏi chuyện. Ông ta bèn thuật
lại lời sư phụ. Sư đệ nghe rồi cười ha hả :
-Sư
huynh, sư phụ khảo nghiệm huynh đó, sao huynh không đáp “Trúc dậm không ngăn nước chảy, Núi cao chẳng cản mây
bay “.
Ý
câu này là một người nếu có quyết tâm thì không có gì
cản được. Ông tăng nghe lời bèn đến gập Nguyên An lập
lại câu nói trên. Thiền sư nghe rồi kinh ngạc, lại gạn
hỏi cặn kẽ biết rõ đầu đuôi, tức giận mắng :
-Sư
đệ ông cao thâm hơn ông mà còn chưa dám xin xuống núi. Ông
hãy ở đây học thêm ít nữa.
Ông
tăng mắc cỡ, từ đó chuyên tâm tu học, không dám đề cập
đến chuyện xuống núi.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Nửa bình nước có tiếng vang.
1904.- Gương Cũ.
Thiền
sư Hữu Đạo trên đường hành cước ghé vào một quán trà.
Chủ quán cũng là một cao thủ trong chốn Thiền môn, thấy
thiền sư bèn mời vào quán :
-Tôi
có một vấn đề muốn thỉnh giáo thầy. Nếu thầy đáp được
tôi xin cung dưỡng.
Hữu
Đạo đồng ý.Chủ quán hỏi :
-Khi
gương cũ chưa lau thì thế nào ?
-Tối
như sơn.
-Khi
lau rồi thì sao ?
-Chiếu
trời, chiếu đất.
-Thật
xin lỗi ! Tôi không cung dưỡng !
(Thiền Vị)
Gương cũ dụ cho tự tánh. Tự tánh vốn thanh tĩnh, không sanh không diệt, tự chiếu sáng làm sao có thể phân ra lúc chưa lau và lau rồi ?
1905.- Tôi là thiền sư.
Có
một xí nghiệp gia rất thành công, ông thường cùng các vị
thiền sư giao vãng, học hỏi. Có một lần ông kể chuyện
với thuộc hạ :
-Tôi
lần đầu gập Tĩnh Hải đại sư, lúc đó còn trẻ người
non dạ, lòng đầy kiêu ngạo nên hỏi khó thiền sư :
-Thiền
sư, Thiền tông nhận rằng vạn sự, vạn vật có sanh thì
có diệt, vậy tương lai Thiền tông sẽ ra sao ?
-Sẽ
bị tiêu diệt.
-Đã
biết vậy sao thiền sư còn đối người đời tích cực, giảng
thiền lý này ?
-Là
thiền sư tôi có trách nhiệm đem ấn chứng của mình nói
cho mọi người biết.
Sau
một lát thiền sư hỏi lại tôi :
-Con
người cuối cùng có chết không ?
-Đương
nhiên là chết.
-Đúng
rồi ! Làm việc gì cũng phải tận sức, dù biết là không
làm được cũng phải gắng sức làm. Nếu như ngày mai có
bị hủy, ngày hôm nay tôi vẫn nói cho ông biết thiền lý
này.
Sợ
tôi chưa hiểu rõ, thiền sư lại giảng thêm ;
-Trí
tuệ Thiền giống như ánh sáng của ngọn nến, Thiền tông
là ngọn nến. Nến cháy hết rồi, nhưng ánh sáng của nến
vẫn tiếp tục từ đời nọ qua đời kia. Nói như thế thì
Thiền tông bị tiêu diệt hay không nào có quan hệ gì ?
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Thật là một lời nói làm tỉnh người trong mộng.
1906.- Ngón tay của tiểu đồng.
Thiền
sư Câu Chi có một chú tiểu đồng thấy ai hỏi về Phật
pháp sư phụ đều giơ một ngón tay lên, chú cũng bắt chước
sư phụ.
Có
người đem chuyện này mách Câu Chi. Câu Chi gọi tiểu đồng
lại hỏi :
-Nghe
nói chú cũng hiểu Phật pháp có phải không ?
Tiểu
đồng cười gật đầu :
-Dạ
phải !
-Phật
là gì ?
Tiểu
đồng giơ một ngón tay lên. Câu Chi rút con dao dấu trong tay
áo ra, chặt đứt ngón tay của tiểu đồng. Tiểu đồng đau
quá khóc ròng, xoay mình bỏ chạy. Câu Chi lớn tiếng gọi,
tiểu đồng xoay đầu lại. Câu Chi giơ ngón tay lên. Tiểu
đồng hoát nhiên đại ngộ.
(Danh Thiền Bách Giảng)
Câu Chi giơ một ngón tay lên là biểu thị chứng ngộ cảnh giới không của mình. Tiểu đồng bắt chước cũng giơ một ngón tay lên, nhưng chẳng biểu thị được gì. Khi bị chặt đứt ngón tay tiểu đồng bị sự đau đớn trói buộc, may được Câu Chi lớn tiếng gọi liền tỉnh ra. Khi Câu Chi giơ ngón tay lên thì tiểu đồng liền ngộ ra rằng phải từ bỏ bắt chước, tự mình tự tu thì mới có thể tự chứng được tự tánh. (Xem thêm công án 1078)
1907.- Khát nước.
Có
một lần Thế Tôn và một vị tỳ kheo cùng đi. Hôm đó trời
rất nóng, hai người đi được một lúc thì thấy khát nước.
Đức Phật liền bảo vị tỳ kheo :
-Ông
hãy mang bình bát ra bờ sông đằng kia lấy nước.
Vị
tỳ kheo này vâng lời, một lát sau trở lại thưa :
-Bạch
Thế Tôn có một đoàn thương nhân lùa dê và ngựa của họ
xuống tắm nên nước sông đục ngầu không uống được.
Chúng ta nên đi thêm một quãng nữa rồi hãy lấy nước.
-Trâu
bò không ăn cỏ ngay bên cạnh mà lại đi thêm mấy dậm nữa
để kiếm cỏ non hơn sao ? Trên đời làm gì có chuyện ấy
! Chúng ta đang khát nước muốn chết còn phải đi mấy dậm
nữa để kiếm nước trong ư ? Ông mau trở lại lấy nước
sông ấy.
Vị
tỳ kheo không vui nhưng vẫn tuân lệnh, tới nơi không thấy
đoàn thương buôn đâu cả, dòng sông lại trong trẻo.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Chẳng có dòng sông nào vĩnh viễn đục; đừng bỏ gần tìm xa, hãy chờ lúc thuận tiện cơ hội sẽ đến. Đó là trí tuệ của Đức Phật.
1908.- Đợi chờ.
Có
một chàng thanh niên chờ người yêu dưới một gốc cây cổ
thụ. Chàng ta không có tánh nhẫn nại, cứ xoay qua xoay lại
ngóng cổ mà trông. Lúc đó có một lão thiền sư đầu tóc
trắng xóa cũng đến ngồi dưới gốc cây. Lão thiền sư đưa
cho chàng một cúc áo và bảo :
-Này
chàng thanh niên ! Nếu chàng muốn thời gian qua mau thì hãy
xoay cái cúc áo này.
Chàng
thanh niên cầm lấy cúc áo xoay thì thấy người yêu đôi mắt
huyền long lanh đến gập chàng ngay. Chàng lại xoay cúc áo
thì thấy hai người làm đám cưới, lại xoay nữa thấy sinh
con cháu đầy nhà, nhà cửa sang trọng giầu có, lại xoay thì
thấy có vài đứa con bất hiếu bán hết gia sản để cờ
bạc, hai vợ chồng già nua bệnh hoạn chết thảm thiết.
Chàng
bỗng nghe lão thiền sư hỏi :
-Chàng
còn muốn thời gian qua nhanh nữa không ?
-Con
đã chết rồi còn nhanh làm gì nữa ?
Ngay
lúc đó, lão thiền sư thâu lại cúc áo, chàng thanh niên bừng
tỉnh : trời vẫn xanh, chim vẫn hót, bướm bay vòng vòng. Chàng
cảm thấy thời gian chờ đợi người yêu tới thật là sung
sướng.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Những người chỉ cần kết quả, coi nhẹ quá trình làm sao hưởng được hạnh phúc ?
1909.- Truyền gì ?
Đạt
Ma sau khi rời bỏ Lương Vũ Đế, vượt sông tới Tung Sơn
Thiếu Lâm Tự, ngồi quay mặt vào vách 9 năm.
(Tứ Lý Thiền)
Đạt Ma ngồi lâu không nói như vậy là có ý gì ? Đó là giáo pháp của ông ? Là sứ mạng của ông ? Hay ông chờ đợi ai hay một cái gì ? Có ai hiểu không ?
1910.- Mèo ăn hồ tiêu.
Một
thiền sư hỏi đồ đệ :
-Làm
cách nào để mèo ăn hồ tiêu ?
Đệ
tử 1 :
-Bóp
mũi nó rồi nhét hồ tiêu vào miệng.
-Dã
man quá !
Đệ
tử 2 :
-Bắt
nó nhịn đói 3 ngày rồi trộn hồ tiêu với cá vào cơm, nó
sẽ ăn.
-Vẫn
không hay.
-Vậy
phải làm sao ?
-Đem
nước hồ tiêu bôi lên người nó. Thân bị cay nó sẽ liếm
để khỏi bị cay. Dùng cách này không những nó tự nguyện
ăn hồ tiêu lại còn khoái chí nữa.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Nhiều khi chỉ suy nghĩ đơn giản không được, con đường vòng có khi lại là đường chánh.
1911.- Bồ Tát sát sanh.
Một
chú tiểu hỏi lão sư phụ :
-Bạch
sư phụ, Bồ Tát còn sát sanh không ?
-Có
chứ, Bồ Tát thường sát sanh không ngừng nghỉ.
-Cái
gì ? Bồ Tát sao lại sát sanh, lại còn thường làm nữa ?
-Vì
cứu độ chúng sanh, trừ yêu diệt ma.
-Vậy
là Bồ Tát cũng phạm giới sao ?
-Phạm
giới lại là không phạm giới.
-Nghĩa
là sao ?
-Phạm
giới vì có tướng sát sanh, không phạm giới vì trong tâm
không có sát niệm.
-Khi
sát sanh thì Bồ Tát có tâm niệm gì ?
-Giúp
người bị hại không bị chìm trong nước, cháy trong lửa,
giúp người làm hại thoát khỏi vạn kiếp trầm luân.
-Bồ
Tát sát sanh có sa địa ngục không ?
-Thường
sa địa ngục.
-Đã
biết phải sa địa ngục sao còn sát sanh ?
-Đó
là tinh thần của Bồ Tát.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Tôi không vào địa ngục thì ai vào ? Đó là trách nhiệm của Bồ Tát đối với chúng sanh.
1912.- Mộng Giác thiền sư.
Thời
vãn Đường có một vị thiền sư lập chí khổ hạnh tu thân,
vân du tứ hải tìm học các vị tôn túc, trải nhiều năm
vẫn chưa khai ngộ. Một hôm trên đường hành cước ông vào
một tòa miếu đổ nát, nằm ngủ tạm bên đống gạch vụn.
Bỗng ông nghe một tiếng sấm nổ vang trời, ông vội lồm
cồm bò dậy thấy Phật tổ ngồi đoan tọa trong đám mây
ngũ sắc. Ông liên thanh niệm :
-A
Di Đà Phật ! A Di Đà Phật ! Cúi xin Phật tổ điểm hóa cho
con.
Trong
lúc lạy bỗng ông thấy đầu Phật biến thành đầu chuột
chí chóe :
-Thật
đáng nực cười cho loài người, đầu gối mềm sèo bảo
quỳ là quỳ !
Thiền
sư nổi giận đang nghĩ cách trừng trị con chuột hỗn láo
này thì một con mèo xuất hiện vồ lấy con chuột định ăn.
Con chuột kêu lên :
-Không
được ăn ta ! Hãy quỳ lạy mau, ta là đại diện cho Phật.
Con
mèo không nói năng gì cắn đứt đôi con chuột ra, lại chia
cho thiền sư một nửa :
-Hòa
thượng, ông cũng ăn đi.
Thiền
sư sợ quá giật mình tỉnh giấc, hoảng nhiên đại ngộ :
-Ta
thật ngu xuẩn, đúng là cưỡi lừa tìm lừa. Ta chính là một
vị Phật sống việc gì phải đi khắp nơi tìm lạy Phật
giả ?
Thiền
sư cả cười, từ đó lấy hiệu là Mộng Giác.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Mọi người đều là Phật thật, việc gì phải đi tìm Phật ở đâu .
1913.- Tứ tổ kháng chỉ.
Tổ
thứ 4 của Thiền tông là Đạo Tín đại sư trú ở Hoàng
Mai 30 năm. Niên hiệu Trinh Quán, Đường Thái Tông ngưỡng
mộ tiên phong đạo cốt của Đạo Tín phái sứ giả đến
mời vào kinh gập mặt. Sứ giả truyền ý chỉ của Hoàng
Đế, Đạo Tín nghe xong chỉ nói :
-Xin
ông thay tôi cảm tạ thạnh ý của Hoàng thượng. Tôi đã
già rồi, quá quen thuộc với cảnh núi rừng, chẳng muốn
vào sống cảnh phồn hoa nơi đô thị.
Sứ
giả thuật lại cho Thái Tông nghe, Thái Tông lại sai sứ giả
lại mời nữa. Đạo Tín lại từ chối :
-Xin trình Hoàng thượng tôi già nua bệnh hoạn không thể tiến kinh.
Đạo
Tín cương quyết từ chối, sứ giả không có cách nào chỉ
đành về bẩm lại. Đường Thái Tông bị cự tuyệt trong
lòng không vui, sai người khênh kiệu đến mời. Đạo Tín
vẫn từ chối. Thái Tông nổi giận sai sứ giả mang dao đến
uy hiếp, nếu không tiến kinh thì sẽ chặt đầu. Đạo Tín
không sợ sệt, vươn cổ chờ chém. Sứ giả kinh sợ trở
về tâu lại. Thái Tông đành phải kính trọng chí hướng
của Đạo Tín không dám mời thỉnh nữa.
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Cổ thánh hiền trong tâm có đại chí nên coi tiền bạc như đất bùn, công danh như mây nổi. Người có chí mọi việc đều có thể làm được.
1914.- Tin và không tin.
Đời
Đường một ông tăng thuộc Tịnh Độ tông hỏi Huệ Trung
:
-Kinh
Thư có nói :
Xanh
xanh tạp trúc đều là pháp thân
Xum
xuê hoa vàng chẳng phải là không Bát Nhã.
Là
nói mọi sự, mọi vật đều có Phật tánh, không biết ý
đại sư thế nào ?
-Phật
tâm tràn đầy pháp giới, phổ hiện ở tất cả quần sanh,
tạp trúc không ra ngoài pháp giới sao chẳng phải là pháp
thân. Kinh Bát Nhã nói sắc vô biên, cho nên Bát Nhã cũng vô
biên. Hoa vàng không ra ngoài sắc giới, há chẳng phải là
Bát Nhã ?
Ông
tăng thấy thiền sư dẫn kinh điển hóa giải được câu hỏi
khó của mình, lại hỏi :
-Người
tin câu nói đúng hay người không tin câu nói đó đúng ?
-Người
tin là tục đế, người không tin là chân đế.
-Người
không tin là tà kiến, sao thiền sư nói là chân đế ?
-Người
không tin tự mình không tin, chân đế là chân đế. Phật tổ
cho sanh là khổ, chúng sanh coi sanh là vui, nguyên nhân ở đâu?
Mỗi người có cảnh giới riêng, ông tin Phật tổ hay tin chúng
sanh?
(Nhất Thiền Nhất Thế Giới)
Chuyện đời tốt hay xấu, tin hay không tin không quan trọng, quan trọng là nhận rõ bản chất sự tình.
1915.- Phật, Tổ truyền pháp.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Phật
thân truyền cho Phật, tổ sư cùng truyền từ đời này sang
đời khác, cứu cánh họ truyền cái gì ? Nếu các ông muốn
biết thì hãy coi tam thế chư Phật, lục đại Tổ sư như
đi giép rách, dùng môi (đồ dùng để múc cháo) cũ. Nếu các
ông hãy còn nghi, hãy nhìn dưới chân, Vĩnh Bình tôi chính
ở dưới đó.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)
Phật, Tổ truyền là truyền đạo lý phải do công phu của chính mình mà lãnh ngộ, chứ không phải là tiếp nhận cái gì do người khác truyền.
1916.- Thân tâm thoát lạc.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Khi
thân tâm thoát lạc rồi thì sẽ không chấp trước ngoại
cảnh. Lúc đó, nếu không triệt ngộ thì cũng không còn bị
mê hoặc nữa. Thử hỏi trong đây có vị khách nào từ Giang
Nam tới, nghe được ngoài tiếng chim Chá Cô còn có tiếng
đàn ?
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)
Người đã giác ngộ, khi nghe tôi thuyết pháp có thể nghe được thanh âm của chân lý – là tiếng chim Chá Cô – mà nhớ về Giang Nam (cố hương).
1917.- Vốn không một vật.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Người
biết vốn không một vật thì vạn sự, vạn vật đều hiển
hiện, không dấu diếm gì.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)
Đạo Nguyên dẫn lời của Lục Tổ (vốn không một vật) và của Khánh Chư (tất cả đều hiển hiện)
1918.- Lâu không nói pháp.
Đạo
Nguyên thượng đường nói :
-Đã
lâu Hưng Thánh không nói pháp cho đại chúng nhưng Phật điện,
Phật đường, tiếng suối, bóng cây đều vì các ông nói
pháp, các ông có nghe không ? Nếu nghe thì chúng nói gì ? Nếu
không nghe được thì là mình tự phụ mình, uổng phí diệu
pháp.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)
Nếu các ông không hiểu thì các ông đã hạnh phụ tự nhiên vô thượng diệu pháp.
1919.- Bà Tu Mật.
Bà
Tu Mật là tổ thứ 7 của Thiền tông Ấn Độ. Ông đặt một
chung rượu trước mặt tổ thứ 6 là Di Dá Ca, vái lạy rồi
đứng hầu một bên. Tổ Di Dá Ca hỏi :
-Đây
là chung của tôi hay của ông ?
Bà
Tu Mật còn đang ngẫm nghĩ, tổ Di Dá Ca lại nói :
-Nếu
ông nghĩ là của tôi thì đó là bản chất nội tại của
ông, nếu ông nghĩ đó là của ông, thì tôi sẽ truyền pháp
cho ông .
Nghe
lời này Bà Tu Mật giác ngộ được tự tánh.
(Zen Light)
Các thiền sư đều cho rằng cách học tốt nhất là hãy tự làm trống rỗng cái chung của mình. Nếu chúng ta đem đến thiền sư một cái chung đầy những ý tưởng, lý thuyết, kiến thức v. v . thì còn chỗ đâu để học những cái mới nữa ? Công án này còn đi xa hơn một bước nữa là quẳng cả cái chung đi. Chẳng có cái chung nào cả.
1920.- Đề Ca Đa.
Đề
Ca Đa là tổ thứ 5 của Thiền tông Ấn Độ. Ông nói :
-Xuất
gia để trở thành một vị tỳ kheo là vô ngã, là không sở
hữu một cái gì. Bản tâm không sanh, không diệt nên là thường
đạo. Chư Phật đều là chân thường. Tâm không hình tướng
nên bản thể cũng vậy.
Tổ
thứ tư là Ưu Ba Cúc Đa xác nhận :
-Ông
đã giác ngộ tự tâm ông.
(Zen Light)
Đạo
không phải là lý thuyết, giáo điều, cũng không phải là
triết lý, thần học. Chúng ta nghĩ chúng ta có thể hiểu Đạo.
Chúng ta nghĩ chúng ta biết khi nói về Thiền. Nhưng nói về
thiền là chúng ta đã đánh mất nó. Chúng ta đập đầu vào
tảng đá của công án. Chúng ta nghĩ chúng ta đã đạt được
và chúng ta hiểu nó. Nhưng có đúng thế không ? Có thể biết
một cái gì sao ? Biết là ở một vị thế. Chúng ta bất tri,
bất giác và tự động gạt bỏ những gì khác vị thế với
chúng ta. Chúng ta có thể nắm một vật bất động trong tay
và nói đây là nó không ? Không vì mọi vật luôn thay đổi.
Không biết lại trở thành thực tiễn khi đối diện với
một vấn đề. Không biết lại là phương thức tốt nhất
để biết vì không biết là trạng thái cởi mở, tiếp nhận
bất cứ cái gì xẩy ra. Động Sơn có câu :
Khi
người gỗ hát
Thạch
nữ đứng dậy múa.
Làm
sao người gỗ có thể hát, thạch nữ có thể múa ? Trong vị
thế không biết mọi sự đều có thể xẩy ra.
1921.- La Hầu Đa La.
La
Hầu Đa La là tổ thứ 16 của Thiền tông Ấn Độ. Ông theo
học với tổ thứ 15 là Ca Na Đề Bà, khi ông được
nghe nhân duyên của nghiệp ông liền giác ngộ.
(Zen Light)
Công án này nói về nghiệp. Cha của La Hầu Đa La có một khu vườn, trong đó có một cây đại thọ sanh ra một thứ nấm lạ, mỗi khi hái xong, nấm lại mọc ra liền. Ca Na Đề Bà đến thăm hai cha con La Hầu Đa La. Họ hỏi ông về cây nấm và Ca Na Đề Bà giải thích rằng lúc trước gia đình La Hầu Đa La có cung dưỡng một vị tỳ kheo, tuy nhiên vị này chưa mở đạo nhãn. Do đó những bố thí này đều vô ích. Khi vị tỳ kheo này chết, ông biến thành nấm để trả nợ cũ. Các nghiệp do thân khẩu ý chắc chắn sẽ hiện ra quả. Sống thiền là sống vô chấp : không chấp vào vật chất ta có, hay tinh thần ta đạt được. Bất cứ làm gì chúng ta cũng làm hết sức với lòng từ bi, chúng ta sẽ không trở thành cây nấm để trả nợ.
1922.- Sự kỳ đặc.
Đạo
Nguyên thượng đường kể lại công án có một ông tăng hỏi
Bách Trượng :
-Thế
nào là chuyện kỳ đặc ?
-Bách
Trượng ngồi một mình trên đỉnh núi Đại Hùng. Nay nếu
có người hỏi Vĩnh Bình tôi câu hỏi này tôi sẽ đáp :
-Đánh
trống tụ chúng lại nói pháp.
(Đạo Nguyên Ngữ Lục)
Bách Trượng là Bách Trượng, Vĩnh Bình là Vĩnh Bình, hai người đều có sinh hoạt riêng. Sự kỳ đặc là sự sinh hoạt bình thường hàng ngày.
1923.- Thế nào là tâm Phật ?
Đường
Tuyên Tông hỏi thiền sư Hoằng Biện :
-Thế
nào là tâm Phật ?
-Phật
nghĩa là giác, là người có trí tuệ giác chiếu làm Phật
Tâm. Tâm là tên khác của Phật. Tâm dạng nào cũng có, nhưng
bản chất thì đồng, không có hình trạng, nhan sắc, nam nữ
sai biệt. Phật Tâm tại trời không phải là trời, tại người
không phải là người nên có thể hiện làm trời, làm người,
làm nam, làm nữ, không có bắt đầu cũng không có kết cuộc,
không sanh, không diệt nên gọi là tánh linh giác.
(Thiền Tư)
Mỗi người có vị trí, nhiệm vụ và tác dụng riêng, có thể tận tâm tận lực làm hết bổn phận mình, đó là Tâm Phật.
1924.- Không dấu vết.
Một
ông tăng hỏi Ba Tiêu Sơn Viên :
-Các
vị Bồ tát không có thần thông thì có hình, có tướng, tại
sao không tìm ra tông tích của họ ?
-Tu
hành có nhiều tầng lớp, chỉ có những người có cùng cảnh
giới mới nhận biết rõ ràng những hiện tượng của cảnh
giới ấy, còn không thì có nói ra ông cũng không hiểu.
-Cùng
cảnh giới thì mới biết, còn thầy có biết không ?
-Tôi
không biết.
-Vì
sao thầy không biết ?
-Chẳng
phải là thi sĩ thì không bàn về thơ, ông vốn không hiểu
lời tôi nói.
(Thiền Tư)
Người không cùng cảnh giới thì không giao lưu được.
1925.- Kiếm không lưỡi.
Một
ông tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch :
-Thế
nào là kiếm không lưỡi, nó có dạng thức nào ?
-Không
do gang thép luyện thành .
-Khi
dùng thì sao ?
-Người
nào gập phải đều mất mạng.
-Gập
phải thì mất mạng, còn không gập thì sao ?
-Cũng
bị rơi đầu.
-Thật
là uy lực rất lớn, nhưng con vẫn không hiểu : người gập
mất mạng đã đành, nhưng còn người không gập vì sao cũng
bị rơi đầu ?
-Đặc
điểm của kiếm không lưỡi là “không, vô” đương nhiên
có thể kết thúc mọi sự việc.
-Cùng
tận mọi sự rồi sao ?
-Người
tu chặt đứt hết mọi dính mắc chân chính đạt tới cảnh
giới vô tướng, vô vật sẽ biết rõ uy lực của kiếm không
lưỡi.
(Thiền Tư)
Ý của thiền sư là phải bỏ tất cả mọi chấp trước.
1926.- Châu ở đâu ?
Một
hôm Phật Nhật đến bái phỏng Vân Cư Đạo Ưng, thi lễ xong
rồi Phật Nhật bèn hỏi :
-Trong
khi tu hành giác tri và vọng tưởng như hai con rồng tranh châu,
không biết con nào được châu ?
-Vọng
tưởng thì tôi cũng đã bỏ được nhiều rồi.
-Nếu
đã vậy thì ông thấy châu ở đâu ?
Phật
Nhật á khẩu không trả lời được.
(Thiền Tư)
Châu mà tâm vọng tưởng đi tìm không phải là bảo châu chân chính. (Xem thêm công án 1667).
1927.- Không vì cảnh mà động tâm.
Có
ông tăng hỏi Bảo Thọ Thiệu thiền sư :
-Sau
khi khai ngộ rồi, nội tâm thâm xứ bị tình cảnh nhiễu loạn
thì phải làm sao ?
-Mặc
kệ nó.
Ông
tăng như vừa tỉnh mộng lạy tạ. Thiền sư nghĩ thầm mình
vừa bảo đừng động tâm, sao lại động nữa rồi ? Bèn
lớn tiếng mắng :
-Đừng
động tâm nữa nếu không tôi sẽ đánh cho ông một trận.
(Thiền Tư)
Người tu dù ở trong cảnh huống nào cũng không được khởi tâm tương ứng, tâm phải như tường đồng vách sắt.
1928.- Đừng chấp danh tướng.
Một
ông tăng hỏi Chân Giác Linh Chiếu :
-Dưới
gốc bồ đề độ chúng sanh, hình dáng cây bồ đề như thế
nào ?
-Giống
cây khổ luyện.
-Vì
sao giống cây khổ luyện ?
-Hình
dáng cây bồ đề đối với sự tu hành của ông có quan hệ
gì ? ông chỉ chấp vào danh tướng. Ngựa tốt chỉ thấy bóng
roi đã chạy, ông không phải là ngựa tốt, thấy roi mà cũng
không nhúc nhích.
(Thiền Tư)
Chấp vào danh tướng thì không hiểu được “Không” của Phật pháp.
1929.- Người tỉnh táo.
Có
ông tăng hỏi Đoan Châu Đạo Hư :
-Người
khai ngộ và người không khai ngộ cùng đến thỉnh giáo thầy,
xin hỏi thầy giáo huấn họ thế nào ?
-Ông
có thấy ngọn núi kia còn thiếu mấy tấc đất bùn nữa chăng
? Mỗi người đều tự có trí lực.
-Dĩ
nhiên là vậy, nhưng sao còn có người đi năm non bẩy núi
để tìm kiếm ?
-Những
người này bị tục niệm, vọng tưởng làm cho mất bản tánh,
cần thiền sư chỉ cho chỗ mê.
-Còn
có người không bị cuồng vọng không ?
-Có.
-Là
người nào ?
-Thông
qua trí tuệ có thể hiểu biết các hiện tượng, không bị
ngoại cảnh làm bận tâm, những người này vĩnh viễn không
sa vào cảnh cuồng vọng.
(Thiền Tư)
Ngoại cảnh dễ làm người mê, làm người tỉnh táo rất khó.
1930.- Thô bạo quá.
Đường
Tuyên Tông khi chưa lên ngôi đã từng là sa di, tham học với
thiền sư Hương Nghiêm. Một hôm hai thầy trò đi chơi núi.
Hương Nghiêm ngâm :
Xuyên
mây chẳng thấy nhọc
Xa
đất mới thấy cao.
Tiểu
sa di đọc tiếp :
Khe
suối không giữ được
Lòng
biển lớn ba đào.
Thiền
sư mỉm cười :
-Chú
tiểu nhỏ này tương lai sẽ làm hoàng đế đây !
Về
sau tiểu sa di lại đến học với thiền sư Tế An, lúc đó
Hoàng Bá đang làm thủ tọa ở đó. Tiểu sa di thấy Hoàng
Bá lễ Phật liền hỏi :
-Chẳng
cầu Phật, chẳng cầu Pháp, chẳng cầu Tăng, trưởng lão
quỳ lạy là cầu cái gì ?
-Tôi
chẳng cầu Phật, chẳng cầu Pháp, chẳng cầu Tăng, chỉ quỳ
lạy thế thôi.
-Vì
sao quỳ lạy ?
Hoàng
Bá thấy tiểu sa di cố chấp bèn cho một tát tai. Sa di không
khai ngộ, tâm sân nổi lên oán trách :
-Thật
thô bạo quá !
-Đây
là đâu mà chú nói thô với tế ?
Nói
rồi lại cho thêm hai tát tai nữa.
Về
sau, sa di quả nhiên làm hoàng đế, nhưng vẫn không quên cái
thù bị đánh. Hoàng Bá qua đời Tuyên Tông ban hiệu là Thô
Hạnh Thiền Sư. Tể tướng Bùi Hưu là đệ tử nhập thất
của Hoàng Bá biết rõ chuyện này, bèn dâng sớ tâu hoàng
đế :
-Thiền
sư đã vì hoàng đế chặt đứt tam tế đó ! (Tam tế là một
thuật ngữ Phật giáo chỉ thời quá khứ, hiện tại, vị
lai, có khi cũng chỉ trong, ngoài, giữa).
Tuyên
Tông là một Phật tử biết phân phải quấy, do đó sửa hiệu
lại thành Đoạn Tế Thiền Sư.
(Thiền Tư)
Người nghiêm khắc với ta, thật ra là người quan tâm đến ta.
1931.- Không có mắt.
Đơn
Hà là một đại thiền sư đời Đường. Một hôm có một
ông tăng đến tham vấn. Đơn Hà thấy mặt liền hỏi :
-Ông
từ đâu tới ?
-Con
từ dưới núi lên.
Đơn
Hà thấy ông tăng không chịu nói xuất xứ, giống như người
có tu nên muốn thử xem ông ta có phải là người sáng mắt
không, lại hỏi :
-Đức
Phật nói cho 100 người ác ăn chẳng bằng cho một người
thiện ăn. Cúng dường tam thế chư Phật chẳng bằng cho một
người vô niệm, vô trú, vô tu, vô chứng ăn.
Nói
tới đây Đơn Hà lại hỏi :
-Ông
đã ăn chưa ?
-Dạ
! đã ăn rồi.
-Người
nào cho ông ăn là kẻ không có mắt.
Ông
tăng không đáp được. Đơn Hà thở dài :
-Quả
là một gã vô tri !
(Thiền Tư)
Thiền giả không phải là người chỉ trình ra những lời thiền ngoài miệng.
1932.- Không thể nói dài, ngắn.
Có
một ông tăng muốn khảo nghiệm Mã Tổ, liền vẽ một vạch
dài, 3 vạch ngắn rồi hỏi Mã Tổ :
-Không
thể nói một dài, 3 ngắn, xin mời thầy nói .
Nói
rồi đứng sang một bên chờ Mã Tổ trả lời.
Mã
Tổ vạch trên mặt đất một vạch :
-Không
thể nói dài, ngắn.
Ông
tăng trợn mắt, há mồm, có chút tỉnh ngộ.
(Thiền Tư)
Thiền giả là người không chú trọng vào hình thức.
1933.- Chúc tết.
Có
một năm vào ngày nguyên đán đang lúc mọi người đang vui
mừng đón xuân thì Nhất Hưu đến nghĩa địa, kiếm một
cái đầu lâu. Ông lấy gậy trúc xỏ vào đầu lâu mang đến
trước mọi nhà hô lớn :
-Mọi
người cẩn thận ! Mọi người phải cẩn thận !
Mọi
người đều cho là ông khùng, hễ ông đi tới nhà nào thì
nhà ấy đóng sầm cửa lại. Có người hỏi ông tại sao lại
làm như vậy, ông trả lời :
-Nếu
không có đầu lâu này thì đó chẳng phải là việc đáng
chúc mừng sao ?
(Danh Thiền Bách Giảng)
Nhất Hưu cảnh cáo mọi người chỉ chú trọng đến sanh mà lơ là đến tử.
1934.- Chờ thời.
Vinh
Tây là vị thiền sư Nhật Bản đến Trung Quốc du học 12
năm. Ông học với thiền sư Hư Am 5 năm được kế thừa Lâm
Tế tông rồi mới về nước. Về nước ông truyền bá Phật
pháp ở vùng Cửu Châu. Ông muốn đến kinh đô để truyền
pháp nhưng các tông phái cựu Phật giáo ở đó rất bất mãn
Vinh Tây đem về một tông phái mới, nên vận động triều
đình cấm ông không được truyền pháp ở kinh thành. Ông
chỉ đành quay lại Cửu Châu. Đến thời Mạc Phủ ông được
tín nhiệm và ủng hộ nên ông trở thành khai sơn tổ sư Kiến
Nhân Tự. Từ đó Lâm Tế tông mới được truyền bá ở kinh
đô. Chờ thời đối với Vinh Tây là chờ cơ hội.
(Danh Thiền Bách Giảng)
Vinh Tây cả đời gập nhiều trở ngại, nhưng ông chủ trương chờ thời, kiên quyết nhẫn nại đợi cơ hội thực hành lý tưởng.
1935.- Chết thì chết.
Có
một ông lão hỏi thiền sư Bàn Khuê :
-Lão
sắp chết rồi, xin thiền sư chỉ cho con đường giác ngộ
để lão được an tâm.
-Cụ
không cần phải giác ngộ.
-Xin
hỏi tại sao ?
-Khi
chết đến thì chết.
(Danh Thiền Bách Giảng)
Đó cũng là ý của thiền sư Lương Khoan ; gập tai nạn thì thản nhiên tiếp thụ, cái chết đến cũng thản nhiên đối diện, đó là diệu pháp.
1936.- Khổng ất dĩ.
Có
ông tăng hỏi Trần Tôn Túc :
-Thế
Tôn nói pháp 49 năm, cộng 300 pháp hội, cứu cánh là nói gì
?
-Ông
có thấy từ nhỏ học : “Thượng đại nhân, khổng
ất dĩ” * không ?
(Tứ Lý Thiền)
Nhiều ngưới học nhiều Phật pháp nhưng chẳng biết tu như thế nào, nhiều tri thức nhưng không biết sinh hoạt. Chẳng cứ là học Phật, học thiền hay bất cứ một môn học thế gian nào phải trong sinh hoạt mình cảm thấy tốt đẹp, hạnh phúc. Nếu học đến si khờ thì há chẳng nên bắt đầu lại từ đầu sao ?
* Chú
Thích:
Nguyên
văn câu này như sau :
上
大 人 孔 乙 已 化 三 千
Thượng
đại nhân Khổng ất dĩ hóa tam thiên
七
十 士. 爾 小 生 八 九 子
thất
thập sĩ. Nhĩ tiểu sinh bát cửu tử
佳
作 仁 可 知 禮 也
giai
tác nhân khả tri lễ dã.
Ý nói : Vị thánh nhân ngày trước (Khổng Tử) dạy ba ngàn học trò được hơn 70 người tài giỏi. Lũ chúng bay, bây giờ còn nhỏ lên tám, lên chín tuổi mà làm điều nhân như thế khá là biết lễ vậy. (Chu Thiên dịch)
1937.- Chẳng chịu đảm đương.
Chiêu
Đề Huệ Lương tham học với Thạch Đầu Hi Thiên hỏi :
-Phật
là gì ?
-Cái
ông này ! Ông không có Phật tánh.
-Con
không có Phật tánh, còn bọn xuẩn động hàm linh thì sao ?
-Bọn
chúng có Phật tánh.
-Vậy
vì sao con lại không có Phật tánh ?
-Vì
ông không chịu đảm đương.
(Tứ Lý Thiền)
Trong sinh hoạt có nhiều đạo lý rất rõ ràng mọi người đều biết nhưng vì sao nhiều người vẫn đi lầm đường ?
1938.- Không làm gì cả.
Một
lần, thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm ngồi thiền trên một
tảng đá. Thạch Đầu Hi Thiên trông thấy hỏi :
-Ông
làm gì ở đây ?
-Con
chẳng làm gì cả.
-Vậy
sao ? Ông chả đang ngồi không là gì ?
-Nói
ngồi không là nói có làm rồi.
(Tứ Lý Thiền)
Vũ trụ là gì ? Có phải là vô lượng, vô biên thế giới không ? Đối với bản thân vũ trụ, chúng ta chỉ nhận biết cục bộ, giới hạn mà thôi. Sinh hoạt của các thiền sư cũng là sinh hoạt của con người nhưng cảnh giới của họ thì hoà cùng một nhịp với vũ trụ.
1939.- Động Đình hồ đã đầy chưa ?
Dược
Sơn Duy Nghiễm hỏi một ông tăng mới đến :
-Ông
từ đâu tới ?
-Con
từ Hồ Nam lại.
-Nước
hồ Động Đình đã đầy chưa ?
-Dạ
! Còn chưa đầy.
-Từ
xưa đến giờ có nhiều trận mưa lắm mà sao hồ vẫn chưa
đầy ?
Ông
tăng đó không trả lời được.
(Tứ Lý Thiền)
Đọc sách cả vạn quyển chửa chắc tâm đã đầy. Đêm đến trăng sao vằng vặc nhưng mắt vẫn chưa đầy . . . chỉ cần tâm chúng ta trú ở “không, vô” thì có gì không dung nạp được ? Cái gì mà không sáng tạo được ? (Xem thêm công án 300)
1940.- Trâu đực sanh con.
Dược
Sơn Duy Nghiễm trong một pháp hội bảo đại chúng :
-Đối
với Thiền tôi có một câu nói có thể giúp các ông hiểu
rõ, nhưng phải đợi tới khi nào trâu đực sanh con thì tôi
mới nói.
Có
một ông tăng bước ra thưa :
-Chỉ
sợ trâu đực sanh con rồi, lão sư cũng không nói ra được.
(Tứ Lý Thiền)
Không thể dùng lời nói để thuyết minh về Thiền, cũng như trâu đực không thể sanh con. Giả như vấn đề trâu đực có thể sanh con có thể giải quyết được (Khoa học ngày nay có thể tạo sanh từ một tế bào) thì ngôn ngữ cũng không thể giải thích Thiền rõ ràng được. Hơn ngàn năm nay biết bao vị thiền sư và có biết bao sách vở về Thiền, nhưng đã có ai đưa ra được một định nghĩa nào chính xác về Thiền chưa ? (Xem thêm công án 141)
1941.- Đạt Ma chưa tới.
Có
ông tăng hỏi Dược Sơn Duy Nghiễm :
-Đạt
Ma tổ sư chưa tới Trung Quốc, Trung Quốc có ý tổ sư không ?
-Đương
nhiên là có.
-Nếu
đã có vì sao tổ sư còn qua ?
-Chính
vì có nên tổ sư mới qua.
(Tứ Lý Thiền)
Tôi không rõ mặt mũi tôi thế nào, tôi mang gương ra soi liền rõ. Chân lý sở dĩ có ở thế gian này vì chính bản thân thế gian có chân lý.
1942.- Không bị ngoại cảnh mê hoặc.
Có
ông tăng hỏi Dược Sơn Duy Nghiễm :
-Con
phải làm sao để khỏi bị ngoại cảnh mê hoặc ?
-Ngoại
cảnh là ngoại cảnh, nó mê hoặc ông ở chỗ nào ?
-Con
chưa hiểu rõ ý thầy.
-Ngoại
cảnh nào mê hoặc ông ? Chính là ông tự mê hoặc.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền giống như dùng một lưỡi dao bén mà giải phẫu quan hệ chủ khách. Chúng ta trong sinh hoạt thường cảm thấy gập khó khăn, nhưng từ khi có nhân loại đến giờ có ai trong sinh hoạt mà không gập khó khăn không ?
1943.- Tâm con yên tĩnh.
Dược
Sơn Duy Nghiễm hỏi Cao sa di :
-Tôi
nghe nói thành Trường An rất náo nhiệt, ông có biết không
?
-Thành
Trường An rất náo nhiệt, nhưng tâm con thì an tĩnh.
-Ông
được cảnh giới này là do xem kinh hay do thỉnh ích ?
-Không
phải do xem kinh hay thỉnh ích.
-Có
nhiều người không xem kinh, cũng không thỉnh ích vì sao họ
không được ?
-Chỉ
vì họ không chịu đảm đương.
(Tứ Lý Thiền)
Tâm vốn tự đầy đủ lại có thể sanh ra vạn pháp, chỉ cần chúng ta nắm lấy công năng này thì hà tất phải chịu ảnh hưởng của các sản vật do nó sanh ra, đó cũng là nói mặt trời há cần nắng chiếu sáng sao ?
1944.- Đi hỏi cột đá.
Có
ông tăng hỏi Thạch Đầu Hi Thiên :
-Đạt
Ma tổ sư đến Trung Quốc để truyền gì ?
-Ông
hãy ra hỏi cây cột đá ngoài viện.
-Con
không hiểu ý thầy.
-Tôi
cũng chẳng hiểu.
(Tứ Lý Thiền)
Nếu ông gập một người tự xưng là khai ngộ hoặc đắc đạo thì chớ tin lời hắn, nếu chẳng phải là lời nói láo thì cũng là lời điên khùng.
1945.- Thuỷ Không hoà thượng.
Thuỷ
Không hoà thượng là đệ tử của Thạch Đầu Hi Thiên. Một
hôm ông gập một ông tăng ở hành lang chùa bèn hỏi :
-Chính
lúc này nên làm gì ?
Ông
tăng này nhìn xuống chân rất lâu không đáp.
Thuỷ
Không lại hỏi :
-Ông
thấy cách trả lời này là đúng sao chớ ?
-Thực
là trên đầu còn ghép thêm đầu nữa.
Thuỷ
Không đánh ông một trận :
-Đi
đi ! Về sau ông chỉ làm loạn tâm trí mọi người.(Ông có
thể truyền pháp)
(Tứ Lý Thiền)
Các thiền sư gập nhau chẳng có gì để nói, họ dường như là một. Các lời nói nếu có đều điên đảo. Đương nhiên công án là để cho người học Thiền xem trong đó phải nhận ý ngoài lời, chỉ tự mình thưởng thức vị Đạo.
1946.- Tổ tổ tương truyền.
Có
ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Dồng :
-Tổ
tổ tương truyền, không biết họ truyền lời gì ?
-Lão
tăng không hiểu vọng ngữ.
(Tứ Lý Thiền)
Những lời quỷ quyệt, quái đản không phải là chí nhân. Chí nhân chỉ bình thường. Bất luận chư tổ truyền lời gì cũng không thể trái ngược lại với sinh hoạt chính thường trong xã hội và bản tánh của con người. Do đó đối với những gì không thiết thực, những ảo tưởng, thần thoại, thiền sư không khách khí (Lão tăng không hiểu vọng ngữ) chẳng phải là tổ tổ tương truyền sao ?
1947.- Như gà mái ấp trứng.
Có
ông tăng hỏi Thạch Đầu Đại Đồng :
-Nếu
con mang từng vấn đề ra hỏi, thầy đều có thể tuần tự
giải đáp, nhưng nếu cả ngàn vạn người đồng thời hỏi
thì thầy phải làm sao ?
-Tôi
sẽ như gà mẹ ấp trứng.
(Tứ Lý Thiền)
Gà mái ấp trứng dù là một quả hay nhiều quả, gà mẹ đều tận tâm, tận lực ấp. Đó là tinh thần của gà mái, các thiền sư cũng vậy. Vấn đề ông tăng nêu ra ông có thể coi đó như là một quả trứng còn mình thì là gà mái mà ấp quả trứng đó chẳng được sao ?
1948.- Phật tánh như hư không.
Có
ông tăng hỏi Thạch Sương Khánh Chư :
-Con
nghe các thiền sư giảng Phật tánh như Hư Không vô lượng,
vô biên, vô hình, vô chất có phải thế không ?
-Đúng
thế ! Khi ông nằm thì có, khi ông ngồi thì không.
(Tứ Lý Thiền)
Các thiền sư thường hay nói ngược, do đó ta có thể hiểu khi ngồi thì có Phật tánh, còn khi nằm thì không. Chẳng kể nằm hay ngồi khi các ông có tâm tìm kiếm thì đã sai rồi.
1949.- Tam tạng.
Có
ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng :
-Tam
tạng giáo điển : kinh, luật, luận còn có gì đặc biệt
ly kỳ không ?
-Có
chứ ! Đó chính là cái có thể diễn xuất ra kinh, luật, luận.
(Tứ Lý Thiền)
Kinh là ghi lời Phật nói, luật là những cấm giới Phật đặt ra, luận là những giải thích về kinh và luật do các đại bồ tát phát huy. Thiền nhận định Phật và tâm chúng sanh không sai biệt. Phật là người tu thành cho nên tâm chúng sanh là tâm Phật. Kinh, luật, luận là sản phẩm tinh thần của con người, do đó tâm con người so với đại tạng kinh còn đặc biệt, ly kỳ hơn vì nó chính là nguồn gốc của tam tạng giáo điển.
1950.- Vắng lặng không người.
Có
ông tăng hỏi Giáp Sơn Thiện Hội :
-Xin
thầy cho biết làm sao mới có thể đạt được cảnh giới
Niết Bàn vắng lặng là cảnh giới tối cao, rồi sau đó phải
làm gì ?
-Giống
như trong phòng ngủ lớn mà chẳng có người.
(Tứ Lý Thiền)
Câu hỏi của ông tăng đã rơi vào mâu thuẫn. Vắng lặng là vô sự, có sự thì không phải là vắng lặng nữa. Niết Bàn tuy là cảnh giới tối cao nhưng khi vào Niết Bàn thì Niết Bàn không còn là Niết Bàn nữa.
1951.- Chánh Tam.
Trong
thời Chiến Quốc ở Nhật Bản, đất nước chia làm 2 phe
Đông, Tây. Chánh Tam gia nhập vào phe Đông, theo tướng quân
Đức Xuyên xung phong trận mạc, do kinh nghiệm chiến trường
ông đào luyện được cái tâm siêu việt sanh tử. Sau chiến
tranh, ông thường tập ngồi thiền nhưng mãi đến năm 42 tuổi
ông mới chính thức xuất gia. Ông học qua cả Lâm Tế tông
và Tào Động tông, nhưng không theo hẳn một phái nào. Ông
chủ trương tu đạo phải bỏ hết danh lợi, phải như Nhân
Vương Bất Động Phật có một tâm kiên quyết, coi trọng
vấn đề sanh tử, phải tự mình thể hội xả thân cứu người
thì việc tu hành mới được viên mãn. Ông mất năm 77 tuổi.
Trước khi mất, một ông tăng hỏi ông :
-Đại
phu nói mạch thầy đã yếu, hiện thầy thấy sao ?
-Ông
đừng lo ! 30 năm trước tôi đã chết rồi.
(Danh Thiền Bách Giảng)
Chánh Tam cả đời chuyên dạy đệ tử phải coi trọng vấn đề tử vong.
1952.- Già rồi còn cầu Đạo.
Hoà
thượng Quan Sơn 51 tuổi nghe tiếng Tông Phong Diệu Siêu ở
Đại Đức Tự bèn lại tham học. Lúc đó Tông Phong chỉ mới
46 tuổi. Người tu đạo vì lòng cầu Đạo không kể tuổi
tác. Về sau Quan Sơn bái Tông Phong làm thầy, ở lại 3 năm
tu học, sau được Tông Phong ấn khả. Quan Sơn ngộ đạo rồi
đột nhiên không thấy tông tích đâu cả. Có người đồn
ông trở thành khất cái. Khi Tông Phong mất, triều đình cho
người tìm kiếm Quan Sơn để kế thừa tông pháp. Sau nhiều
lần từ chối không được Quan Sơn đành phải trụ trì Diệu
Tâm Tự. Có ông tăng hỏi :
-Con
muốn hỏi về việc lớn sanh tử, xin thầy chỉ dạy.
-Nơi
đây không có sanh tử.
Nói
rồi giơ gậy đánh đuổi ông tăng đó ra khỏi cửa.
Năm
84 tuổi, một hôm ông bảo đệ tử là Thọ Ông :
-Thọ
Ông ! Hôm nay tôi muốn ra ngoài.
Ông
ra ngoài đến vùng phụ cận Phong Thuỷ Tuyền đứng dưới
một gốc thông mà mất.
(Danh Thiền Bách Giảng)
Câu nơi đây không có sanh tử là nói thiền sư đã vượt qua sanh tử rồi, không để vào mắt.
1953.- Hồ Đồ gập Đạt Ma.
Có
ông tăng hỏi Tuyết Phong Nghĩa Tồn :
-Mắt
con vốn chính, gập thầy rồi trở thành tà phải làm sao ?
-Hồ
Đồ lại gập Đạt Ma.
-Mắt
con ở đâu ?
-Dù
ông có đánh mất con mắt hay tìm lại được thì cũng chẳng
liên quan gì đến tôi.
(Tứ Lý Thiền)
Con mắt là chỉ sự nhận thức. Có nhiều người không có đầu óc, toàn trông cậy vào người khác. Cũng có người có đầu óc nhưng chỉ làm được nửa ngày là lại bị người khác đoạt mất đầu, ông có thấy thế không ? Điều cốt yếu là phải nhận thức chính tâm mình. Đó là ông, không phải là người khác.
1954.- Ở bên bờ sông mà chết khát.
Tuyết
Phong Nghĩa Tồn thượng đường nói :
-Có
người ngồi bên mâm cơm mà chết đói, có người bên bờ
sông mà chết khát.
(Tứ Lý Thiền)
Có nhiều người sống trong ánh sáng của chân lý mà không thấy ánh sáng. Có nhiều người không biết cách sinh hoạt nên bị sinh hoạt đào thải.
1955.- Tổ ý và giáo ý.
Có
ông tăng hỏi Tuyết Phong Nghĩa Tồn :
-Tổ
ý và giáo ý là cùng hay là khác ?
-Sấm
nổ vang trời động đất nhưng người ở trong phòng không
nghe được. Ông đi hành cước vì chuyện gì ?
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông đối với các giáo phái khác của Phật giáo dĩ nhiên có nhiều mâu thuẫn. Tuyết Phong chỉ trích những người chấp vào giáo điều mất cả trí phán đoán, giống như sấm nổ mà không nghe được. Đó cũng là nói người học Phật nên học theo Phật hay là theo giáo điều ?
1956.- Dao phát ra tiếng.
Dược
Sơn Duy Nghiễm và Vân Nham Đàm Thạnh cùng đi chơi núi. Dao
đeo ở lưng Dược Sơn theo nhịp đi phát ra tiếng. Vân Nham
hỏi :
-Cái
gì gây ra tiếng đó ?
Dược
Sơn rút dao ra khỏi vỏ, làm bộ chém.
(Tứ Lý Thiền)
Động
Sơn Lương Giới phê bình công án này :
-Các
ông có thấy Dược Sơn tổ sư rút dao ra muốn chém là vì
“cái đó” không ? Các ông phải hiểu rõ chuyện này, phải
thể hội ý này mới được.
1957.- Toán mạng.
Dược
Sơn Duy Nghiễm hỏi một ông tăng :
-Nghe
nói ông biết toán mạng có phải không ?
-Không
dám.
-Ông
thử toán mạng cho tôi coi.
Ông
tăng không trả lời được.
(Tứ Lý Thiền)
Mạng vận là mối quan hệ giữa “ngã” và ngoại cảnh theo thời gian. Cảnh giới của các thiền sư vượt lên thời gian và mối quan hệ này, nên làm sao mà toán mạng được ?
1958.- Chẳng sợ đường trơn.
Mã
Tổ Đạo Nhất hỏi Đơn Hà Thiên Nhiên :
-Ông
từ đâu tới ?
-Con
từ Thạch Đầu lại.
-Đường
Thạch Đầu trơn lắm, ông có bị té không ?
-Nếu
bị té thì con đã chẳng tới được đây.
(Tứ Lý Thiền)
Đường hiểm có người không dám đi, người đi được rất hiếm, người đi được và trở về bình yên lại càng hiếm hơn.
1959.- Xúc Mục Bồ Đề.
Thạch
Sương Khánh Chư rời khỏi Quy Sơn đến Đạo Ngô Tông Trí
tham học. Ông hỏi Đạo Ngô :
-Xin
hỏi thầy phải làm sao để đạt tới cảnh giới hễ mắt
chạm tới đâu thì đó đều là trí huệ bồ đề ?
Đạo
Ngô không thèm để ý đến ông, gọi :
-Tiểu
sa di.
-Dạ
!
-Chú
đi đổ thêm nước vào tịnh bình.
Rất
lâu Đạo Ngô mới hỏi lại Thạch Sương :
-Ông
vừa hỏi gì ?
Thạch
Sương vừa định hỏi lại thì Đạo Ngô bèn bỏ ra đi. Thạch
Sương có chút tỉnh ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Đạo Ngô không dùng lời nói, chỉ hiện thân thuyết pháp, dùng hành vi cử chỉ khiến Khánh Chư mắt chạm tới đâu thì đó là Bồ Đề, là Đạo.
1960.- Không nói cũng đánh.
Đức
Sơn Tuyên Giám trong một pháp hội nói :
-Đối
với Phật pháp mà nói, các ông muốn hỏi là sai, còn như
không hỏi thì dĩ nhiên là đã sai rồi.
Lúc
đó có một ông tăng bước ra lạy, Đức Sơn bèn đánh. Ông
tăng này thưa :
-Con
vừa mới lạy, chưa nói gì cả, sao thầy lại đánh ?
-Nếu
đợi ông mở miệng là đã sai lầm rồi, thì còn làm gì được
nữa.
(Tứ Lý Thiền)
Đối với Thiền nghĩ về nó không đúng. Không nghĩ về nó cũng không đúng, phản đối cũng không đúng. Nếu các ông không có đột phá mâu thuẫn này thì mới lãnh hội được diệu thú. Cũng giống như qua sông đứng ở bờ bên này không được phải lên thuyền từ từ mà qua, nhưng Thiền tông thì nói bờ bên này cũng lại là bờ bên kia.
1961.- Nơi đây không có chủ khách.
Có
ông tăng hỏi Giáp Sơn Thiện Hội :
-Con
phải làm sao mới có thể thành Phật ?
-Nơi
đây tôi không có quan hệ chủ khách.
-Vậy
bình thường thầy không giao tiếp với người nào sao ?
-Sao
lại không ? Bồ Tát Văn Thù xách nước cho tôi, Bồ Tát Phổ
Hiền hái hoa cho tôi, chỉ là họ chưa trở lại đây thôi.
(Tứ Lý Thiền)
Phàm thánh chỉ là tương đối, hỗ tương làm chủ khách. Không có phàm thì không có Phật, không có Phật thì không có phàm. Nếu đã không có chủ khách thì làm gì có Phật để nói ? Tôi là Bồ Tát, Bồ Tát là tôi do đó xách nước, hái hoa đều là tôi làm.
1962.- Ba năm không ăn.
Có
ông tăng hỏi Giáp Sơn Thiện Hội :
-Lịch
đại tổ sư đều giảng tổ ý, giáo ý, hòa thượng vì sao
lại nói không ?
-Bất
kể là 3 năm ông có ăn cơm hay không, nhưng hiện giờ ông
có đói bụng đâu ?
-Tuy
con không đói bụng nhưng sao con vẫn chưa hiểu
đạo lý này ?
-Đó
là vì ông cầu đạo, cầu ngộ, tự mình bị mê.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông không đẩy vấn đề về quá khứ hay vị lai mà giải quyết ngay trong hiện tại. Mê là chìm đắm trong quá khứ hay vị lai, ngộ là hiểu rành rọt ở hiện tại.
1963.- Cha mẹ ông ở dưới đám cỏ rậm.
Có
ông tăng hỏi Thạch Thất Thiện Đạo :
-Thầy
có tới Ngũ Đài Sơn không ?
-Tôi
có tới.
-Thầy
có gập Bồ Tát Văn Thù không ?
-Tôi
có gập.
Ông
tăng rất khích động hỏi :
-Bồ
Tát Văn Thù nói gì với thầy ? Có dạy phép kỳ diệu gì
không ?
-Bồ
Tát Văn Thù bảo tôi : Cha mẹ ông đều nằm ở dưới đám
cỏ rậm.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông vốn phản đối thần kỳ, nhận rằng đạo là bình thường. Vì vậy đối với Phật, Bồ Tát đều đem tâm bình thường mà đối đãi, không chút tham luyến nào . (Xem thêm công án 1201)
1964.- Mắt không chứa bột vàng.
La
Hán Quế Khâm hỏi một ông tăng mới đến :
-Ông
từ đâu tới ?
-Tôi
từ phương Nam lại.
Huyền
Sa Sư Bị (sư phụ của La Hán Quế Khâm) hỏi :
-Ở
đó các lão hòa thượng dạy đại chúng ra sao ?
-Họ
dạy rằng : “Bột vàng tuy quý nhưng vào mắt thì sanh bệnh.
Quế
Khâm bảo :
-Chưa
chắc, cả ngọn núi Tu Di chẳng ở trong mắt ông sao ?
(Tứ Lý Thiền)
Tâm chúng ta không có gì cả thì có thể chứa đựng tất cả mọi vật, điều đáng chú ý là đừng đứng ở một mặt. Nói có là một mặt, nói không lại là một mặt khác. Nuốt trọn vũ trụ cố nhiên là được chân lý, nhưng nếu chấp vào chân lý thì chân lý sẽ trở thành một cái bao. Cảnh giới Thiền khiến người ta khó lòng nắm bắt . (Xem thêm công án 483)
1965.- Một câu của La Hán.
Có
ông tăng hỏi La Hán Quế Khâm :
-Thế
nào là một câu của La Hán ? (Làm sao dùng một câu nói có
thể diễn tả toàn bộ lão sư ?)
-Nếu
tôi nói ra thì đã thành 2 câu rồi . (Cái “ngã” biểu thị
và cái “ngã” bản thân chẳng phải là 2 đó sao ?)
(Tứ Lý Thiền)
Hình
tôi trong gương đối với tôi không khác nhưng không phải
là tôi, bóng trăng dưới nước không phải là mặt trăng trên
trời.
(Xem
thêm công án 257)
1966.- Không lìa phòng này.
Đạo
Ngô Tông Trí tham học với Dược Sơn Duy Nghiễm, được pháp
rồi định đi. Một hôm Dược Sơn hỏi :
-Ông
định đi đâu ?
-Con
định đi chơi núi.
-Ông
không được rời phòng này, hãy trả lời mau.
-Con
giống như con quạ đầu bạc trắng như tuyết trên núi, như
cá lội tung tăng dưới suối.
(Tứ Lý Thiền)
Không rời phòng này là không ly khai tự kỷ. Cái gì là tự kỷ của Đạo Ngô ? là quạ trên núi ? là cá trong suối ? Đương nhiên còn nhiều sự vật khác nữa. Bất kể là trời, người hợp nhất hoặc thiên địa vạn vật nhất thể, lìa khỏi cảnh giới mà Đạo Ngô đã nói thì còn cảnh giới nào nữa không ? (Xem thêm công án 1269)
1967.- Tay không đến, tay không về.
Khi
Tuyết Phong Nghĩa Tồn ở Phúc Châu khai đường thuyết pháp,
có một ông tăng hỏi :
-Khi
trước thầy ở nơi Đức Sơn nhận được pháp gì mà về
?
-Tôi
tay không đến, về tay không.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông nhận định rằng : Đạo sản sanh ra mọi sự mọi vật, Đạo vốn là không, Tâm và Đạo cũng là một. Đối với một vấn đề nếu không hiểu tâm cũng không thiếu gì, nếu hiểu tâm cũng không thêm được một cái gì. Do đó Tuyết Phong nói :”Tôi đến tay không, về tay không”. (Xem thêm công án 760)
1968.- Thạch Đầu rút dao.
Thạch
Thất Thiện Đạo khi tham học với Thạch Đầu Hi Thiên, một
hôm theo Thạch Đầu lên núi chơi, Thạch Đầu bảo :
-Ông
hãy chặt cái cây đằng trước che mất thị nhãn của chúng
ta.
Thạch
Đầu rút dao mang theo hướng mũi dao về phía Thạch Thất.
-Thiền
sư sao đưa con đầu này, đầu kia chứ !
-Ông
dùng đầu kia làm gì ?
Thạch
Thất hoát nhiên đại ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Các
vị thiền sư cao minh, nhất cử nhất động đều hàm chứa
thiền cơ. Người bình thường quen dùng đầu kia (cán dao),
không biết đến đầu này (lưỡi dao), chỉ biết khách thể
mà không biết đến chủ thể, thường bị sắc, thanh, hương
v . v. dẫn dắt đi mà sinh ra vui, buồn, khổ v . v . làm
sao có thể làm chủ được vui buồn ? Hãy thử bỏ đầu kia
xuống và dùng thử đầu này.
(Xem
thêm công án 1013)
1969.- Ra cửa liền là cỏ.
Có
ông tăng đem lời của Động Sơn “Làm sao đi tới nơi vạn
dậm không tấc cỏ ?” thuật lại cho Thạch Sương Khánh Chư
nghe. Thạch Sương bảo :
-Ra
cửa liền là cỏ.
(Tứ Lý Thiền)
Cỏ dụ cho vọng niệm, phiền não. Chúng ta làm sao trong hoàn cảnh phức tạp không khởi vọng niệm, phiền não ? Câu trả lời của Thạch Sương là không trốn tránh hoàn cảnh phức tạp gây ra vọng niệm, phiền não, mà là trong hoàn cảnh phức tạp không khởi vọng niệm phiền não. (Xem thêm công án 668)
1970.- Cái này là cái gì.
Thạch
sương Khánh Chư khi mới tham học với Quy Sơn Linh Hựu giữ
chức Thủ kho. Một hôm đang đong gạo, Quy Sơn đến coi bảo
:
-Ông
đừng làm hao tổn gạo cúng dường của thí chủ.
-Con
biết rồi, không dám làm hao đâu .
Quy
Sơn nhặt một hạt gạo vương trên đất, đưa ra hỏi :
-Ông
bảo không làm hao, vậy cái này là cái gì ?
Thạch
Sương im, không trả lời được.
(Tứ Lý Thiền)
Công
án này biểu thị đối với một sự, một vật phải hết
sức trân trọng, nhưng điểm chính là câu hỏi là cái gì
? Đối với bất cứ vật gì, sự gì đều có mối liên hệ
“vật-ngã”, là cái gì ? là ngã ? là vật ? là phi ngã ?
phi vật ? Trong đó có linh cảm của Thiền.
(Xem
thêm công án 1042)
1971.- Quán Âm ngàn mắt.
Đạo
Ngô hỏi Vân Nham :
-Quán
Âm ngàn mắt, ngàn tay ông coi mắt nào là chánh ?
-Thì
cũng như một người ngủ, đèn tắt lấy tay sờ cái gối
đầu.
-Tôi
rõ ý ông rồi.
-Còn
sư huynh thì sao ?
-Lúc
đó, người ấy toàn thân đều là mắt.
(Tứ Lý Thiền)
Trong
sinh hoạt, trong công tác thứ nhất không nên phàn nàn điều
kiện ngoại cảnh, thứ 2 không nhận rằng mình không có năng
lực. Không biết rằng nội tại và ngoại tại là một thể.
Không có đèn thì dùng tay sờ, điều cốt yếu là làm sao
phát huy được tiềm năng để khắc phục khó khăn bên ngoài.
(Xem
thêm công án 185)
1972.- Học được pháp nào ?
Đầu
Tử Đại Đồng hỏi Thúy Vi Vô Học :
-Con
không biết nhị tổ khi gập tổ Đạt Ma học được pháp
nào ?
Thúy
Vi hỏi ngược lại :
-Nay
ông gập tôi, ông học được pháp nào ?
Đầu
Tử ngay đó lãnh ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Pháp vốn không pháp. Phật pháp chân chánh không có nội dung nào cả, đồng thời lại bao hàm nội dung của vũ trụ. Nhị tổ gập tổ Đạt Ma chả nhận được pháp nào cả, nhưng lãnh ngộ được vô thượng pháp. Công án này diễn tả pháp không có pháp cố định, sau đó sẽ hiểu phi pháp. Các ông có nghĩ tới pháp không pháp chăng ?
1973.- Long Thọ.
Long
Thọ là tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. Có một lần
tổ thứ 13 là Ca Tì Ma La đến thăm Long Vương và được tặng
một báu vật. Long Thọ hỏi :
-Báu
vật này quý nhất thế gian, nó hữu hình hay vô hình ?
-Ông
chỉ hiểu hữu hình và vô hình chứ ông không hiểu báu vật
này không hữu hình cũng không vô hình và báu vật này cũng
không phải là báu vật.
Nghe
lời này Long Thọ đại ngộ.
(Zen Light)
Công án này đề cập tới tự tánh. Đức Phật có kể một câu chuyện 2 người bạn gập nhau ở một quán trọ : một người là phú ông, một người nghèo nàn. Phú ông muốn cho bạn một sự kinh ngạc, nửa đêm ông lấy ra một viên ngọc khâu vào bâu áo của người bạn nghèo, định bụng sáng ra sẽ cho bạn biết. Sáng hôm sau khi phú ông tỉnh dậy thì người bạn nghèo đã đi rồi. Ông cũng lên đường đi về một hướng khác. Ít lâu sau người bạn nghèo gập nhiều khó khăn, có đêm đi ngủ mà bụng đói cồn cào, ông ta chỉ ao ước có một chút gì để đút vào bụng. Nhiều năm trôi qua, tình cờ 2 người bạn lại gập lại nhau. Phú ông bèn kể cho bạn biết mình đã làm gì đêm ấy. Người bạn nghèo ngạc nhiên, và khi rạch bâu áo ra ông ta mừng rỡ tìm thấy viên ngọc. Ông ta mang viên ngọc quý này trải qua bao ngày đói khổ và thất vọng. Chúng ta cũng vậy, không cần phải ước một điều gì vì điều ước đã được thực hiện. Viên ngọc chính là chân ngã đã có sẵn trong ta.
1974.- Bỏ đi thì không tốt.
Đạo
Ngô Tông Trí sắp viên tịch bảo chúng đệ tử :
-Trong
tâm tôi có một vật thường gây ra bệnh làm tôi không được
thoải mái. Có người nào có thể trừ nó đi cho tôi không
?
Thạch
Sương (đệ tử của Đạo Ngô) thủ tọa thưa :
-Tâm
và vật trong tâm sư phụ đều không tốt, nhưng nếu trừ
chúng đi thì cũng không tốt.
-Kiến
giải của ông đã vượt quá người thường. Lành thay ! Lành
thay !
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông nhận rằng vọng tưởng là không tốt, nhưng có ý tưởng trừ vọng tưởng thì ý niệm đó cũng là vọng tưởng nốt, bởi vì đối với Thiền tông thì thiện và ác là một. Đối diện với thiện hoặc ác tâm ta không động, cứ để tùy duyên thì mới được tự do chân chánh. Nếu thấy thiện thì mừng, thấy ác thì giận : đó không phải là cảnh giới thiền. Nhưng thấy thiện không mừng, thấy ác không giận cũng không phải là cảnh giới thiền. Cảnh giới thiền là phải vượt lên cả hai loại tình huống này.
1975.- Bất sinh bất diệt.
Vân
Nham Đàm Thạnh có lần bị bệnh rất nghiêm trọng. Đạo
Ngô Tông Trí đến thăm, hỏi :
-Nếu
như lão đệ bỏ cái túi da thối này, về sau chúng ta sẽ
gập nhau ở đâu ?
-Chúng
ta sẽ gập nhau ở chỗ không sanh, không diệt.
-Câu
đáp của lão đệ chưa được đầy đủ lắm, tại sao không
nói chúng ta sẽ gập nhau tại nơi phi bất sanh, bất diệt
? Hơn nữa, chúng ta đâu cần gập nhau ?
(Tứ Lý Thiền)
Sản
vật do vũ trụ sanh ra sẽ quay trở về vũ trụ. Ở hiện
tượng giới thấy có quá trình sanh diệt, nhưng ở bản thân
vũ trụ mà coi thì chỉ là một thể hai mặt. Đối với vũ
trụ thì không có sanh diệt.
(Xem
thêm công án 234)
1976.- Siêu Phật, vượt tổ.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển :
-Xin
hỏi thầy thế nào là cảnh giới siêu Phật, vượt tổ ?
-Bánh
hồ.
(Tứ Lý Thiền)
Cảnh
giới cao siêu nhất lại là cảnh giới đơn giản nhất, cảnh
giới xa xôi nhất lại là cảnh giới gần ngay bên cạnh.
(Xem
thêm công án 160)
1977.- Phật cũng là bụi.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển :
-Con
đang quét bụi bỗng gập Phật thì phải làm sao ?
-Thì
ông coi Phật cũng là bụi, phải quét đi.
(Tứ Lý Thiền)
Bụi chỉ cho phiền não, đang quét bụi là chỉ đang tu hành. Kinh Kim Cương nói : Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai. Khi ông đang ở giai đoạn “kiến” là có một loại nhận thức nào đó thì theo Thiền tông tất cả đều là bụi, là phiền não, là cái thấy điên đảo phải quét đi hết. (Xem thêm công án 1247)
1978.- Nhất đại tạng giáo.
Một
hôm đại chúng đều đi phổ thỉnh kiếm củi. Vân Môn Văn
Yển giơ 1 thanh củi lên rồi ném xuống đất, bảo :
-Toàn
bộ kinh Phật chỉ là nói đạo lý này !
(Tứ Lý Thiền)
Toàn bộ giáo điển, sách vở của tất cả các thư viện trên toàn thế giới nói về vấn đề gì ? Tất cả đều nói về con người. Dù nói trời nói đất thì cũng chỉ để chứng minh con người là thế nào.
1979.- Phật tánh của hòa thượng.
Có
ông tăng hỏi Thành Đô Ứng Thiên :
-Ai
cũng có Phật tánh, còn Phật tánh của hòa thượng thì thế
nào ?
-Ông
gọi cái gì là Phật tánh ?
-Vậy
là hòa thượng không có Phật tánh ?
-Chính
là vậy, tôi khoái quá.
(Tứ Lý Thiền)
Kinh Kim Cương nói Phật pháp tức phi Phật pháp thì mới là Phật pháp. Chân lý là để cho mọi người được tự do chứ không phải là để bó buộc mọi người.
1980.- Như mọt gập gỗ.
Quy
Sơn Linh Hựu cùng Bách Trượng lên núi lao động. Bách Trượng
hỏi :
-Ông
có mang theo lửa không ?
-Dạ
! Có mang theo.
-Ông
để ở đâu ?
Quy
Sơn nhặt một thanh củi lên thổi phù phù vào đó, rồi đưa
cho Bách Trượng. Bách Trượng bảo :
-Giống
như mọt gập gỗ.
(Tứ
Lý Thiền)
Những lời nói và cử chỉ của cặp tình nhân chỉ có họ mới hiểu, còn người ngoài thì vô phương.
1981.- Đã lâu không mưa.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển :
-Xin
hỏi thiền sư thế nào là Ý tổ sư từ Tây sang ?
-Giống
như trời khô ráo, đã lâu không mưa.
(Tứ Lý Thiền)
Đã lâu không mưa, cây cỏ đều khô héo. Chúng ta phải quét đi những tạp thảo, cành khô và ngay cả hoa còn tươi. Như vậy thì còn gì ? Phần lớn cho rằng cỏ độc bỏ đi là phải rồi, nhưng hoa tươi thì nên để lại. Nhưng theo Thiền tông nếu đã trừ thì phải trừ hết thì mới có thể thấy được khuôn mặt xưa nay. Cho nên đến cuối cùng Phật cũng phải trừ nốt.
1982.- Mặt trời chiếu sáng núi.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển :
-Thế
nào là ý Tổ sư từ Tây sang ?
-Ông
có thấy mặt trời chiếu sáng ngọn núi kia không ?
(Tứ Lý Thiền)
Vũ trụ vạn vật tồn tại một cách khách quan, chẳng vì những nhận thức chủ quan của chúng ta mà biến đổi. Mục đích của Thiền là từ nhận thức của chúng ta hoàn trả lại bản tướng của vũ trụ. Bản thân của vũ trụ không vì những nhận thức này mà thay đổi. Mặt trời chiếu sáng núi thật rành rọt, còn chưa đủ rõ sao, mà còn hỏi ?
1983.- Gia phong của Vân Môn.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển :
-Thế
nào là gia phong của hòa thượng ?
-Nếu
có vị tú tài nào đến thì ông báo cho tôi biết.
(Tứ Lý Thiền)
Để
giải thích cho một người thế nào là hướng Nam thay vì dài
dòng kể lể chúng ta chỉ cho người ấy hướng Bắc đối
nghịch thì người ấy hiểu ngay. Vậy Vân Môn chỉ Nam hay
chỉ Bắc ?
(Xem
thêm công án 657)
1984.- Que cứt khô.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển :
-Phật
là thế nào ?
-Que
cứt khô.
(Tứ Lý Thiền)
Que cứt khô (dùng như giấy vệ sinh ngày nay) chắc chẳng ai thèm, do đó không khởi nên sự tranh chấp để chiếm hữu. Nếu có thể dùng cái tâm này để đối đãi với vạn vật thì đó chẳng phải là tâm Bồ Tát sao ? (Xem thêm công án 199)
1985.- Ngày nào cũng là ngày đẹp trời.
Vân
Môn Văn Yển bảo đại chúng :
-Trước
ngày 15 tôi không hỏi các ông, còn sau ngày 15 ai trả lời
được ?
Mọi
người không trả lời được, do đó Vân Môn tự đáp :
-Ngày
nào cũng là ngày đẹp trời.
(Tứ Lý Thiền)
Chuyện lúc trước không ai có thể làm được, chuyện lúc sau cũng không ai có thể làm được, chuyện có thể làm được là chính lúc này. (Xem thêm công án 982)
1986.- Người không mắt.
Có
người hỏi Đầu Tử Đại Đồng :
-Người
không có mắt làm sao bước tới ?
-Ông
ta đi khắp mười phương.
-Đã
không có mắt làm sao đi khắp mười phương được ?
-Lại
còn cần có mắt sao ?
(Tứ Lý Thiền)
Chân lý tuyệt đối phải dùng phương pháp tuyệt đối, dùng xe hơi không thể chu du khắp thái dương hệ.
1987.- Ông muốn bị tạt một chậu nước bẩn nữa sao ?
Đầu
Tử Đại Đồng hỏi Thúy Vi Vô Học :
-Ý
tổ sư từ Tây sang là sao ? Xin hòa thượng giảng cho hậu
nhân.
Thúy
Vi đang đi, dừng bước bất động. Đầu Tử nhắc lại :
-Xin
hòa thượng nói cho con rõ.
-Chẳng
lẽ tôi lại tạt cho ông một chậu nước bẩn nữa ?
Đầu
Tử ngay đó lãnh ngộ, liền lạy tạ.
(Tứ Lý Thiền)
Ý tổ sư là rượu ngon, cũng là nước bẩn, là Thiền cơ thâm thúy cũng là vô vị bình thường. Vì vậy có vị thiền sư đã nói tổ sư từ Tây sang chẳng có ý gì cả, nhưng lãnh hội được ý này rất khó vậy.
1988.- Tượng Phật chưa đúc thành.
Có
ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng :
-Khi
tượng Phật chưa đúc thành, tượng Phật ở đâu ?
-Ông
đừng làm gì cả.
(Tứ Lý Thiền)
Ý ông tăng là khi đang tu hành thì tự tánh ở đâu ? Đầu Tử bảo không làm gì cả, tự tánh chính ở nơi đó.
1989.- Trời tối quá.
Đức
Sơn tham phỏng Long Đàm tới khuya. Long Đàm dục Đức Sơn
đi về, Đức Sơn bước ra thấy trời tối bèn quay lại thưa
:
-Trời
tối quá !
Long
Đàm thắp đèn đưa cho Đức Sơn, Đức Sơn vừa giơ tay nhận,
Long Đàm bèn thổi đèn tắt ngóm. Đức Sơn hoát nhiên đại
ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Trong sinh hoạt hàng ngày có thể từ những sự việc bình thường mà có thể thân thiết lãnh hội thiền ý, thì sự lãnh hội này còn thật hơn là do sự suy luận. Cũng như người chỉ học lý thuyết bơi lội chưa chắc đã dám xuống sông bơi lội như những đứa trẻ nhà quê bơi lội chỉ nhờ kinh nghiệm.
1990.- Phương tiện của cổ nhân.
Văn
Ích thiền sư được tăng tục suy cử làm phương trượng
Cửu Giang Sùng Thọ Viện. Khi khai đường thuyết pháp, Thủ
tọa thưa :
-Tăng,
tục mọi người đều đến cả rồi, thỉnh phương trượng
thuyết pháp cho đại chúng.
Văn
Ích đứng dậy im lặng hồi lâu :
-Đại
chúng đã tụ tập nơi đây, tôi không thể không nói vài lời
diễn thị phương tiện truyền giáo của lịch đại chư tổ
sư, đại chúng hãy lưu tâm.
Nói
rồi rời khỏi pháp đường.
(Tứ Lý Thiền)
Vạn sự, vạn vật đều hàm chứa ảo bí của vũ trụ. Ngôn ngữ chỉ là phương tiện để truyền thông của con người. Sự vật có thể đi vào ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ không tiến vào được sự vật.
1991.- Một giọt nước Tào Khê
Một
hôm Pháp Nhãn thượng đường thuyết pháp, có một ông tăng
bước ra hỏi:
-Xin
hỏi hòa thượng thế nào là một giọt nuớc Tào Khê?
(Hòa
thượng có thể dùng một tỷ dụ đơn giản mà diễn tả
toàn bộ chân lý của phật pháp không?)
-Là
một giọt nước Tào Khê!
Ông
tăng không hiểu thối lui, Đức Thiệu đang ngồi ở đấy
bỗng nhiên đại ngộ.
(Tứ
Lý Thiền)
Cổ
triết có nói một giọt nước phản ánh cả Thái Dương. Câu nói này và tắc công án trên là dị khúc đồng công. Chỗ bất đồng là câu nói trên khiến người ta có thể dùng
trí mà lý giải nhưng ở thiền tông thì phải dùng tất cả
tinh thần và sinh mạng để lãnh hội. Đây là phương
pháp giáo dục của Pháp Nhãn Tông, tại cùng một câu nói
lật qua lật lại tìm ra cái ảo diệu vô cùng.
(xem
thêm công án 672)
1992.- Núi Tu Di
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển:
-Khi
tu hành đạt tới cảnh giới không khởi một niệm thì có
sai không ?
-Núi
Tu Di. (sai, lớn như núi Tu Di).
(Tứ
Lý Thiền)
Thiền tông cho rằng không khởi một niệm là đại bệnh. Bình thường người đang bị phiền não thì cần được giải thoát, nhưng người cứ trú ở trong cảnh thanh tịnh thiếu động lực hướng thượng. Phiền não và trí tuệ không thể phân ra. Không khởi một niệm là tuyệt duyên phiền não nhưng đồng thời cũng tuyệt duyên trí tuệ, đánh mất trách nhiệm đối với thế giới, tâm như gỗ đá thì có ích lợi gì?
1993.- Dùng lưỡi kiếm mà giải quyết.
Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch đang nằm nghỉ trên thiền sàng, một ông tăng
hỏi:
-Pháp
thân có thể lý giải những lời Phật nói hay không?
-Câu
hỏi này của ông tôi không trả lời được, nhưng có một
người có thể trả lời được.
-Người
ấy ở đâu?
Ngưỡng
Sơn lấy cái gối đầu đưa ra trước mặt ông tăng. Quy Sơn
(sư phụ của Ngưỡng Sơn) nghe được chuyện này, bảo:
-Gã
tiểu quỷ Huệ Tịch này đã dùng gươm báu mà biện sự.
(Tứ
Lý Thiền)
Vạn sự, vạn vật đều hàm chứa ảo bí của vũ trụ. Ngôn ngữ chỉ là phương tiện để truyền thông của con người. Sự vật có thể đi vào ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ không tiến vào được sự vật
1994.- Huyền Sa cứu hỏa.
Có
một lần Tuyết Phong Nghĩa Tồn ở tăng đường đóng chặt
cửa trước và cửa sau. Sau đó kêu lên :
-Cứu
hỏa ! Cứu hỏa ! Mau lại cứu hỏa !
Chư
tăng không biết phải làm sao. Cửa lại đóng không làm sao
vào được. Lúc đó Huyền Sa Sư Bị bèn ném qua cửa sổ một
thanh củi. Tuyết Phong mở cửa đi ra.
(Tứ Lý Thiền)
Đây
là một màn kịch do Tuyết Phong độc diễn. Đóng cửa là
chỉ tinh thần không ra ngoài, đốt lửa là chỉ sự quang minh
của tinh thần. Kêu cứu hỏa là để khảo nghiệm đại chúng.
Huyền Sa thêm củi vào lửa nên về sau được Tuyết Phong
truyền y bát.
(Xem
thêm công án 1007)
1995.- Chặt giun thành hai mảnh.
Thời
mạt Đường có ông tăng hỏi Diên Khánh Pháp Đoan :
-Một
con giun bị chặt thành hai, cả hai đầu đều ngọ nguậy,
không biết Phật tánh ở đầu nào ?
Diên
Khánh dang hai tay ra.
(Tứ Lý Thiền)
Diên
Khánh không nói mà nói. Ý ông là 2 tay tôi đang vẫy, Phật
tánh ở tay phải hay ở tay trái, hay ở giữa ? Đây là
một công án rất khéo. Về sau Động Sơn xem đoạn công án
này nói :
-Ông
tăng đặt câu hỏi không biết ở đầu nào của con giun ?
(Xem
thêm các công án 1054 và 1242)
1996.- Ẩn thân ở sao Bắc Đẩu.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển :
-Xin
hỏi thầy làm sao có thể dùng lời mà diễn tả pháp thân
?
-Ông
hãy ẩn thân ở sao Bắc Đẩu.
(Tứ Lý Thiền)
Pháp thân là cảnh giới tối cao của Phật giáo, cũng gọi là Niết Bàn, là trở về với bản nguyên của vũ trụ. Ông là vũ trụ, vũ trụ là ông, ông có thể diễn tả ra không ? Câu đáp của Vân Môn là dùng cách phản diện, ông có thể trốn ở sao Bắc Đẩu chứ ? Chắc là không rồi !
1997.- Không có pháp nào cả.
Tuyết
Phong Nghĩa Tồn hỏi Đức Sơn Tuyên Giám :
-Lịch
đại tổ sư truyền vô thượng Phật pháp, không biết con
có tư cách học không ?
Đức
Sơn nện cho ông một gậy :
-Ông
nói cái gì ?
-Con
vẫn chưa hiểu !
Ngày
hôm sau Tuyết Phong lập lại câu hỏi. Đức Sơn nói :
-Thiền
tông không dùng lời, thật không có một pháp nào truyền cho
người.
Tuyết
Phong có chút lãnh ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Chữ “không” của Phật giáo có thể dùng lý luận mà hiểu được, nhưng khế hợp nó với sinh hoạt hàng ngày thì rất khó. Đức Sơn dùng gậy đánh là có mục đích gì ? Là để trừ đi những lý luận và giáo điều đầy trong óc Tuyết Phong khiến Tuyết Phong không hiểu được chân lý trong kinh Phật không phải ở bên ngoài, cũng không phải ở trong kinh mà là ở chính trong tâm mình.
1998.- Phật giới dùng làm gì ?
Dược
Sơn hỏi Cao sa di :
-Ông
định đi đâu ?
-Con
định đi thọ giới.
-Thọ
giới để làm gì ?
-Để
miễn sanh tử.
-Có
người không thọ giới, cũng không có sanh tử để miễn,
ông có biết không ?
-Nếu
đã đạt tới cảnh giới này thì giới của Phật còn dùng
làm gì ?
Dược
Sơn bảo đại đệ tử Đạo Ngộ :
-Chớ
coi thường chú sa di thọt này, chú ta rất có khí chất.
(Tứ Lý Thiền)
Giới luật chỉ là phương tiện không phải là mục đích. Người tu hành tới một thành quả nào đó sẽ có những hành vi do nội tại chứ không phải do ngoại tại bắt buộc. Trong xã hội có nhiều quy luật phải giữ. Có người đối với những quy luật này thấy là mất tự do, có người lại cho là tự do. Vậy đạo lý ở đâu ?
1999.- Dong chiếc thuyền nhẹ tới Dương Châu.
Có
ông tăng hỏi Tuyết Phong Nghĩa Tồn :
-Xin
hỏi thiền sư khi tu hành đạt tới cảnh giới an tĩnh, không
khởi một tạp niệm nào thì đó là đúng hay là sai ?
-Đó
là bệnh.
-Nếu
chuyển cảnh thì sao ?
-Nếu
là thế thì như lên một chiếc thuyền nhẹ, theo dòng tới
Dương Châu, có thể ngắm cảnh đẹp hai bên bờ sông một
cách thích thú.
(Tứ Lý Thiền)
An
tĩnh là cảnh giới mà mọi người muốn đạt được. An tĩnh
là một phương diện, động cũng là một phương diện. Phải
đạt tới cảnh giới động mà không động, tĩnh mà không
tĩnh. Trong động có tĩnh, trong tĩnh có động thì mới biết
thế nào là Thiền.
(Xem
thêm công án 1992)
2000.- Tuyết Phong sàng gạo.
Tuyết
Phong Nghĩa Tồn khi tham học với Động Sơn Lương Giới làm
phạn đầu. Có một lần đang sàng gạo. Động Sơn hỏi :
-Ông
sàng gạo bỏ cát hay sàng cát bỏ gạo ?
-Gạo
và cát đều bỏ !
(Tứ Lý Thiền)
Thiền
tông có câu “Lâm cơ chẳng nhượng thầy”, trong thiền cảnh
thầy trò đều bình đẳng. Trong đối thoại của họ người
tuốt kiếm kẻ trương cung không ai nhường ai. Đãi gạo bỏ
cát hay đãi cát bỏ gạo ? Gạo là vật có ích có thể ăn,
cát thì không. Nhưng Tuyết Phong nói gạo và cát đều bỏ,
vật có ích và vô ích đều không bó buộc được ông. Ông
đã tới cảnh giới hữu dụng và vô dụng là một thể, là
cái mà Thiền tông gọi là diệu dụng.
(Xem
thêm công án 624)
2001.- Hôm nay mùng ba.
Vân
Ưng Đạo Cư sắp viên tịch, hỏi thị giả :
-Hôm
nay là mùng mấy ?
-Dạ
! Mùng ba.
-Ba
mươi năm sau ông cũng nên nói như vậy !
Rứt
lời liền viên tịch.
(Tứ Lý Thiền)
2 cộng 2 là 4, tôi ngắm hoa, nghe nhạc rất là tự nhiên không kèm lẫn một tạp niệm nào. Đó là cái mà Thiền tông gọi là tâm bình thường. Ông phải gìn giữ cái tâm này không thêm mắm giặm muối gì cả. Vân Cư lúc sắp mất cũng không quên chỉ điểm cảnh giới này cho thị giả. Không cần biết thị giả có hiểu không, điều cần thiết là ông có hiểu không ?
2002.- Tài khéo của Tào Sơn.
Một
ông tăng tới Tào Sơn Bản Tịch tham học, ông thưa :
-Con
có đem một khối ngọc tới, thỉnh thầy điêu khắc.
-Tôi
không khắc.
-Vì
sao thầy không khắc ?
-Để
biểu thị tài năng tuyệt vời của tôi .
(Tứ Lý Thiền)
Giáo dục cao minh không phải là dạy sao cho trò hiểu mà là làm sao cho trò tự tìm hiểu. Muốn no bụng thì tự mình phải ăn, bụng của thầy không giúp gì được cả.
2003.- Sanh tử tới.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn Văn Yển :
-Khi
sanh tử tới, làm sao để tránh khỏi ?
Vân
Môn dang hai tay ra :
-Ông
mang sanh tử ra trao cho tôi.
(Tứ Lý Thiền)
Người học Phật là để giải thoát sanh tử đạt tới tự do. Nhưng cái tự do này làm sao có thể đạt được ? Giải thoát sanh tử không phải là đứng ngoài sanh tử mà là trong sanh tử đạt được giải thoát.
2004.- Giơ lên , hạ xuống.
Vân
Môn Văn Yển hỏi một ông tăng :
-Cổ
nhân đối với ông tăng mới đến, giơ phất tử lên rồi
hạ phất tử xuống là có ý gì ?
-Khi
giơ lên ý tưởng rõ ràng, khi hạ xuống ý tưởng cũng rõ
ràng.
-Đúng
thế ! Đúng thế !
(Tứ Lý Thiền)
Công án này là thiền cơ rất bình thường, nhưng hàm ý sâu sa. Thiền tông nhận rằng giơ phất tử lên, hạ phất tử xuống vốn không có ý tưởng gì, nhưng mỗi cử động là để khảo hạch xem học nhân phản ứng thế nào (hoặc suy nghĩ, hoặc tảng lờ v .v .). Nếu có phản ứng thì ông đã qua được cửa rồi.
2005.- Cao tăng ở đâu ?
Bùi
Hưu trỏ bức tranh treo trên tường hỏi Hoàng Bá :
-Hình
ở đây còn cao tăng ở đâu ?
Hoàng
Bá gọi :
-Bùi
Hưu.
-Dạ
!
-Ông
ở đâu ?
Bùi
Hưu do đó có chỗ ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Đây là một công án rất đặc sắc, nó đề thị cho chúng ta mối quan hệ giữa cái “ngã vật chất” và cái “ngã tinh thần”. Trang Tử có nói :”Trong ngũ tạng, lục phủ, xương thịt, ai là chủ nhân ? Nói lên một bậc :”Ai là chủ nhân của tinh thần?” Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày mọi cử động đều không lìa “ngã”, nhưng mấy ai đã hiểu rõ cái “ngã” này ? Hoàng Bá gọi tên Bùi Hưu khiến chân ngã của Bùi Hưu từ trăm ngàn cái ngã mà nhẩy ra. Sự thể hội này rất linh động, trực tiếp, mãnh liệt dùng lý luận khó mà đạt được.
2006.- Đại dụng hiện tiền.
Vân
Môn Văn Yển trong một pháp hội bảo đại chúng :
-Khi
đại dụng hiện tiền thì không có vết tích.
(Tứ Lý Thiền)
Chỉ có vô không có tánh chất cố định, pháp tắc, quy luật mới có thể biểu hiện pháp tắc, quy luật của mọi hiện tượng trong vũ trụ. Lão Tử nói: Vạn vật trong trời đất sinh ra ở Hữu, Hữu sinh ra ở Vô. Thích Ca Mâu Ni thì nói :Pháp vốn là pháp không pháp. Đều là chỉ đạo lý này. Nếu có một pháp tắc, quy luật có thể tìm ra được thì đó là cục bộ, giới hạn, không phải là đại dụng của vũ trụ.
2007.- Chốt tre.
Thù
Du là đệ tử của Nam Tuyền Phổ Nguyện, một lần khai đường
thuyết pháp giơ một cái chốt tre lên hỏi đại chúng :
-Có
ai trong các ông có thể đóng cái chốt tre này vào hư không
chăng ?
Một
ông tăng bước ra thưa :
-Hư
không
cũng là cái chốt tre.
(Tứ Lý Thiền)
Tư tưởng con người là hư không, nếu không làm sao dung nạp được vạn sự, vạn vật chứ ? Tư tưởng là chốt tre nếu không làm sao có thể vào vạn vật ? Nhưng tư tưởng cũng là một con dao có thể giải phẫu vạn vật.
2008.- Một câu của Dược Sơn.
Dược
Sơn Duy Nghiễm có một lần thượng đường bảo đại chúng
:
-Tôi
có một bí quyết thành Phật chưa bảo cho ai biết.
Đạo
Ngô Tòng Trí bước ra :
-Sau
đó đã nói rồi.
Một
ông tăng hỏi :
-Bí
quyết của Dược Sơn làm sao nói ?
-Tôi
không dùng ngôn ngữ để nói cho ông nghe.
Đạo
Ngô hỏi :
-Sư
phụ đã chẳng dùng ngôn ngữ nói ra rồi đó sao ?
(Tứ Lý Thiền)
Nói là dùng lời, không nói là không dùng lời. Có khi chúng ta nghe lời nói thuyết minh mà hiểu đạo lý, có khi chúng ta không nghe lời nói mà cũng hiểu đạo lý. Sự hiện diện của vạn sự, vạn vật chẳng là đang thuyết minh cho chúng ta sự tồn tại của chúng sao ?
2009.- Mười phương thế giới là tâm ông.
Có
ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm :
-Tâm
con như thế nào ?
-Tâm
ông là mười phương thế giới.
-Nếu
tâm con rộng lớn như thế thì thân con ở đâu ?
-Ở
nơi thân ông ở.
(Tứ Lý Thiền)
Chúng ta nhận thức thế giới vật chất, đồng thời cũng nhận thức thế giới tinh thần. Có khi chúng ta thấy vật chất là tinh thần, có khi thấy tinh thần là vật chất. Nhưng đây chỉ là sự dỡn chơi của nhận thức. Chúng ta có khả năng thực sự chuyển vật chất thành tinh thần hoặc ngược lại không ? Thiền tông nhận định rằng có thể.
2010.- Phật pháp của Triệu Châu.
Triệu
Châu Tòng Thẩm có một lần khai đường thuyết pháp :
-Phật
pháp nơi đây nói khó nhưng kỳ thật là dễ, nói dễ nhưng
kỳ thật là khó. Ở nơi khác khó thấy nhưng dễ biết. Ở
nơi lão tăng thì dễ thấy nhưng khó biết. Nếu các ông hiểu
đạo lý này thì người thiên hạ không ai có thể làm khó
các ông.
(Tứ Lý Thiền)
Chuyện đời có khi biết dễ làm khó, có khi biết khó làm dễ. Có lúc biết trước làm sau, có khi làm trước biết sau. Tất cả đều tùy người, tùy sự. Biết và làm vốn là một, không thể phân ra khó dễ, trước sau. Cảnh giới Thiền là từ trong sự nhận thức những hiện tượng này mà vượt lên.
2011.- Gương đúc thành tượng.
Có
ông tăng hỏi Hoài Nhượng :
-Nếu
như lấy gương đồng để đúc tượng Phật, tác dụng soi
chiếu của gương đi đâu ?
Hoài
Nhượng hỏi ngược lại :
-Vậy
chớ tướng mạo của ông lúc nhỏ nay đâu ?
-Tại
sao gương biến thành tượng rồi lại mất đi tánh soi chiếu
?
-Tuy
không là gương nữa nhưng vạn vật có dạng thức nào là
dạng thức đó không che mắt nó được đâu.
(Tứ Lý Thiền)
Người nhận thức được vạn vật như chính nó mới tự mình trở về gốc được, còn người tinh thần bị nội dung của tinh thần nhiễu loạn thì làm sao phát huy được tiềm năng ?
2012.- Mài ngói thành gương.
Hoài
Nhượng hỏi Mã Tổ :
-Mài
ngói không thành gương, ông ngồi Thiền lại thành Phật sao
?
(Tứ Lý Thiền)
Mài ngói không thể làm thành gương, đó là chân lý. Phương pháp và mục đích phải ở trong cùng một hệ thống nếu không sẽ tạo ra hỗn loạn như không thể ăn sỏi đá cho no bụng được. Khi có một mục đích phải phấn đấu, các ông có kiểm tra kỹ lưỡng phương pháp thi hành không ?
2013.- Dỗ con nít khỏi khóc.
Có
một ông tăng hỏi Mã Tổ :
-Hòa
thượng vì sao nói tâm của phàm nhân tức là Phật ?
-Để
dỗ con nít khỏi khóc.
-Khi
trẻ không khóc nữa thì sao ?
-Vậy
thì đỡ phải phí công lo chuyện tâm và Phật làm gì.
-Ngoài
hai phương pháp trên, lão hòa thượng còn gì chỉ dạy ?
-Tôi
sẽ bảo : Đừng để cho một sự việc gì bó buộc được
mình.
-Khi
gập được một người như thế, hòa thượng bảo họ điều
gì ?
-Bảo
họ trực tiếp thể nghiệm đại đạo.
(Tứ Lý Thiền)
Hoàng
Bá nói tức tâm tức Phật, giống như trên đầu lại lắp
thêm một đầu. Phi tâm phi Phật giống như không có giây thừng
mà cũng tự trói mình. Không phải là tâm, không phải là vật
giống như rửa đất trong nước bùn.
Một
người đi ngoài nắng kinh ngạc chỉ bóng mình hỏi mọi người
:
-Đây
là bóng của ai ?
Khi
mây che mặt trời ông lại khóc :
-Sao
tôi lại không có bóng ?
2014.- Đức Sơn thượng đường.
Đức Sơn Tuyên Giám thượng đường bảo đại chúng :
-Các
ông nên biết phàm chuyện gì không liên quan đến mình thì
chớ tham cầu làm chi, dù có nắm giữ trong tay thì đó cũng
không phải là vật các ông muốn có. Nghe lời tôi hãy bỏ
nó xuống, cũng đừng lưu giữ trong tâm. Dần dần tâm sẽ
hư mà linh, không mà diệu.
(Tứ Lý Thiền)
Việc đời quá nhiều, đầu óc các ông cả ngày bị phiền nhiễu làm sao có thể hư linh và không diệu được ? Hãy để tâm các ông an tĩnh.
2015.- Một ngón tay thiền.
Đời
mạt Đường, Câu Chi hòa thượng trú ở một am cỏ ở Kim
Hoa Sơn để tu hành. Một hôm có một vị ni cô đến thăm,
đầu đội nón tre, tay cầm thiền trượng, nhiễu quanh thiền
sàng ba vòng, hỏi :
-Nếu
thầy nói có đạo lý tôi sẽ ngả nón.
Cô
nhắc lại 3 lần mà Câu Chi cũng không trả lời được bèn
bỏ đi. Câu Chi rất mắc cỡ. Không lâu có hòa thượng Thiên
Long tới, sư bèn thuật lại chuyện trên. Thiên Long giơ một
ngón tay lên, Câu Chi tức khắc khai ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Ni cô nhiễu quanh thiền sàng 3 vòng là có ý gì ? Kỳ thực rất đơn giản chỉ là cô muốn nói :”Tôi có thể đi, tôi có thể dừng, có thể nói”. Nhưng cái “có thể” này là cái gì và “tôi” lại là cái gì ? Nếu tôi đến đứng trước mặt một người và hỏi : Đây là ý gì ? Người đó không bảo tôi mắc bệnh điên mới là chuyện lạ. Các vị thiền sư thích mắc bệnh thần kinh này lại cũng thích hướng dẫn cho người ta mắc bệnh. Thiên Long giơ một ngón tay lên là đối chứng cho thuốc, lấy không đối không. Các ông nói coi một ngón tay này có ảo bí gì ? Không có. Chính vì thế nên mới trả lời được vấn đề không có vấn đề nêu ra, nhưng ở đây nó bao hàm ý tưởng : Tôi có thể giơ ngón tay lên cũng có thể rút ngón tay lại, tôi có thể thế này, tôi có thể thế kia v . v.. Các độc giả hãy ngẫm cho kỹ. (Xem thêm công án 1078)
2016.- Đường rêu.
Có
ông tăng hỏi Tâm Bình Nghĩa Trung :
-Trong
tông môn còn có đường nào dễ học lại thông đạt không
?
-Có,
nhưng đường này đầy rêu, trơn lắm !
-Thầy
nhắm coi con có thể đi được đường trơn đó hay không ?
-Đừng
dụng tâm, hãy xét mình cho kỹ đã !
(Tứ Lý Thiền)
Thiền có thể học, cũng không thể học. Học có thể đạt tới cảnh giới thiền, không học cũng có thể đạt tới cảnh giới thiền. Cái học này là bỏ xuống mọi tư duy, không học là chối bỏ mọi tư duy. Cảnh giới thiền luôn luôn tại trước mặt các ông. Bất luận ông đứng ở lập trường nào, nếu ông muốn nắm bắt nó điều trước hết là phải quên nó.
2017.- Chỗ quan trọng.
Có
ông tăng hỏi Tuyết Phong Nghĩa Tồn :
-Xin
thầy chỉ cho con chỗ quan trọng nhất để tu hành.
-Là
cái gì ?
Ông
tăng ngay đó đại ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
“Là cái gì ?” Câu hỏi này xé trời, xé đất mà tới, không dựa vào cái gì, cũng không bao hàm nội dung gì khiến người ta có thể trả lời được. Nhưng trong lúc không sinh ra nội dung gì lại khế hợp với Thiền cảnh, cái gì cũng không có, cái gì cũng có.
2018.- Chỗ có trùng độc.
Có
ông tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch :
-Một
ngày 12 thời con làm sao bảo nhiệm ngộ cảnh ?
-Giống
như ông đi qua một nơi có trùng độc, ông không được để
dính một giọt nước nào vào mình, nếu không sẽ bị nguy
hiểm đến tính mạng.
(Tứ Lý Thiền)
Đối với người không giữ giới thì giới luật là bó buộc, nhưng đối với người giữ giới thì lại là tự do. Vấn đề là ở chỗ ông biết trùng độc là cái gì ?
2019.- Thủ cấp Đức Sơn.
Long
Nha Cư Độn khi đến tham học với Đức Sơn Tuyên Giám
hỏi :
-Nếu
như con dùng Mạc Tà bảo kiếm chém sắt như bùn để lấy
đầu sư phụ thì sư phụ tính sao ?
Đức
Sơn lại gần, vươn cổ lên :
-Vậy
ông ra tay đi !
-Đầu
thầy đã lăn lóc trên đất rồi !
Đức
Sơn ha hả cười lớn.
Về
sau Long Nha lại đến Đoan Châu Động Sơn tham học, kể lại
câu chuyện trên cho Động Sơn nghe. Động Sơn hỏi :
-Sau
đó lão Đức Sơn có nói gì thêm không?
-Không
nói gì ?
Động
Sơn nghiêm trang bảo Long Nha :
-Không
cần biết Đức Sơn có nói gì, ông hãy mang thủ cấp Đức
Sơn ra cho tôi coi !
Long
Nha lúc đó tỉnh ngộ, hiểu được dụng ý của Đức Sơn
và Động Sơn bèn hướng Động Sơn cảm tạ.
(Tứ Lý Thiền)
Bên
Đông mặt trời mọc, bên Tây trời mưa. Đạo không kể mưa
hay tạnh. Các thiền sư có nhiều cử động vượt lên thường
tình là để thứ nhất diễn tả cảnh giới mình đã đạt
được, thứ hai là để tiếp dẫn người chưa vào được
cửa Thiền. Phương pháp giáo dục của Thiền tông khác với
phương pháp giáo dục của xã hội. Trong mỗi công án đều
hiển thị loại trí tuệ này.
(Xem
thêm công án 1094)
2020.- Đầu con mèo chết.
Có
ông tăng hỏi Tào Sơn :
-Trên
thế giới này, cái gì là quý nhất ?
-Đầu
con mèo chết.
-Tại
sao ?
-Vì
không có ai cho giá.
(Tứ Lý Thiền)
Sự
vật quý hay tiện là do con người đánh giá hữu dụng hay
vô dụng. Nhưng có khi vô dụng lại hữu dụng tỷ như không
khí không có giá nhưng thiếu nó có được không ?(Học Thành
Cư Sĩ)
Đối
với người đời, giá trị của một vật càng hiếm càng
quý, càng có nhiều công dụng càng quý, thân phận càng cao
càng quý. Theo quan điểm của Phật giáo thì ngoài thân tam
bảo là quý (Phật, Pháp, Tăng) còn nội tâm thì lấy trí tuệ
kiến Phật tánh là quý. Câu hỏi của ông tăng không thể
trả lời thẳng được, chỉ có thể đi vòng vo. Chẳng hạn
nếu trả lời là kiến Phật tánh thì câu trả lời này quá
trừu tượng. Câu đáp phải cụ thể, bình thường, hiện
thực mới khiến người nghe hiểu được. Có thể là Tào
Sơn vừa thấy hoặc nghe nói một con mèo chết nên thuận mồm
nói “đầu con mèo chết là quý nhất”. Đối với một số
người nếu nói đến đầu thì đầu heo, đầu bò, đầu dê
còn quý hơn. Đầu con mèo chết làm sao lại quý nhất thiên
hạ ? Câu đáp của Tào Sơn rất hay. Hễ có tính toán, đánh
giá đều là có giá, đều hữu hạn, so sánh, không phải là
quý nhất. Cái quý nhất không thể phán đoán để đánh giá.
Người trí có thể biến rác rưởi thành vàng, kẻ ngu có
gia sản trăm vạn nếu không biết xử dụng sẽ ôm vàng mà
chết đói. Xin hỏi cái gì quý nhất ? Câu đáp của Tào Sơn
là câu đáp của người trí : tiền tài không quý, trí tuệ
mới quý. Cái làm cho các ông phiền não, chướng ngại là
rác rưởi, chỉ có trí tuệ vĩnh viễn dùng không hết mới
là quý (Thánh Nghiêm)
(Xem
thêm công án 989)
2021.- Tôi không hiểu Phật pháp.
Đạo
Ngộ hỏi Thạch Đầu Hi Thiên :
-Xin
hỏi hòa thượng ý chỉ Tào Khê người nào nhận được ?
-Người
hiểu Phật pháp nhận được.
-Hòa
thượng có nhận được không ?
-Tôi
không nhận được.
-Vì
sao thầy không nhận được ?
-Vì
tôi không hiểu Phật pháp.
(Tứ Lý Thiền)
Người
qua sông rồi không cần phải vác thuyền trên lưng mà đi.
Người đã thành công rồi không nên ngủ trên thành tích dĩ
vãng. Thế giới vô cùng, tinh thần cũng vô cùng. Chúng ta hà
tất lấy tinh thần làm sợi dây bó buộc lấy mình. (Học
Thành cư sĩ)
Dùng
văn tự, ngôn ngữ để giải thích Phật lý cũng giống như
người mù sờ voi không đạt được yếu lãnh. Không thiếu
người vì đọc rất nhiều kinh điển, luận điển hiểu rất
nhiều danh từ Phật học, biết rất nhiều điển cố Phật
giáo, liễu giải các tông phái Phật giáo, kỳ thật đó là
Phật học không phải là Phật pháp. Cũng có một số người
hiểu được làm sao làm một giáo đồ Phật giáo, làm sao
làm một người xuất gia, làm sao tụng kinh, lễ Phật, niệm
Phật, trì chú, ngồi thiền cho là mình hiểu rõ Phật pháp.
Sự thực đó chỉ là nghi thức Phật giáo. Biểu tượng không
phải là Phật pháp. Người nào được ý chỉ Tào Khê là
hỏi ngộ cảnh của Lục tổ Huệ Năng ai có thể hiểu ? Thạch
Đầu Hi thiên nói “Tôi không được, tôi không hiểu Phật
pháp”. Đoạn đối thoại này cho chúng ta biết một số tin
tức. Đệ tử Đạo Ngộ nhận rằng Phật pháp là do tổ tổ
tương truyền, Bồ Đề Đạt Ma đem Phật pháp từ Ấn Độ
tới, truyền tới Lục tổ rồi từ đó truyền tới Thạch
Đầu. Quan niệm này hoàn toàn sai lầm. Bồ Đề Đạt Ma chưa
tới Trung Quốc, Trung Quốc đã có Phật pháp. Bồ Đề Đạt
Ma tới để bảo cho chúng ta biết việc này. Phật pháp đời
đời truyền nhau, không phải là có một vật gì để truyền,
mà là biết mỗi người trong tâm đã sẵn có. Người không
hiểu Phật pháp tin rằng có một cái gọi là Phật pháp. Đối
với người khai ngộ thì Phật pháp không thể hình dung, không
thể nắm giữ, lý hội, nó ở khắp nơi, cũng không ở đâu
cả, hình dạng nào cũng là nó, cũng không là nó. Thạch Đầu
nói “Tôi không hiểu Phật pháp” là nói “Tôi không thể
bảo cho ông biết Phật pháp là cái gì”. Nói cách khác trừ
tâm ra, tất cả đều là Phật pháp. Nếu không để “ngã”
xuống thì không phải là Phật pháp. Câu này là một câu song
quan (có 2 nghĩa) thứ nhất Phật pháp không thể hình dung được,
thứ nhì nếu có “ngã” thì không hiểu Phật pháp. Người
đời mắt thấy, tai nghe, thân xúc không gì không là Phật
pháp, không gì là Phật pháp. Không chấp trước là Phật pháp,
chấp trước không phải là Phật pháp. (Thánh Nghiêm)
(Xem
thêm công án 1300)
2022.- Nơi đây không có nô tỳ.
Thiên
Hoàng Đạo Ngộ hỏi Thạch Đầu Hi Thiên :
-Lìa
định tuệ, xin hỏi thầy có pháp nào chỉ người ?
-Ở
đây, tôi không có nô tỳ thì lìa cái gì ?
(Công
án 100)
Có
một số người tôn sùng khách quan nhận định rằng chủ
quan không công chính. Nhưng đứng ở lập trường của Thiền
thì khi nói mình khách quan là đã bao hàm chủ quan trong đó
rồi, do đó mà phải vượt lên cả khách quan và chủ quan.
Định và Tuệ là khóa đề trọng yếu của Thiền, cũng là
nội dung chủ yếu của ngộ cảnh. Trong định có tuệ, trong
tuệ có định. Tâm không vì cảnh giới được mất, thành
bại, thiện ác, xấu đẹp mà lay động gọi là Định. Tâm
không vì chủ quan tốt xấu, giữ bỏ, yêu ghét, phân biệt
mà xử lý hoàn cảnh gọi là Tuệ.
Thiên
Hoàng Đạo Ngộ hỏi sư phụ Thạch Đầu :
-Nếu
không dùng công năng của Định, Tuệ, thầy còn gì để giảng
cho đại chúng ? (Không dùng Định, không dùng Tuệ, tâm thầy
còn tác dụng không ?)
Câu
hỏi này lại đề ra nan đề : Giả như dùng Tuệ, dùng Định
thì là ai dùng ? Nhất định là cái “ngã” chủ quan rồi.
Khi ngã xuất hiện thì tâm phiền não tất cũng xuất hiện,
như vậy không phải là Định, Tuệ nữa. Nhưng nếu lìa bỏ
Định, Tuệ thì tâm cũng không có tác dụng. Thạch Đầu Hi
Thiên đối với sự khiêu chiến này không hoang mang, dùng một
tỷ dụ rất cao minh : “Tôi ở đây không có nô tỳ, không
có gì để lìa bỏ”. Không có nô tỳ là không có chủ khách,
không có một cảnh giới nào cả thì lìa bỏ cái gì ? Nếu
nhận có Định, có Tuệ là còn chủ quan, còn chấp. Người
chân chính giải thoát khi Định, Tuệ phát công năng không
cho đó là Định, Tuệ, tự ngã trong tâm cũng không tồn tại.
2023.- Huyền Sa cứu hỏa.
Tuyết
Phong khóa cửa trước và sau tăng đường, đốt lửa lên rồi
kêu cứu :
-Cứu
hỏa ! Cứu hỏa !
Chư
tăng không biết phải làm sao, Huyền Sa bèn ném một thanh củi
qua cửa sổ. Tuyết Phong mở cửa đi ra.
(Công
án 100)
Câu chuyện này giống như là Tuyết Phong đóng kịch, đồ đệ Huyền Sa cũng hùa theo thầy. Sự thực, đây là sự biểu hiện thiền cơ, không phải là trò đùa của con nít. Tăng đường là chỗ ở của tăng chúng, có thể Tuyết Phong vì trời lạnh, đốt lửa sưởi ấm, cũng có thể là cố ý đốt lửa để khảo nghiệm đại chúng, xem có ai giải được nan đề. Huyền Sa không đem nước lại dập tắt lửa, mà lại ném vào một thanh củi là nói đã hiểu ý của sư phụ rồi, sư phụ cứ đốt nữa đi. Kết quả là Tuyết Phong vui vẻ mở cửa đi ra. Nghe tiếng kêu cứu hỏa, không mang nước lại mà lại cho thêm củi vào, thấy lửa không cứu nhỡ chết người thì sao ? Thế còn gọi là người tu hành nữa ư ? Chắc chắn là lúc đó Huyền Sa đã nhìn qua cửa sổ xem tình hình Tuyết Phong đốt lửa, biết đó không phải là tai nạn bị cháy mà là cháy giả, do đó cho thêm củi biểu thị tâm ấn tâm, tâm tâm tương ứng, đó là thiền cơ. Loại hành động này là để khảo nghiệm trí tuệ của đệ tử. Nếu như tâm không được an định thường vọng tưởng lung tung, gập phải cảnh đột phá sẽ kinh hoàng thất tán không thể quan sát cẩn thận mà thể hội. (Xem thêm công án 1007 và 1994)
2024.- Ba cân gai.
Có
ông tăng hỏi Động Sơn Thủ Sơ :
-Xin
hỏi hòa thượng : Phật là sao ?
-Ba
cân gai.
(Tứ Lý Thiền)
Câu
trả lời này cũng như các câu : que cứt khô, cây bách trước
sân, thật khó nắm bắt. Thật ra trong cửa Thiền, nếu dùng
tư duy để giải thích thì cũng giống như ẩn thân ở Bắc
Đẩu (Nghĩa là không làm được.) Đối với loại công án
này chỉ có thể ở chỗ không thể lãnh hội mà lãnh hội.
Đó mới là thân thiết, thực tại. Ba cân gai ! Những người
yêu thích lý luận đành phải từ bỏ lý luận thôi.
2025.- Tâm cảnh đều quên.
Có
ông tăng hỏi Hương Lâm Trừng Viễn :
-Tâm
cảnh đều quên là thế nào ?
-Giống
như khi ông ngồi thiền mở to mắt mà ngủ.
(Tứ Lý Thiền)
Tâm cảnh đều quên là chỉ chủ thể và đối tượng đều trở thành không. Đây là cảnh giới trong quá trình tu tập, chưa phải là cứu cánh. Nếu coi đây là cứu cánh thì thật là nguy hiểm và đáng cười vì đây chưa phải là thật tướng của Phật pháp.
2026.- Lùa họ vào chuồng.
Có
ông tăng hỏi Động Sơn Thủ Sơ (đệ tử trứ danh của Vân
Môn Văn Yển) :
-Thầy
là bậc tu hành cao thâm, nếu như các Bồ tát Văn Thù và Phổ
Hiền đến thỉnh giáo thì thầy sẽ làm sao ?
-Tôi
coi họ như trâu, lùa họ vào chuồng.
(Tứ Lý Thiền)
Thạch
Đầu Hi Thiên có nói :”Thà là vĩnh viễn chịu trầm luân
chứ không hướng chư thánh cầu giải thoát”.
Tinh
thần của các thiền sư thật kinh người. Họ nhận rằng
mục đích thành Phật, thành Tổ, giải thoát chỉ là tự tạo
ra một cái cùm để tự cùm mình, cầu Phật, cầu Bồ Tát
chỉ là vọng niệm, vọng tưởng. Để đối trị với những
người này phải coi họ như trâu, không để chạy loạn, phải
lấy dây thừng xỏ mũi, dắt về chuồng. (Xem thêm công án 1209)
2027.- Rùa là ba ba.
Có
ông tăng hỏi Hương Lâm Trừng Viễn (đệ tử đắc ý của
Vân Môn Văn Yển) :
-Thế
nào là một ngọn đèn trong thất ?
-Ba
người làm chứng con rùa là con ba ba.
(Tứ Lý Thiền)
Ba
người họp lại thành một đảng, trong sinh hoạt có nhiều
lời hoang đường, nhưng cứ được nhắc đi, nhắc lại mãi
đã trở thành chân lý. Nếu không tự mình thể nghiệm, chỉ
nghe người khác nói thì những gì có được chỉ là bựa
răng, dớt dãi của người mà thôi.
(Xem
thêm công án 789)
2028.- Danh hão.
Động
Sơn Lương Giới năm 63 tuổi, sắp viên tịch bảo chư tăng
:
-Tôi
có chút danh hão ở đời, cũng có chút ảnh hưởng khiến
tôi chẳng yên tâm. Trong các ông có ai có thể trừ cái danh
hão này cho tôi không ?
Lúc
đó có một chú tiểu bước ra thưa :
-Xin
hỏi lão hòa thượng pháp hiệu là gì ?
Động
Sơn rất bằng lòng :
-Cái
danh hão của tôi đã trừ được rồi !
(Tứ Lý Thiền)
Vị thầy chân chính lúc nào cũng nghĩ đến chuyện giáo huấn đệ tử. Trước khi lìa đời Động Sơn cũng không quên hiện thân thuyết pháp, xả bỏ danh tiếng biểu thị ông đã đạt tới cảnh giới vô ngã. (Xem thêm công án 992)
2029.- Vạn vật sanh ra từ đâu ?
Có
ông tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch :
-Vạn
sự, vạn vật trên thế gian sanh ra từ đâu ?
-Từ
tâm điên đảo, vọng tưởng, phân biệt.
-Nếu
tâm con không điên đảo, vọng tưởng, phân biệt thì vạn
sự, vạn vật còn tồn tại không ?
-Đương
nhiên còn.
-Sự
tồn tại ấy ở đâu ?
-Ông
điên đảo vọng tưởng cái gì ?
(Tứ Lý Thiền)
Dùng mắt thịt, chỉ nhìn được thế giới hữu hạn. Khi mở rộng nhãn giới, thấy toàn bộ luật tiết của vũ trụ thì lúc đó tự thân ông mới cộng hưởng được với luật tiết của vũ trụ. Nhưng con rùa biển làm sao có thể miêu tả cảnh tượng biển Đông cho con ếch ngồi ở đáy giếng hiểu được ?
2030.- Tào Sơn nghe chuông.
Tào
Sơn nghe tiếng chuông chùa ngân nga, bèn kêu lên :
-Ái
chà ! Ái chà !
Lúc
đó một ông tăng hỏi :
-Lão
hòa thượng làm sao vậy ?
-Đánh
vào tâm ta đau quá.
Ông
tăng không nói được lời nào.
(Tứ Lý Thiền)
Rõ ràng tai nghe tiếng chuông, sao lại bảo tâm bị đánh đau. Khi thấy cảnh tượng ấy chỉ nhận rằng hiện tượng là hiện tượng, tôi là tôi, nên không biết rằng hiện tượng đó là hiện tượng của tôi, là nhận thức của tôi tham dự hiện tượng đó. Hiện tượng và nhận thức phải đồng bộ. Cổ Hy Lạp triết gia chẳng nói con người là thước đo vạn vật đó sao ?
2031.- Việc lớn sanh tử.
Vĩnh
Gia Huyền Giác đến Tào Khê tham phỏng Lục tổ, nhiễu quanh
thiền sàng 3 vòng, chống gậy đứng trước mặt Lục tổ.
Lục tổ mắng ông thiếu lễ nghi. Ông thưa :
-Sanh
tử là việc lớn, vô thường tới mau.
-Ông
nắm lấy vô sanh thì còn gì là mau với chậm.
(Công
án 100)
Ý
của Huyền Giác là vì việc sanh tử quan trọng có thể tới
bất cứ lúc nào, cho nên ông không có thời giờ để ý đến
những lễ nghi tiểu tiết.
Việc
lớn sanh tử có thể phân làm 5 tầng lớp :
1.-Đã
sanh thì tất phải có tử. Đây là chân lý không thể chối
cãi được. Tử vong luôn chờ chúng ta ở cuối đường. Nhiều
người không hiểu lý này nên tham sống sợ chết.
2.-Tại
sao phải sanh ? Tại sao phải tử ? Ý nghĩa của khoảng giữa
sanh và tử là gì ? Nhiều người không hề tìm hiểu
những vấn đề này chỉ sống chết như cây cỏ mơ hồ .
3.-Sanh
từ đâu tới ? Chết đi về đâu ? Theo quan điểm của Phật
giáo thì là do tiền nhất sanh chuyển qua. Nhưng tiền sanh là
gì ? Không rõ ! Sanh mạng kết thúc rồi đi về đâu ? Không
rõ ! Nếu nói theo Khổng Tử : “Chuyện sanh còn chưa biết,
nói chi đến chuyện tử ?” thì vấn đề của tầng thứ
3 này cũng không đặt ra, chỉ lo làm tròn trách nhiệm, nghĩa
vụ, giữ gìn luân lý đạo đức là được. Nhưng không phải
ai cũng làm được điều này. Cho nên nhiều người khi chết
rồi sẽ chịu khổ trong sanh mạng mới. Đời một người
khốn khổ hay hạnh phúc không phải từ trên trời rớt xuống,
mà là do nghiệp nhân mang tới. Nếu hiểu rõ những vấn đề
của tầng thứ 3 này thì trong đời này có thể an thân, lập
mạng, nỗ lực đối diện với hiện thực.
4.-Sanh
và tử bị chi phối bởi luật nhân quả. Có nhiều người
khi gập nghịch cảnh liền tự tử, nghĩ rằng chết là hết
chuyện. Sự thực thì nợ kiếp này chưa trả thì kiếp sau
cũng sẽ phải trả. Người hiểu đạo lý này tuân thủ luân
lý, đạo đức, trách nhiệm, lúc chết không sợ hãi vì biết
rằng công đức có thể mang theo.
5.-Sanh
không sai, tử cũng tốt thôi. Quá khứ như thế nào ? Vị lai
ra sao không cần phải để tâm tới. Sanh tử đều bỏ xuống
hết. Đó mới là đại tự tại, đại giải thoát. Chỉ có
bậc đại tu hành mới làm được điều này. Câu đáp của
Lục tổ Huệ Năng có nghĩa là : “Nếu ông đã bỏ được
sanh tử xuống rồi thì làm gì còn mau với chậm nữa”, tức
là đã được giải thoát rồi.
(Xem
thêm công án 367)
2032.- Ngoài ngàn dậm.
Có
ông tăng hỏi Tuyết Phong Nghĩa Tồn :
-Làm
sao mới có thể thân thiết, trực tiếp thấy bản lai diện
mục của mình ?
-Đây
là loại công phu có thể phóng bản lai diện mục của mình
ra ngoài ngàn vạn dậm mà đồng thời nó vẫn ở trước mắt
mình.
(Công
án 100)
Bốn bể là nhà thì chân trời góc biển cũng là cố hương. Các thiền sư nhận định rằng mình cùng thiên địa vạn vật là một thể nên làm gì có sai biệt ở thời gian và không gian. Chúng ta sống trong không gian 3 chiều (ngang, dọc, sâu) hay 4 chiều (ngang, dọc, sâu và thời gian), nhưng các vị thiền sư có thể sống trong không gian có vô hạn chiều.
2033.- Một được, một mất.
Tăng
chúng tham vấn Pháp Nhãn Văn Ích. Pháp Nhãn không nói một
lời, tay chỉ bức rèm cửa. Có 2 ông tăng ra vén rèm cửa
lên. Pháp Nhãn bảo :
-Một
được, một mất.
(Công
án 100)
Pháp
Nhãn ngồi trong phòng đối chư tăng chỉ rèm cửa là ý gì
? Ông muốn đi ra ngoài ? Hay là phòng tối quá muốn vén rèm
lên cho sáng ? Không ai biết. Hai ông tăng thấy động tác của
Pháp Nhãn cùng đi vén rèm lên. Pháp Nhãn chỉ nói : “Một
được, một mất”. Câu nói này có 2 tầng ý nghĩa :
1.-Từ
thường thức mà phán đoán thì 2 ông tăng này có ý tưởng
bất đồng. Một ông hiểu, một ông không hiểu. Giả thiết
Pháp Nhãn muốn đi ra, một ông tăng hiểu đúng ý Pháp Nhãn,
còn ông kia cho là Pháp Nhãn muốn phòng được sáng sủa hơn.
Một ông có tâm cùng tương ứng với Pháp Nhãn, ông kia thì
không. Do đó động tác tuy giống nhau nhưng tâm ý không đồng,
bởi vậy mới nói “Một được, một mất”.
2.-Từ
lập trường Thiền cơ mà phân tích thì một ông tăng được
Thiền cơ, một ông tăng mất Thiền cơ. Hai ông tăng cùng đến
Pháp Nhãn để thỉnh pháp. Hiện tại một ông tăng nhận rằng
không cần phải hỏi nữa, ông đã hiểu ý thiền sư giơ tay
chỉ rèm cửa rồi. Sự thật thì có pháp nào để thỉnh ?
Thiền sư muốn ra ngoài thì vén rèm lên mà ra, muốn phòng
sáng thì vén rèm lên. Đó là pháp, còn có gì không hiển hiện
? Nếu hiểu rằng mọi pháp đểu là Phật pháp, là Thiền
pháp liền thể nghiệm được Phật pháp là vô ngã. Đối
với một đệ tử chưa khai ngộ, Pháp Nhãn chỉ rèm, ông ta
liền vén rèm lên rồi xin Pháp Nhãn giảng pháp. Kỳ thật
Pháp Nhãn đã dùng vô thanh để giảng pháp rồi. Ông tăng
đã mất cơ hội khai ngộ. Pháp Nhãn lúc đó nói câu ấy là
có dụng ý gì ? Dĩ nhiên là Thiền cơ, chỉ có Pháp Nhãn tự
biết. Chúng ta đối với loại thiền ngữ này dùng phán đoán,
phân tích, giải thích đều là kẻ vén rèm ngu muội. Pháp
Nhãn dùng một câu nói nghe có vẻ có ý nghĩa, kỳ thực là
vô nghĩa khiến thiền sinh khởi nghi tình, thành nghi đoàn rồi
phá chấp mà ngộ. Lúc đó thiền sinh có thể phản kích lại
Pháp Nhãn :
-Lão
hòa thượng điên này lại giở trò khùng gì nữa đây !
(Xem
thêm công án 202)
2034.- Chẳng liên quan gì đến tôi.
Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch hỏi Quy Sơn Linh Hựu :
-Xin
hỏi sư phụ phải làm sao khi cả trăm ngàn hiện tượng tới
?
-Xanh
thì chẳng vàng, dài thì chẳng ngắn. Mỗi pháp đều có vị
trí của nó, có liên quan gì đến tôi.
(Công
án 100)
Các vấn đề đều do “ngã” mà sanh ra. Tôi muốn, tôi không muốn, tôi vui, tôi buồn v . v. Phàm chuyện gì có liên quan đến “ngã” thì mới được coi là quan trọng, còn không thì là vô vị. Đối với tha nhân, những gì hợp ý mình là muốn chiếm hữu, lợi dụng; nếu người khác không theo ý mình thì tìm cách đối phó, kháng cự, xa lánh. Chuyện này tốt hay xấu ? nếu không có “ngã” thì ta không thể sanh tồn được như quần áo chẳng cần mặc, cơm chẳng cần ăn, bệnh chẳng cần chữa. Trên cơ bản “ngã” là hữu dụng, nhưng chấp ngã thì lại sản sanh ra các vấn đề. Trả lời câu hỏi của Ngưỡng Sơn, Quy Sơn nói :”Xanh chẳng vàng, dài thì chẳng ngắn, Xanh là xanh, dài là dài, muốn làm sao thì làm.” Đối với thiền giả thì “Nhà ông có sự, nhà ông ấy có sự, nhà tôi vô sự”. Nhà ông, nhà ông ấy có sự , tôi đến giúp đỡ vì ông, vì ông ấy, trong sự giúp đỡ này không liên quan gì đến “ngã”, cho nên nhà tôi vô sự. Đó là hành vi của người có trí tuệ (bỏ được cái “ngã” xuống), không làm rối mình, rối người mà giải quyết được vấn đề.
2035.- Không biết là thân thiết nhất.
La
Hán hỏi Pháp Nhãn :
-Ông
hành cước để làm gì ?
-Con
không biết.
-Không
biết là thân thiết nhất.
(Công
án 100)
Hành
cuớc là đi từ nơi này đến nơi khác, không nhất thiết
là đi đâu và với mục đích gì, như mây bay nước chẩy,
tùy duyên mà đi, tùy xứ mà an tâm. Biết là do ngã nhận thức,
biện biệt. Không biết là bỏ tất cả xuống các trở ngại
: tri thức, tri kiến, kiến văn giác tri . . . lúc đó trí tuệ
vô ngã sẽ hiển hiện. Đó là điều La Hán chỉ dạy cho Pháp
Nhãn khiến ông khai ngộ.
(Xem
thêm công án 272)
2036.- Văn Thù nói gì ?
Một
ông tăng hỏi Thạch Thất Thiện Đạo :
-Thầy
có tới Ngũ Đài Sơn không ?
-Tôi
có tới.
-Thầy
có gặp Văn Thù ?
-Tôi
có gặp.
-Văn
Thù nói gì với thầy ?
-Văn
Thù bảo tôi : Cha mẹ ông ở dưới đám cỏ rậm.
(Công
án 100)
Kinh Hoa Nghiêm nói Thanh Lương Sơn là đạo trường của Bồ tát Văn Thù. Văn Thù đại biểu cho trí tuệ, là điều kiện tất yếu của tất cả trí tuệ của chúng sanh để thành Phật. Ở đây Thạch Thất chỉ điểm cho ông tăng : Nếu như ông muốn dùng trí tuệ để thấy Phật tánh, thì đừng tìm ở đâu khác mà là ở trong đám cỏ rối phiền não vậy. (Xem thêm công án 1201 và 1963)
2037.- Lâu không ăn.
Bách
Trượng Hoài Hải bảo đại chúng :
-Có
một người lâu ngày không ăn cũng không nói đói, có một
người cả ngày ăn cơm cũng không nói no.
Đại
chúng không ai trả lời được.
(Công
án 100)
Lâu ngày không ăn cũng không nói đói : Đây là dụ cho người không hiểu Phật pháp, không nhận rằng tự mình có Phật tánh có khả năng thành Phật, không biết Phật tánh có tác dụng gì. Cả ngày ăn cơm cũng không nói no dụ cho người đã khai ngộ, đã thấy Phật tánh, ăn, uống, ngủ, thức đều ở trong Phật tánh.
2038.- Quy Tông hái rau.
Quy
Tông Trí Thường dẫn chúng đệ tử ra vườn hái rau. Ông
vạch một vòng quanh một cây rau rồi nói :
-Không
ai được động tới cây này !
Qua
một lúc Quy Tông quay trở lại quan sát thấy cây rau vẫn còn
nguyên bèn lấy gậy xua đuổi chư tăng, mắng :
-Đây
thật là một lũ tăng ngu, không có một người nào có trí
tuệ !
(Công
án 100)
Trí Thường là một môn đệ kiệt xuất của Mã Tổ, thường đưa ra nhiều quái chiêu khiến người thường khó lường. Lần này ông vẽ một vòng quanh cây rau và ra lệnh không ai được hái. Kết quả là không ai dám hái lại còn bị mắng là ngu. Kỳ thật động cơ của Quy Tông là để khảo sát đệ tử xem có người nào có đảm lượng và kiến địa, nhưng kết quả là chẳng có ai. Các ông tăng nhận rằng Quy Tông muốn giữ cây rau đó lại để làm giống. Các ông tăng đó đã chấp vào tướng, bị giới hạn của thường tình, nên đã rơi vào cái bẫy của Quy Tông.
2039.- Cả ngày đi tìm chẳng thấy xuân đâu.
Đây
là câu đầu trong bài kệ của ni cô Vô Tận Tạng, đời Đường.
(Xem nguyên văn chữ Hán ở công án 704)
(Công
án 100)
Tại sao tìm xuân không được ? Xuân đến muôn nơi, gió thổi là gió xuân, chim hót là khúc xuân ca, cỏ cây hoa lá đều là xuân. Tìm xuân đâu có khó ? Đây là một tỷ dụ mình đang sống trong mùa xuân mà còn đi tìm xuân ở đâu ? Ý của câu kệ là muốn đi tìm trí tuệ nhưng khi ông bỏ xuống hết ý mong cầu thì đó là trí tuệ. Nếu trong tâm cầu có một cái gì để đạt được thì đã bị chướng ngại rồi. Xuân là cái gì ? Tiếng chim hót, mùi thơm của hoa, non xanh nước biếc đều là xuân nhưng chúng có vĩnh viễn tồn tại không ? Không, chúng luôn biến đổi. Nếu có một mùa xuân vĩnh viễn không biến đổi thì đó không phải là xuân nữa.
2040.- Con là Huệ Nhiên.
Tam
Thánh Huệ Nhiên là đệ tử đắc ý của Lâm Tế có một
lần đến tham Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Ngưỡng Sơn hỏi :
-Ông
tên gì ?
-Con
tên Huệ Tịch.
-Ông
đùa gì thế, Huệ Tịch là tên tôi mà ?
-Vậy
thì con tên Huệ Nhiên.
Ngưỡng
Sơn cả cười.
(Tứ Lý Thiền)
Danh có thể gọi thì không phải là thường danh. Tên họ của một người chỉ là hiệu của “ngã” không phải là ngã. Trong sinh hoạt có nhiều người đổi tên, đổi họ, nhưng người ấy vẫn là người ấy. Vấn đề là làm sao từ những giả ngã đó tìm ra cái ngã chân chính ? (Xem thêm công án 1563)
2041.- Nhà nhà đều có đèn.
Cốc
Ẩn đến tham học với Thủ Sơn Tỉnh Niệm, hỏi :
-Con đến một tòa núi đầy châu báu lại tay không mà về
thì thế nào ?
-Có
gì lạ đâu, nhà nào chả có đèn.
Cốc
Ẩn ngay đó đại ngộ.
(Tứ
Lý Thiền)
Phật giáo nhận rằng người nào cũng có Phật tánh có thể thành Phật, dù ông tin hay không thì sự thật cũng thế. Có một số người cho rằng Phật tánh là cái gì cao siêu phải tu hành khắc khổ nhiều năm mới có thể đạt được. Phật tánh là một tòa núi chứa nhiều châu báu nhưng cũng là không không. Cốc Ẩn tuy có nhận thức như thế nhưng chưa chắc thật, do chỉ điểm của Thủ Sơn mới rõ rằng Phật tánh ai cũng có như nhà nào cũng có đèn.
2042.- Dã hồ tinh.
Thủ
Sơn Tỉnh Niệm hỏi Trí Tung :
-Có
người muốn ông thị hiện 32 tướng thì sao ?
-Con
không phải là dã hồ tinh.
(Tứ Lý Thiền)
Thành Phật rồi tự nhiên có thần thông. Nhưng Thiền tông nhận định rằng Phật tánh là bình đẳng, là tâm bình thường của chúng ta. Nếu có người hý lộng quỷ thần thì đó chỉ là dã hồ tinh.
2043.- Tọa chủ niệm Phật.
Có
tọa chủ đang niệm A Di Đà Phật , đồ đệ gọi hòa thượng.
Tọa chủ ngoảnh đầu lại tưởng nghe đệ tử hỏi gì nhưng
gã đồ đệ lại câm như hến. Cứ vậy 2, 3 lần. Tọa chủ
mắng :
-Ông
kêu tôi 2, 3 lần có chuyện gì vậy ?
-Sư
phụ niệm Phật nhiều năm rồi, Phật cũng đâu có để ý
gì ? Con mới kêu thầy 2, 3 lần sao thầy đã nổi giận rồi
?
(Tứ Lý Thiền)
Lấy
mâu chống thuẫn là biện pháp tốt. Nếu ông thấy một người
nào hành vi không vừa mắt, cứ tại trước mắt người ấy
bắt chước hành vi của họ, để cho họ lãnh giáo.
(Xem
thêm công án 796 và 1603)
2044.- Có thấy Đại Thánh không ?
Đời
Tống, Đại Thánh ở Tứ Xuyên là một vị thần rất linh.
Có một ông tăng đang lạy, một người đứng bên hỏi :
-Hòa
thượng ngày ngày lạy Đại Thánh mà có thấy Đại Thánh
không ?
(Tứ Lý Thiền)
Nhiều người lạy Phật và Bồ Tát nhưng chẳng biết Phật và Bồ Tát là gì ? Vậy cúi đầu lạy là vì cái gì ?
2045.- Tam Giới đại sư.
Ông
tăng giữ tháp Đại Thánh ở Tứ Xuyên, cứ mỗi chiều đều
y lệ đóng cửa. Có một ông tăng hỏi :
-Đại
Thánh là một vị đại sư tam giới, là một vị thánh như
Phật, Bồ Tát, sao còn bị phàm phu tục tử khóa cửa ?
Ông
tăng không trả lời được.
(Tứ Lý Thiền)
Giá trị đời người là do mình quyết định. Mạnh Tử nói : Người ta ai cũng có thể trở thành Nghiêu, Thuấn, cũng tương tự như Phật giáo nói ai cũng có Phật tánh, có khả năng thành Phật. Nhưng sao ở đời lại nhiều phàm ít thánh ? Chúng ta đều là thánh hiền, chỉ là chúng ta không biết hoặc không muốn làm thánh hiền thôi.
2046.- Người trong mật thất.
Có
ông tăng hỏi một vị thiền sư :
-Thế
nào là người trong mật thất ?
-Có
khách chẳng trả lời.
(Tứ Lý Thiền)
Người
ở trong mật thất không muốn người ngoài biết, có khách
đến, ẩn trong thất không lên tiếng. Trong thân thể chúng
ta cũng có một vị chủ nhân ở ẩn. Ông ta tiếp xúc với
bên ngoài qua mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý. Các ông có biết
ông ấy là ai không ?
(Xem
thêm công án 1219)
2047.- Gần ngay bên cạnh.
Huyện
lệnh Thành Đô là Phạm Mỗ, nghe nói Viên Ngộ Khắc Cần
trở về Thành Đô, trú ở Thiệu Giác tự bèn đến bái phỏng
và xin Viên Ngộ chỉ cho con đường vào Đạo. Viên Ngộ bảo
ông tham câu nói của Mã Tổ :
-Chẳng
phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, cứu cánh là
gì ?
Huyện
lệnh Phạm tham công án này mãi mà vẫn không được gì, khóc
thưa :
-Hòa
thượng có thể chỉ cho con phương tiện nào dễ hiểu hơn
không ?
-Có,
một cách rất giản dị là ông tự hỏi : Đó là cái gì ?
Huyện
lệnh cuối cùng đã rõ :
-Nguyên
lai thiền vốn ngay bên cạnh.
(Tứ Lý Thiền)
Cảnh giới Thiền không phải là tâm, không phải là Phật, không phải là vật, cứu cánh là cái gì ? Nó rất gần chúng ta, ở ngay trong tâm chúng ta, nhưng nó là cái gì ? Các ông ở chỗ “là cái gì ?” Tự hỏi, tự mở cửa vào.
2048.- Một cơm, một cháo.
Ngưỡng
Sơn hỏi sư phụ Quy Sơn :
-Hòa
thượng viên tịch rồi, nếu có người hỏi Đạo pháp của
sư phụ là thế nào, thì con trả lời làm sao ?
-Một
cơm, một cháo.
(Công
án 100)
Ý chính của công án này là để chỉ sự sinh hoạt hàng ngày. Tâm bình thường là phương pháp tu hành và hoằng pháp tốt nhất. Trong Thiền môn, buổi sáng được ăn cháo điểm tâm, buổi trưa được ăn cơm, buổi chiều không được ăn gì cả. Như vậy một ngày chỉ có 2 bữa. Câu trả lời của Quy Sơn có ý nghĩa gì ? Chả lẽ chỉ ăn không ngồi rồi không làm gì cả ? Kỳ thật câu nói này hàm ý ngày thường sinh hoạt như thế nào thì cứ làm như thế đó, lấy tâm bình thường mà qua ngày, không bị chuyện gì làm lo lắng, quái ngại. Muốn ăn cháo thì đi nấu cháo, muốn ăn cơm thì đi thổi cơm. Hơn nữa muốn có gạo thì phải trồng lúa, hái gặt, xay, giã . . . có thâu hoạch được mùa, mất mùa . . . Tất cả mọi vấn đề tốt, xấu đều xuất hiện. Quy Sơn thiền sư là một người trí, xử lý mọi sự, ứng đối với đủ mọi hạng người đều xuất từ tâm bình thường một cháo, một cơm. Câu nói của ông có 2 tầng ý nghĩa : một là chỉ những ông tăng lười biếng chỉ lo ăn, hai là chỉ những người đạm bạc danh lợi, tinh tiến tu hành.
2049.- Bệnh vì nói thiền nhiều quá.
Viên
Ngộ Phật Quả Khắc cần lúc tham học với Ngũ tổ Pháp Diễn,
Pháp Diễn bảo ông :
-Ông
cái gì cũng tốt, chỉ là còn có chút bệnh.
-Không
biết con có bệnh gì ?
-Ông
mắc bệnh nói thiền nhiều quá.
Khắc
Cần kinh dị :
-Chúng
ta là người tham thiền vì sao sư phụ lại bảo là con nói
thiền nhiều quá ?
-Theo
ông thấy thì chúng ta phải dùng bao nhiêu lời để nói cho
rõ một thoại đề ?
(Tứ Lý Thiền)
Tướng mạnh không nói đến binh, người giầu không nói đến tiền, thiền sư không nói đến thiền, nếu nói ra thì nó không là nó nữa.
2050.- Đây là chữ gì ?
Có
ông tăng đến tàng kinh các, không xem kinh, chỉ ngồi thiền.
Ông tăng giữ tàng kinh các hỏi :
-Ông
vì sao không đọc kinh ?
-Tôi
không biết chữ.
-Sao
không đi hỏi người ta ?
Ông
tăng đó khoanh tay, khom lưng vái ông tăng kia và hỏi :
-Xin
hỏi ông đây là chữ gì ?
(Tứ Lý Thiền)
Có người ngày ngày đọc sách mà không biết chính mình là một quyển sách. Quyển sách này có ai xem, có ai hiểu nội dung của nó không ? (Xem thêm công án 308)
2051.- Người tham thiền ngày nay.
Đại
Huệ Tông Cảo nói :
-Hiện
nay người tham thiền giống như nhặng xanh, ngửi thấy mùi
tanh hôi liền bu tới. Kết quả là toàn thân đều có mùi
tanh tưởi. Do đó phải gội rửa hắn từ đầu đến chân
rồi mới cho hắn tham thiền. Từ xưa đến giờ chỉ có những
bậc thiền sư cao minh như Trần Tôn Túc mới có thể làm được,
thiền sư thấy sự suy tư của ông liền chỉ ra ngay chỗ cỏ
dại mọc để trừ bỏ.
(Tứ Lý Thiền)
Một trang giấy trắng dùng để vẽ rất tốt. Một trang giấy bẩn cần phải tẩy sạch rồi mới vẽ được, nếu không thì chỉ đem vất đi.
2052.- Khai nhãn.
Long
Tường Sĩ Khuê trú ở Lạc Dương Long Môn Tự đem hết bình
sinh sở học hướng Phật Nhãn báo cáo. Phật Nhãn bảo ;
-Ông
là người thông minh, chuyện gì cũng có thể lý giải được,
nhưng ông chưa hạ thủ công phu khai nhãn.
Một
hôm đứng hầu Phật Nhãn ông lại hỏi :
-Khi
tâm chúng ta cùng vạn sự, vạn vật không còn liên hệ nữa
thì tình cảnh thế nào ?
-Thì
cũng giống như ông ở tăng đường bạch chuỳ vậy.
Long
Tường vẫn chưa hiểu, đến buổi tham chiều lại nhắc lại
câu hỏi. Pháp Nhãn nói :
-Sao
ông còn nói những lời dư thừa này ?
Long
Tường ngay đó đại ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Nếu đã không còn quan hệ với vạn sự, vạn vật, ông còn nói về vấn đề đó thì có phải lại rơi vào cái hố quan hệ không nào ? Cảnh giới thiền khó, vì ở trong cảnh giới ấy, không được nghĩ đến nó, nghĩ đến nó thì nó không phải là nó nữa, không nắm, không buông vậy phải làm sao ?
2053.- Không thể vào ma cảnh.
Đời
Bắc Tống, Đâu Xuất Tòng Duyệt là đệ tử của Khắc Văn
có lần ngẫu nhiên gập sư thúc tổ Thanh Tố (là thị giả
của Thạch Sương Sở Viên). Thanh Tố rất quan tâm đến ông
:
-Ông
hãy đem bình sinh sở ngộ nói tôi nghe thử.
Đâu
Xuất bèn đem những kiến giải của mình trình lên. Thanh Tố
bảo ông :
-Cảnh
giới của ông chỉ mới đạt được một nửa, có thể vào
được cửa Phật, nhưng chưa vào được cửa ma.
-Sao
hòa thượng lại nói vậy ?
-Chẳng
lẽ ông không nghe cổ nhân nói : Có hiểu được câu nói sau
cùng thì mới qua được ngưu quan, là cảnh giới tối cao hay
sao ?
Đâu
Xuất lại khắc khổ tham vài tháng nữa, cuối cùng được
Thanh Tố ấn khả.
(Tứ Lý Thiền)
Chỉ vào được cửa Phật, không vào được cửa ma thì chỉ là phiến diện, cục bộ không phải là chân lý hoàn chỉnh, người mù sờ voi là một tỷ dụ. Phật pháp là bất nhị. Người chỉ biết thiện không biết ác làm sao hiểu Phật pháp ?
2054.- Đốt thành tro.
Hoàng đình Kiên đến tham Hoàng Long Tử Tâm Ngộ thiền sư.
Hoàng Long thấy mặt liền hỏi :
-Tôi
và học sĩ đại nhân đều chết rồi, đốt thành hai đống
tro, chúng ta sẽ gập nhau ở đâu ?
Kiên
không trả lời được.
(Tứ Lý Thiền)
Chúng ta sẽ gập nhau ở đâu ? dùng cái gì để gập ? xác thân ư ? đã bị hủy hoại. Tinh thần ư ? Không có xác thân, tinh thần ở đâu ? Là cái vượt lên vạn sự, vạn vật, là cái ngã ư ? Nhưng cái ngã này ở đâu ? Và là cái gì ? Câu hỏi này không thể dùng lý luận mà giải đáp được.
2055.- Còn có người không bị bệnh chăng ?
Đức
Sơn Tuyên Giám bị bệnh, có ông tăng hỏi :
-Lão
hòa thượng, ngay cả thầy cũng bị bệnh, còn có người nào
không bị bệnh không ?
-Có
chứ !
-Người
không bị bệnh là hạng người nào ?
Đức
Sơn kêu lên :
-Ái
chà ! Ái chà !
(Công
án 100)
Cao
tăng, đại đức cũng bị bệnh, nhưng thân xác bị bệnh,
còn tâm vô bệnh. Thân bị bệnh thì đau đớn, tâm bị bệnh
thì phiền não. Đức Sơn kêu lên là diễn ý này. Đức Sơn
bị bệnh sinh lý đau đớn, nhưng tâm lý không oán hận hay
hy vọng trốn tránh. Có bệnh hay không bệnh, tâm cảnh hoàn
toàn tương đồng. Bệnh nếu chữa được thì tốt, còn như
không chữa được thì cũng chẳng sao. Kinh Duy Ma Cật nói vì
chúng sanh bệnh nên Bồ Tát không thể không bệnh. Câu này
có 2 ý :
1.
Đồng bệnh tương lân : vì Bồ Tát bệnh nên mới biết rõ
những nhu cầu của bệnh nhân.
2.
Vì Bồ Tát cũng bị bệnh nên bệnh nhân mới tin tưởng vào
phương pháp của Bồ Tát.
(Xem
thêm công án 647)
2056.- Người không cùng vạn pháp làm bạn.
Bàng
Uẩn hỏi Mã Tổ Đạo Nhất :
-Người
không cùng vạn pháp làm bạn là ai ?
-Đợi
ông hớp một ngụm hết nước Tây Giang tôi sẽ bảo.
Bàng
Uẩn lập tức đại ngộ.
(Công
án 100)
Vạn pháp là tất cả mọi hiện tượng hữu hình và tất cả mọi đạo lý vô hình. Trong mọi sinh hoạt những gì thấy, dùng, tiếp xúc đều là pháp. Con người không thể lìa sinh hoạt, lìa sinh hoạt thì không phải là con người, chỉ cần còn một hơi thở, thân thể còn hoạt động, tâm lý còn hoạt động thì không thể lìa vạn pháp. Vậy thì người nào không là bạn của vạn pháp ? Câu hỏi này rất cao minh, lìa khỏi mọi quan niệm tương đối của sự vật, mọi ỷ lại, mọi ứng dụng thì người đó là người đã giải thoát, được tự tại, tâm không còn quái ngại. Tâm cảnh của người này không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được. Câu của Mã Tổ là ý này, lúc đó bỏ xuống mọi kỳ vọng của nội tâm, mọi tìm kiếm ở ngoại cảnh. Ngộ cảnh liền hiển hiện. (Xem thêm công án 988)
2057.- Dược Sơn xem kinh.
Dược
Sơn đang xem kinh, có ông tăng hỏi :
-Hòa
thượng bình thường không cho người ta xem kinh, sao tự mình
lại xem ?
-Tôi
chỉ độ mắt.
-Con
có thể bắt chước hòa thượng không ?
-Nếu
là ông xem thì da trâu cũng thủng.
(Công
án 100)
Có
thể phân ra ba loại người xem kinh :
1.
Loại người thứ nhất : xem mà không hiểu vì kinh có nhiều
danh từ khó, đọc kinh như đọc thần chú.
2.
Loại người thứ hai : Dò theo lời kinh để tìm hiểu nghĩa
lý.
3.
Loại người thứ ba : Xem như khóa tụng hàng ngày, là một
phần của sinh hoạt không thể thiếu.
Loại
người thứ ba lại chia làm 2 loại :
a.
Tin vào khóa tụng để cầu công đức.
b.
Là đã khai ngộ : đọc kinh để xem ngộ cảnh, tâm cảnh của
Phật, giống như đối diện với Phật.
Tâm
cảnh của Dược Sơn là tâm cảnh của loại người cuối.
Dược Sơn biết ông tăng chưa khai ngộ nên bảo ông từ văn
tự mà lý giải. (Xem thêm công án 604)
2058.- Mở mồm không được.
Thạch
Đầu Hi Thiên hỏi Bàng Uẩn :
-Từ
khi ông đến với lão tăng, hàng ngày ông tu hành thế nào
?
-Nếu
nói chuyện hàng ngày thì không có chỗ mở miệng.
(Công
án 100)
Tại sao không mở miệng được ? Bởi vì Bàng Uẩn công phu rất miên mật. Mỗi giây phút, mỗi niệm đầu đều dụng công tu hành, làm gì có cơ hội để mở miệng ? Trong quá trình tu học tâm lý người tu như người uống nước, nóng lạnh tự hay làm sao có thể nói cho người ? Thiền tông rất trọng lối dạy không lời, dùng lời là hạ sách. Lời nói hữu hạn, thô thiển cách thật tướng rất xa. Bàng Uẩn trong mỗi phút giây, mỗi niệm đầu đều rõ ràng. Đó là tu hành. Dùng thái độ này mà sinh hoạt thì không phiền muộn nào có thể làm buồn, cao hứng nào làm điên cuồng, bất cứ sự tình gì lúc nào cũng mới mẻ, sự sự vật vật đều hiện thành.
2059.- Giọt nước đầu thềm.
Có
một ông tăng hỏi Quy Tỉnh :
-Câu
cây bách trước sân của Triệu Châu nghĩa là sao ?
-Ông
có nghe tiếng tí tách của giọt nước đầu thềm không ?
Ông
tăng thảng thốt kêu lên. Quy Tỉnh hỏi :
-Ông
ngộ được đạo lý gì nói ra coi thử ?
Ông
tăng đó bèn làm một bài kệ trình lên :
檐
頭 水 滴
Thiềm
đầu thủy trích
分
明 歷 歷
Phân
minh lịch lịch
打
破 乾 坤
Đả
phá càn khôn
當
下 心 息
Đương
hạ tâm tức.
Đầu
thềm giọt nước
Từng
giọt rõ ràng
Càn
khôn phá nát
Lập
tức tâm ngưng.
Quy
Tỉnh nghe rồi rất cao hứng.
(Tứ Lý Thiền)
Giọt nước đầu thềm cho chúng ta biết điều gì ? Mỗi hiện tượng trong đại tự nhiên đều bao hàm những bí ảo của vũ trụ, đều cùng chúng ta truy cầu tương thân với chân lý. Tiếng giọt nước đầu thềm đơn thuần, trực tiếp, không có một nội dung gì khiến người ta phải suy nghĩ, nhưng nó có thể khiến tư duy phức tạp lắng đọng. Đó là thủ pháp dương Đông kích Tây của Thiền tông.
2060.- Chư pháp tòng bản lai.
Lúc trước có một ông tăng đọc kinh Pháp Hoa tới câu “Chư pháp tòng bản lai, thường tự tịch diệt tướng”, bỗng khởi nghi hoặc. Đi đứng nằm ngồi đều suy nghĩ mà vẫn không rõ. Mùa xuân đến nghe tiếng Hoàng oanh hót, hốt nhiên tỉnh ngộ bèn tiếp thêm hai câu nữa vào lời kinh để thành một bài kệ :
諸
法 從 本 來
Chư
pháp tòng bản lai
常
自 寂 滅 相
Thường
tự tịch diệt tướng
春
至 百 花 開
Xuân
chí bách hoa khai
黃
鶯 啼 柳 上
Hoàng
oanh đề liễu thượng.
Xưa
giờ các pháp
Tướng
vốn lặng im
Xuân
tới hoa nở
Trên
cành tiếng chim.
(Tứ Lý Thiền)
Đừng
coi Niết Bàn là cái gì thần bí; vạn sư, vạn vật, tôi,
ông, ông ấy, quá khứ, hiện tại, vị lai đều ở trong Niết
Bàn. Vấn đề là ông tăng coi Niết Bàn cao quá, không biết
bản thân sinh hoạt là Niết Bàn. Tôi là Niết Bàn, lìa tôi
thì đi đâu mà tìm Niết Bàn ?
(Xem
thêm công án 434)
2061.- Từng bước đạp thật.
Có
ông tăng hỏi Thanh Lương Văn Ích :
-Trong
12 thời làm sao tu hành ?
-Thì
cũng giống như khi ông đi đường, từng bước, từng bước
đạp thật trên đất.
(Tứ Lý Thiền)
Từng bước đạp thật trên đất là một lời nói nếu không thể hội qua, quyết không thể nói được. Trong sinh hoạt và công tác chỉ cần bước hụt một bước là sẽ ôm hận thiên cổ. Nhưng đạp trên cái gì ? Tâm chúng ta mỗi giây phút để ở đâu ?
2062.- Buồng tối trăm năm.
Có
ông tăng hỏi Thanh Lương Văn Ích :
-Một
phòng tối trăm năm chỉ cần một ngọn đèn nhỏ là bóng
tối cả trăm năm bị trừ khử. Ngọn đèn nhỏ đó là cái
gì ?
-Ông
nói trăm năm là cái gì ?
(Tứ Lý Thiền)
Thế nào là trăm năm ? Trong ánh sáng thì làm gì còn bóng tối, kể gì là ngàn vạn năm hoặc một sát na ? Thiền là siêu việt thời gian. Có lúc tôi hiểu, có lúc tôi không hiểu. Tinh thần có thể rong chơi trong vạn vật, bản thân nó không có gì gọi là hiểu hay không hiểu. Ông hãy nắm lấy cái toàn năng ấy, từ trong hiểu và không hiểu mà giải thoát.
2063.- Ngón tay và mặt trăng.
Có
ông tăng hỏi Thanh Lương Văn Ích :
-Con
không hỏi ngón tay, thế nào là mặt trăng ?
-Tại
sao ông không hỏi ngón tay ?
Lại
có ông tăng khác hỏi :
-Con
không hỏi mặt trăng, thế nào là ngón tay ?
-Mặt
trăng.
-Con
hỏi ngón tay sao hòa thượng lại đáp mặt trăng ?
-Vì
ông hỏi ngón tay.
(Tứ Lý Thiền)
Giả như ông không biết mặt trăng ở đâu thì có thể trông theo hướng ngón tay tôi chỉ mà thấy. Công án này là chỉ sự liên hệ giữa phương pháp và mục đích. Đối với ông tăng 1, Văn Ích bảo ông phải hiểu phương pháp trước : không có thuyền làm sao qua sông ? Đối với ông tăng 2, Văn Ích bảo ông phải biết mục đích của mình là gì, nếu không thì phương pháp dùng để làm chi ? Trong sinh hoạt có nhiều người chỉ lo nghiên cứu phương pháp mà quên đi mục đích, hoặc coi phương pháp chính là mục đích . (Xem thêm công án 1015)
2064.- Tất cả đều hiện thành.
Đời
Ngũ Đại, Pháp Nhãn đến La Hán Quế Khâm tham học. Trải
qua nhiều lần nghe giảng và hỏi han vẫn chưa đạt được
yêu cầu của La Hán. Có một lần La Hán nói :
-Nếu
như theo Phật pháp mà nói thì tất cả đều hiện thành.
Pháp
Nhãn nghe lời này lập tức khai ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Nếu như ngay đây nói : ” tất cả đều hiện thành, ông chính là Phật “ thì có ai hiểu không ? Sợ rằng khó có người hiểu. Tất cả hiện thành là chỉ ông, tôi, nó, tất cả đều đầy đủ có thiếu sót gì đâu ? Kinh Dịch cũng nói : bá tánh dùng hàng ngày mà chẳng biết cho thấy vấn đề này đã đặt ra từ ngàn xưa, nhưng chúng ta phải bắt tay từ đâu ? (Xem thêm công án 2026)
2065.- Gia phong của La Hán.
Có
ông tăng hỏi La Hán :
-Thế
nào là gia phong của La Hán ?
-Tôi
không nói cho ông biết.
-Vì
sao thầy không nói ?
-Đó
là gia phong của tôi.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền
và tự ngã là một loại tinh thần dùng ngôn ngữ biểu thị
chỉ là một loại hình thái như trăng trong nước, hoa trong
gương không phải là mặt trăng thật, là hoa thật.
(Xem thêm công án 67)
2066.- Cửa giải thoát.
Tuyết
Phong Nghĩa Tồn có một lần bảo đại chúng :
-Các
ông nên biết, cả đại địa, những gì chúng ta nhìn thấy
đều là cửa giải thoát. Nhưng khi đem pháp môn rộng lớn
này tới trước mặt các ông thì các ông lại không chịu
tiến vào.
Có
ông tăng đáp :
-Lão
hòa thượng đừng hòng mê hoặc được con.
Lại
có ông tăng nói :
-Tiến
vào để làm gì ?
Tuyết
Phong nghe những lời đáp này giơ gậy lên đánh.
(Tứ Lý Thiền)
Tất cả đều tự do, tự tại; ngã có đầy đủ Phật tánh còn cần phải giải thoát sao ?
2067.- Thế giới và gương cổ.
Tuyết
Phong nói :
-Thế
giới rộng một thước, gương cổ rộng một thước, thế
giới rộng một trượng, gương cổ rộng một trượng.
Huyền
Sa Sư Bị chỉ hỏa lò hỏi :
-Cái
hỏa lò này lớn bao nhiêu ?
-Gương
cổ lớn bấy nhiêu ?
(Tứ Lý Thiền)
Nhận thức là hàm số của hiện tượng. Nhận thức không thể vượt lên hiện tượng, ngược lại hiện tượng cũng không vượt lên nhận thức, chúng đồng hành, chúng là sản phẩm của vũ trụ, bản thân chúng là vũ trụ. Hiểu được đạo lý này thì giảm thiểu được những ảo tưởng không thiết thực.
2068.- Lão tăng bận lắm.
Cao
đồ của Lâm Tế là Tam Thánh hỏi Tuyết Phong :
-Cá
vàng trong lưới ăn gì để sống ?
-Đợi
ông ra khỏi lưới tôi sẽ bảo cho ông biết.
-Hòa
thượng lãnh đạo 1.500 chúng sao lại không hiểu lời con ?
-Xin
lỗi, vì lão tăng làm trụ trì công việc bận rộn lắm.
(Tứ Lý Thiền)
Cá chỉ tự tánh, lưới chỉ phiền não. Câu của Tam Thánh có nghĩa là : trong sinh hoạt đầy phiền não, tự tánh phải làm sao ? Câu đáp của Tuyết Phong có nghĩa là tự tánh không thể ly khai sinh hoạt và phiền não được. (Xem thêm công án 1077)
2069.- Tìm một người hiểu Phật pháp.
Huyền
Sa hỏi đệ tử La Hán :
-Phật
pháp nói 3 giới duy tâm, ông hiểu thế nào ?
La
Hán chỉ cái ghế hỏi ngược lại :
-Lão
hòa thượng gọi cái này là cái gì ?
-Là
cái ghế.
-Lão
hòa thượng không hiểu 3 giới duy tâm.
-Vậy
tôi gọi là gỗ, còn ông gọi là gì ?
-Con
cũng gọi là gỗ.
-Cả
đại địa muốn tìm một người hiểu Phật pháp cũng không
được.
(Tứ Lý Thiền)
Đây
là mối quan hệ tâm-vật. Tâm và vật độc lập nhưng bình
hành. Nếu chỉ chấp vào tâm thì không được. Vũ trụ vạn
vật không thể lìa khỏi nhận thức của con người và ngược
lại. Phải từ mối liên hệ tâm-vật mà thể hội sinh mạng.
(Xem
thêm công án 339)
2070.-
Chẳng tìm nơi thầy.
Thi
Lợi hỏi Thạch Đầu Hi Thiên :
-Thế
nào là bản phận sự của con ?
-Ông
muốn tìm bản phận sự sao lại đến hỏi tôi ?
-Nếu
không nhờ thầy chỉ điểm thì làm sao biết bản phận sự
của con ?
-Ông
đã đánh mất ông hay sao ?
Thi
Lợi ngay đó khai ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Tôi thấy, tôi nghe, tôi nếm . . . tất cả những hành động này có lìa được “ngã” không ? Điều này tự mình biết sao còn đi hỏi người ? Tỷ như Trương Tam đi hỏi mọi người : Tôi tên gì ? thì có coi được không ?
2071.- Thạch Sương nghiến răng.
Có
ông tăng hỏi Thạch Sương Khánh Chư :
-Ý
tổ sư từ Tây sang là sao ?
Thạch
Sương không nói, nghiến răng để trả lời. Ông tăng không
hiểu đi hỏi đại đệ tử của Thạch Sương là Cửu Phong
Đạo Kiền. Cửu Phong bảo :
-Tôi
thà bị cắt lưỡi chứ không nói ra lời kỵ húy của quốc
gia.
(Tứ Lý Thiền)
Đạo
có thể nói ra lời thì không phải là thường Đạo. Các thiền
sư coi đây là một vấn đề nghiêm trang không dùng văn chương
hoa mỹ mà tả ra được, chỉ còn cách nói ngược, nói bên,
nói vòng vo chứ không thể nói thẳng được. Vì nếu nói
thẳng ra thì sẽ là một mệnh đề triết học, đánh mất
đi nội dung thực tế của sự tu hành. Cho nên Dược Sơn có
nói :
-Đối
với vấn đề này kinh có kinh sư, luật có luật sư, luận
có luận sư, còn thiền sư không thể nói.
2072.- Một hòn đá trong không.
Một
ông tăng hỏi Thạch Sương Khánh Chư :
-Ý
tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Một
hòn đá trong không.
Ông
tăng lạy tạ. Thạch Sương hỏi :
-Ông
có hiểu không ?
-Con
không hiểu.
-May
là ông không hiểu, nếu không đã bị hòn đá đập vỡ đầu
rồi.
(Tứ Lý Thiền)
Trong sinh hoạt cũng như trong công tác có nhiều chuyện có thể nhấc lên được, cũng có thể bỏ xuống được. Nếu gập chuyện không bỏ xuống được, cứ giữ trong tâm thì chỉ làm cho tâm mang bệnh. (Xem thêm công án 1224)
2073.- Hòn đá toát mồ hôi.
Có
ông tăng hỏi Thạch Sương :
-Thế
nào là bản phận sự của hòa thượng ?
-Hòn
đá còn toát mồ hôi sao ?
(Tứ Lý Thiền)
Ý
của Thạch Sương là nếu có bản phận sự thì không phải
là bản phận sự nữa, vì bản phận sự này phi hữu lại
phi vô. Đạo lý này hiển nhiên như hòn đá không thể toát
mồ hôi.
(Xem
thêm công án 392)
2074.- Chẳng liên quan.
Có
một lần Thạch Đầu Hi Thiên bảo Dược Sơn :
-Ngôn
ngữ, văn tự, tư duy, cùng tất cả mọi hành vi hoạt động
đều không phải là đại đạo. Đại đạo không liên quan
gì đến những chuyện này.
Dược
Sơn thưa :
-Phủ
định ngôn ngữ, văn tự, tư duy cùng tất cả mọi hành vi
hoạt động đều không phải là đại đạo. Đại đạo không
liên quan gì đến những sự phủ định này.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền không phải là không tư tưởng, nhưng để cho tư tưởng đạt tới một tầng cao hơn.
2075.- Trước sau đều vậy.
Thường
Thản tham học với Dược Sơn Duy Nghiễm không đạt được
thành quả gì nên bỏ đi, sau đó ít lâu lại trở lại cầu
giáo. Dược Sơn hỏi :
-Ông
là ai ?
-Con
là Thường Thản đây mà !
-Ông
lúc trước là Thường Thản, lúc sau này cũng là Thường Thản.
(Tứ Lý Thiền)
Ý của Dược Sơn là khi ông đi rồi, lại trở về có sự biến hóa nhưng có một cái không đi, về, không biến hóa.
2076.- Không rơi vào giai cấp.
Có
ông tăng hỏi Hoàng Bá Hi Vận :
-Làm
sao để có thể không rơi vào giai cấp ?
-Cả
ngày ăn cơm mà không hề cắn một hạt cơm, cả ngày đi đường
mà không hề dẫm lên một tấc đất.
(Công
án 100)
Giai cấp là tầng lớp, giai đoạn. Các hiện tượng ở thế gian có trước sau, trên dưới, cao thấp . . . đều là giai cấp. Mỗi giai cấp đều có khởi phục không thể bình thản. Do đó chuyện trên đời không thể không rơi vào giai cấp. Phật pháp có giai cấp không ? Có. Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Mật tông, Duy Thức tông tất cả đều có giai cấp, chỉ có Thiền tông chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật là không có giai cấp. Câu nói của Hoàng Bá hàm ý : Tôi không dự định trả lời ông mà để ông tự tìm lấy câu trả lời.
2077.- Chủ ở đâu ?
Tuyết
Nham Tổ Khâm hỏi đệ tử là Cao Phong Nguyên Diệu:
-Ban
ngày ban mặt ông có làm chủ được mình không ?
-Con
làm được.
-Ban
đêm nằm mộng ông có làm chủ được mình không ?
-Con
làm được.
-Ban
đêm không nằm mộng, không tưởng, không thấy, không nghe
thì chủ ở đâu ?
Cao
Phong không trả lời được, từ đó cố gắng tinh tiến tu
hành. Một hôm nhân bạn đồng phòng làm rơi cái gối. Tiếng
gối rơi bỗng làm Cao Phong tỉnh ngộ.
(Công
án 100)
Có một số người thích chỉ huy người khác, thích làm chủ người, nghĩ rằng mình làm chủ được mình. Kỳ thật, thân và tâm bất do kỷ, khi có nhiều phiền não tới khó mà tự chủ được. Tuyết Nham hỏi Cao Phong để khảo nghiệm tâm cảnh và công lực của đồ đệ tới đâu ? Cao Phong không trả lời được câu hỏi cố gắng tu hành, đến khi nghe tiếng gối rơi mà khai ngộ. Ông ngộ được cái gì ? Ông ngộ rằng thực sự chủ không tồn tại, nhưng không phải là không có công năng. Khi bên ngoài có động tác, hiện tượng, nó liền phản ứng. Người triệt ngộ là vô ngã, nếu đã vô ngã thì vấn đề chủ ở đâu không cần đặt ra làm gì.
2078.- Nam Tuyền bán thân.
Nam
Tuyền trong một pháp hội bảo đại chúng :
-Hôm
nay Vương lão sư muốn bán thân, không biết có ai muốn mua
không ?
-Con
mua.
-Ông
trả giá cao tôi không bán, ông trả giá thấp tôi cũng không
bán, ông làm sao mua ?
Ông
tăng không trả lời được.
(Tứ Lý Thiền)
Có vật có giá vô lượng, có vật có giá đáng một cắc, nhưng mỗi vật đều có giá trị của nó. Con người cũng vậy, các ông phải biết quý giá trị của chính mình, ai cũng có khả năng làm nên việc lớn. (Xem thêm công án 649)
2079.- Mang hộ cái sẻng.
Triệu
Châu Tòng Thẩm hỏi một ông tăng mới đến :
-Ông
vừa từ đâu lại ?
-Con
từ Phúc Châu Tuyết Phong đến.
-Tuyết
Phong có lời gì dạy chúng ?
-Tuyết
Phong thường nói : Mười phương thế giới chỉ là một con
mắt của các ông. Các ông đi đại tiện ở đâu ? Chẳng
lẽ đi vào chính mắt mình sao ?
Triệu
Châu nghe rồi cười bảo :
-Khi
nào ông về, mang hộ cho tôi cái sẻng về cho Tuyết Phong để
ổng đào một lỗ cầu tiêu.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông nhận rằng tịnh thổ và uế thổ chẳng có phân biệt gì. Thế giới sạch hay bẩn là do tâm con người sạch hay bẩn. Ý của Tuyết Phong là chỉ tại lý luận nhận thức thì không thấy được cảnh giới đạt được bởi sự tu hành. Triệu Châu lại cao hơn một tầng : sạch và bẩn đều phải trừ bỏ. Ở đất bẩn tôi đào một lỗ cầu tiêu, ở đất sạch tôi khoét đi con mắt. Hai vị thiền sư một xướng một họa khiến thiền sinh có thể vươn lên thiền cảnh.
2080.- Học tập công án.
Trí
Cự hỏi sư phụ Tào Sơn Bản Tịch :
-Cổ
nhân dạy thiền sinh công án, thoại đầu, ngày nay con nên
hiểu như thế nào ?
-Ông
không được coi đó là chuyện của người xưa, phải tự
đặt mình vào công án và thoại đầu ấy, tự mình học tập
lãnh ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Đối với vạn sự, vạn vật nếu không đặt mình vào sự vật thì không nhận thức được sự vật, ngược lại nếu không nhận thức được chính mình, ly khai ngã thì không nhận thức được sự vật. Nhưng cái ngã ấy ở đâu ?
2081.- Đạo nhãn không thông.
Thanh
Lương Văn Ích hỏi một ông tăng :
-Mắt
suối không thông là do bị cát làm nghẽn, còn mắt đạo không
thông là vì cái gì ?
Ông
tăng không trả lời được, Thanh Lương bèn trả lời thế
:
-Bị
mắt tục làm trở ngại.
(Tứ Lý Thiền)
Người chiến thắng được chính mình mới được coi là người hùng. Thiền tông nói minh tâm kiến tánh là muốn thiền sinh chiến thắng được ngu muội của mình. Người thường gập chuyện thường viện dẫn những nguyên nhân ngoại tại mà không chỉ ra những nguyên nhân tự bản thân. Các ông phải biết nguyên nhân bên trong là căn nguyên, các nguyên nhân bên ngoài là điều kiện.
2082.- Điều nào sa di coi trọng.
Có
ông tăng hỏi Thanh Lương Văn Ích :
-Điều
quan trọng của người xuất gia là gì ?
-Nếu
người xuất gia còn có điều coi trọng, lưu luyến thì không
phải là người xuất gia chân chính.
(Tứ Lý Thiền)
Phật pháp chủ trương không, nói đến cùng, ngay cả Phật, Phật pháp cũng là không thì mới gọi là vào cửa Phật. Dùng lý luận để hiểu “không” không khó nhưng trong Thiền tông phải vận dụng cả tinh thần và sinh mạng để thể hội điều này.
2083.- Từ tháp tam tổ tới.
Động
Sơn Lương Giới hỏi một ông tăng mới đến :
-Ông
từ đâu đến ?
-Con
từ tháp tam tổ tới.
-Ông
đã tới tháp tam tổ (đã thông hiểu Phật pháp) còn đến
đây làm gì ?
-Con
và tam tổ cách xa nhiều năm tháng, con và hòa thượng thì
sinh hoạt cùng thời.
-Nếu
tôi muốn gập bản lai sư (tự tánh) của ông thì có được
không ?
-Vậy
thì thỉnh bản lai diện mục của hòa thượng xuyên sọ mà
ra là gập được.
-Hiện
thời lão tăng không ở đây.
(Tứ Lý Thiền)
Công án này giống như chuyện võ hiệp, 2 cao thủ tỷ thí võ công. Bề ngoài coi rất hòa khí nhưng thực tế là đầy sát khí. Hai bên đều thử thách cảnh giới và công phu của đối phương. Cuối cùng Động Sơn muốn ông tăng hiển thị bản lai diện mục ra. Đây là một câu hỏi rất khó, nhưng ông tăng cũng không kém, trao banh lại cho Động Sơn, bảo Động Sơn mang bản lai diện mục của mình ra gập mặt. Động Sơn chỉ còn cách thâu binh, nhưng câu đáp cũng rất là khéo.
2084.- Khen ngợi pháp thân.
Động
Sơn Lương Giới hỏi một ông tăng giảng kinh Duy Ma Cật :
-Trong
kinh Duy Ma Cật có nói “Không thể dùng trí để biết, không
thể dùng nhận thức để nhận thức”. Đây là loại phương
thức gì ?
-Đây
là
lời khen ngợi pháp thân.
-Gọi
pháp thân là đã tán tụng rồi.
(Tứ Lý Thiền)
Pháp thân là dụng ngữ của Phật giáo có thể giải thích là Đạo. Câu nói của Động Sơn có nghĩa là đã có danh rồi lại còn thêm danh là sai, sâu thêm một tầng nữa thì là Pháp thân không thể dùng lời để nói, để tán tụng, nhưng ông có biết pháp thân của ông không đã ?
2085.- Cây khô và cây tươi.
Dược
Sơn Duy Nghiễm chỉ một cây khô và một cây xum xuê lá cành
hỏi Đạo Ngô :
-Ông
thấy cây khô đúng hay cây tươi đúng ?
-Tâm
chúng ta như cây tươi, xum xuê cành lá tràn đầy sức sống.
-Tốt
lắm ! Ông thấy rõ là thế giới tràn đầy sức sống.
Dược
Sơn lại hỏi Vân Nham, Vân Nham thưa :
-Tâm
chúng ta như cây khô, không có nhiều cành thừa thãi.
-Tốt
lắm, ông thấy rõ thế giới, có thể giữ cho tâm mình đạm
bạc không bị những hiện tượng điên đảo làm mê hoặc.
Đúng
lúc đó Cao sa di ngẫu nhiên đi tới, Dược Sơn lập lại câu
hỏi. Cao sa di nói :
-Con
mặc kệ khô hay tươi, sao thì sao, khi khô tâm vẫn thuần khiết
an ninh, khi tươi thì tràn đầy sức sống, hà tất phải nhọc
lòng suy nghĩ.
-Không
đúng ! Không đúng ! Tâm có công năng tại sao lại không xử
dụng chứ ?
(Tứ Lý Thiền)
Dược Sơn và 3 đồ đệ hợp diễn một tuồng về tâm và ngã, khiến chúng ta thấy được toàn diện của Thiền, không như những người chỉ chú trọng vào “Không” mà coi nhẹ “hữu”, chỉ trọng không nói mà coi nhẹ nói. (Xem thêm công án 1080)
2086.- Đơn Hà nằm ngủ trên cầu.
Đời
Đường, Đơn Hà Thiên Nhiên có một lần nằm ngủ trên cầu
Thiên Tân, gập lúc Lưu Thú Lạc Dương là Trịnh Công dùng
kiệu đi qua. Các lính đi trước dẹp đường kêu ông tránh
đường nhưng ông mặc kệ. Hỏi ông tại sao lại nằm ngủ
trên cầu, ông nói :
-Tôi
là hòa thượng không có việc gì để làm.
Trịnh
lưu thú nghe lời biết là một ông tăng khác thường bèn tự
cúng dường một cuốn lụa và 2 bộ tăng phục. Hàng ngày
lại cúng dường gạo và miến. Tin tức này loan truyền khắp
thành Lạc Dương khiến nhiều người đến quy y với ông.
(Tứ Lý Thiền)
Đơn Hà là một vị thiền sư cổ quái không sợ vương quyền và giáo quyền. Tâm ông tự do, tự tại, không sợ gì cả. Trong tâm ông không có Phật, có hoàng đế, tất cả đều không thì còn sợ gì ? Còn gì có thể bó buộc được ông nữa ?
2087.- Thế nào là 12 thời.
Có
ông tăng hỏi Đại Đồng (đệ tử của Thạch Đầu):
-Trong
12 thời phải dụng công thế nào để hợp Đạo ?
-Ông
có nhận thức được 12 thời không ?
-Thế
nào là 12 thời ?
-Tý,
sửu, dần, mão . . .
(Tứ Lý Thiền)
Ngày làm, đêm ngủ, đói ăn, rét mặc, đều là biểu hiện cụ thể của Đạo. Từ trẻ tới già, từ sinh tới chết đều là sự vận hành của Đạo. Thích Ca Mâu Ni 80 tuổi cũng nhập Niết Bàn, đạo lý này chẳng đã rõ ràng lắm sao ?
2088.- Ếch nuốt trăng.
Thiên
Đồng là một vị thiền sư trứ danh cuối thời Bắc Tống.
Ban đầu ông đến tham học với Phù Dung Đạo Giai. Phù Dung
hỏi :
-Trước
thời không kiếp tự kỷ của ông thế nào ?
-Giống
như ếch ngồi đáy giếng nuốt ánh trăng, canh ba không treo
màn cửa để ánh trăng lọt qua song.
-Không
đúng, ông hãy nói lại.
Thiên
Đồng suy nghĩ, định mở miệng đáp lại liền bị Phù dung
dùng phất trần đánh cho một trận. :
-Ông
sẽ nói đại loại dùng không chấp.
Thiên
Đồng nghe lời này hoát nhiên khai ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Thổi cơm đến nửa chừng thì lửa tắt, phải đốt lửa lại. Nếu đốt lửa lớn quá hay nhỏ quá cũng đều không được, đốt lâu quá hay chóng quá cũng không được. Các ông Tăng được các vị thiền sư trứ danh tiếp đãi, đa số đều đã tu hành lâu năm, chỉ là hoả hầu chưa đủ, nên cần danh sư chỉ điểm. Trong các cuộc vấn đáp, vị thầy sẽ làm cho các ông tăng bặt đường suy nghĩ mà tiến vào cửa Thiền. Việc chỉ điểm cũng khó khăn như thổi cơm ở giai đoạn cuối.
2089.- Bới trong tro tàn.
Bách
Trượng hỏi Quy Sơn bếp còn lửa không, Quy Sơn dùng que cời
lửa bới tro rồi thưa không có lửa. Bách Trượng tự lấy
que cời lửa bới trong đám tro thấy một tinh hoả bèn bảo
đồ đệ :
-Ông
bảo không có lửa, thế cái này là cái gì ?
Quy
Sơn do đó khai ngộ.
(Tứ Lý Thiền)
Trong sinh hoạt không có chỗ nào là không có triết lý, không chỗ nào là không ẩn tàng thiền cơ. Có một số người nhận rằng tham thiền là rất khó, kỳ thật có khó không ? Có người thấy hoa đào nở mà ngộ, lại có người đi đường bị vấp té mà ngộ, có người nghe tiếng chim hót, gà gáy hay chó sủa mà ngộ v . v . Sự kiện này giống như câu nói : Đi mòn dép sắt vẫn không thấy, được rồi lại chẳng phí công phu”. Đây chỉ là bề mặt, trước đó không biết họ đã tốn bao công phu, để chẩy bao nhiêu mồ hôi, có khi vỡ đầu chẩy máu. (Học Thành cư sĩ)
Như
vậy mà có thể ngộ được sao ? Thật là không thể tưởng
tượng được. Lúc đó đại khái là mùa đông, Bách Ttrượng
muốn gây lại bếp lửa để sưởi ấm, do đó sai Quy Sơn
xem trong tro còn lửa không để cho thêm củi vào đốt. Quy
Sơn bới tro thấy không còn lửa. Bách Trượng cũng không chắc
là còn lửa không nhưng vẫn thử, kết quả là tìm thấy một
tinh hoả. Bách Trượng liền hỏi : “Đây chẳng phải là
lửa sao ?” Quy Sơn tức thời khai ngộ. Đây hoàn toàn là
ngẫu nhiên. Bách Trượng không có sắp đặt trước để Quy
Sơn khai ngộ. Quy Sơn vì sao khai ngộ ? ông dụng công đã lâu
nhưng trong tâm vẫn còn chưa có một điểm khí lực, ngộ
cảnh vẫn chưa tới. Khi bới tro tìm lửa ông vốn không tin
là có lửa. Khi sư phụ bới lại tìm ra lửa. Như tia điện
chớp ông nhận ra rằng sự việc tưởng rằng không tồn tại
lại tồn tại. Cái ông không thấy vốn vẫn ở đó. Đây
cũng như trí huệ và ngộ cảnh. Chúng vốn có chứ không phải
thêm vào tâm cái gì, cũng không phải hướng ra ngoài mà tìm.
Vốn cho rằng không có, nhưng kỳ thật ngộ cảnh ở ngay trong
tâm. Quy Sơn khai ngộ là như thế.
Thánh Nghiêm. (Xem thêm công án 1062)
2090.- Hai con trâu bùn húc nhau.
Động
sơn Lương Giới hỏi Đàm Châu Long Sơn :
-Hoà
thượng thấy đạo lý gì mà trú ở núi này ?
-Tôi
thấy hai con trâu bùn húc nhau, tiến vào bể cho đến nay vẫn
chẳng có tin tức gì ?
(Công Án 100)
Câu hỏi của Động Sơn có nghĩa là hoà thượng làm sao khai ngộ và ngộ cảnh như thế nào ? Câu đáp của Long Sơn nói lúc trước khai ngộ tự ngã rất cố chấp, gập cái gì cũng tranh đấu. Tự ngã đấu với ngoại cảnh rồi tự ngã đấu với nội tâm. Niệm sau đấu với niệm trước, hiện tại đấu với quá khứ, v . v . Về sau ngoại đấu và nội đấu đều không phát sanh nữa, giống như trâu bùn vào biển bị tan biến, thái bình vô sự. Lúc đó mới thấy rằng : đấu đá chỉ là hư ảo, tình chấp. Khi có trí huệ rồi thì thấy đối lập chỉ là một. (Xem thêm công án 953)
2091.- Xấu đẹp đều khởi ở tâm.
Song
Phong Đạo Tín bảo Pháp Dung :
-Cảnh
không có xấu đẹp, xấu đẹp là do tâm khởi.
(Công Án 100)
Người khai ngộ thấy tất cả các hiện tượng ở thế gian này không kể xấu đẹp đều tự nhiên bình đẳng. Mùa Xuân hoa cỏ tươi tốt, mùa Hạ nóng bức, mùa Thu lá vàng rơi rụng, mùa Đông lạnh giá đều không phải vì người tốt hay xấu mà thị hiện. Các phán đoán thường thay đổi, khác nhau tuỳ theo tuổi tác, giáo dục, tu dưỡng, tín ngưỡng v . v . Do nhận thức chủ quan và những điều kiện khách quan luôn biến hoá nên những phán đoán không có tính cách cố định ba hồi thấy xấu, ba hồi thấy đẹp. Bất luận là trong tâm hay ngoài tâm, tất cả đều là quá trình tụ tán của nhân duyên. Tất cả đều vô thường, vì vậy không có một hiện tượng nào là vĩnh viễn đẹp hay xấu. Những người chưa khai ngộ, do tập quán phân biệt chấp trước, không tự chủ được. Khi khai ngộ rồi dù tâm phân biệt xuất hiện không bị phiền não, nếu có phiền não liền hoá giải được ngay. Thí dụ thấy một người làm ác liền khởi tâm từ bi thương xót chứ không khởi tâm oán hận, thấy một bông hoa đẹp biết đó là đẹp nhưng không khởi lòng tham, ngắt nó đem về cắm trong bình bông ở nhà. Thiền tông rất trọng sự tĩnh hoá nội tâm.
2092.- Ông khéo chăn trâu.
Thạch
Củng trước khi xuất gia là một gã thợ săn, sau theo Mã Tổ
tu hành. Một hôm đang làm việc trong bếp, gập lúc Mã Tổ
đến kiểm soát. Mã Tổ hỏi :
-Ông
đang làm gì đó ?
-Thưa
con đang chăn trâu.
-Ông
chăn làm sao ?
-Khi
trâu vào bụi ăn cỏ, con lấy thừng xỏ mũi dắt trâu về.
-Ông
thật biết chăn trâu.
(Công Án 100)
Thiền tông thường dùng trâu để chỉ nội tâm, chăn trâu là tu tâm, làm sao gìn giữ tâm, huấn luyện tâm khiến từ những phiền não tạp loạn đạt được cảnh giới thanh tịnh vô tâm. Lúc đó Thạch Củng đang đun bếp, nếu thấy tâm không chú ý vào việc đun bếp liền lôi tâm lại, không ngừng huấn luyện chính mình đạt đến trình độ niệm niệm vô nhị dụng (chỉ chăm chú vào một việc) là công phu của Thiền. Có thể nói Thạch Củng đã có thể nghiệm ngộ cảnh đo đó biết rõ trạng huống tâm niệm, thấy tạp niệm xuất hiện liền phát giác ra ngay, trở về chính niệm. Nếu thấy mình sai liền đổi, nếu thấy người sai cũng nên bao dung tha thứ đừng làm thương tổn người ta khiến ích lợi cho người mà mình cũng trở nên chín chắn hơn. (Xem thêm công án 59)
2093.- Một cỗ quan tài, hai xác chết.
Có
ông tăng hỏi Đại Mai Pháp Thường :
-Xin
thiền sư cho biết thế nào là ý Tây sang ?
-Tây
sang không ý.
Thiền
sư Tế An nghe được vấn đáp này phê bình :
-Một
cỗ quan tài, hai xác chết.
(Công Án 100)
Đối
với người thường : Ý Tây sang là câu hỏi : Tổ Đạt Ma
từ Ấn Độ sang Trung Hoa mang đến kinh gì ? dậy phương pháp
gì ? truyền tâm ra sao ? Thực ra tổ Đạt Ma chẳng mang đến
một pháp nào cả, chỉ là bảo cho biết ai cũng có Phật tánh,
đều có khả năng thành Phật. Câu hỏi này trong Thiền tông
thường dùng để chỉ không thể dùng lời nói mà diễn tả
chân lý được. Trong công án này ông tăng dĩ nhiên đã biết
điều này nhưng vẫn cứ hỏi. Đại Mai nói rõ ra Tây sang
không ý là để điểm tỉnh ông tăng có thể khiến ông tăng
tỉnh ngộ. Câu đáp này cũng chẳng có gì là sai. Câu phê
bình của Tế An có nghĩa là câu nói của Đại Mai không có
sinh cơ, không thể làm người khai ngộ. Một người hỏi có,
một người đáp không chỉ là những lời dỡn chơi, xem ra
thì có hỏi có đáp nhưng không chỉ ra những tin tức gì của
“Ý Tây sang”. Thực ra Tế An chỉ muốn cảnh giác mọi người
đừng bắt chước cổ nhân như vẹt học nói tiếng người
làm mất đi tính sáng tạo của mình.
(Xem
thêm công án 134)
2094.- Tôi kêu viện chủ.
Một
hôm Quy Sơn Linh Hựu bỗng kêu :
-Viện
chủ !
Viện
chủ vội chạy đến, Quy Sơn hỏi :
-Tôi
kêu viện chủ, ông tới làm gì ?
Viện
chủ không biết làm sao trả lời.
(Công Án 100)
Đối
với viện chủ, khi phương trượng gọi, ông chạy tới, ông
đâu có sai. Nhưng Quy Sơn nhân lúc ông không phòng bị cho ông
một gậy để kích thích ông :
1.
Ông không nhất thiết là viện chủ.
2.
Viện chủ và ông là một sao ?
3.
Viện chủ chỉ là một danh từ, ông là danh từ sao ?
Nếu
ông là viện chủ khi Quy Sơn gọi ông có tới không ? Ông trả
lời sao ? Có 2 trường hợp :
1.
Ông đã khai ngộ : ông dùng một động tác hay một câu nói
để diễn tả ngộ cảnh.
2.
Ông sẽ cum cúp chạy tới chờ sai bảo như viện chủ trong
công án này.
Một
số người cho tự ngã và tánh danh là một, cho nên đã sản
sinh ra một tự ngã rất kiên cố. Sự thực thì tánh danh và
tự ngã này chỉ là giả, không tuyệt đối, không bất biến.
Nếu có người tán dương ông, ông liền cao hứng, nếu có
người chửi rủa ông, ông liền tức giận. Nhưng sự thực
danh tự có liên quan gì đến ông ? Sự kết hợp danh tự và
thân tâm đã sản sinh ra phiền não.
(Xem
thêm công án 321)
2095.- Đợi trời sáng hãy đi.
Triệu
Châu Tòng Thẩm hỏi Đầu Tử Đại Đồng :
-Tình
cảnh chết đi sống lại như thế nào ?
-Đêm
tối đừng đi, đợi trời sáng hãy đi.
(Công Án 100)
Câu
hỏi của Triệu Châu là ý gì ? Chết đi sống lại là chỉ
đã hồi phục được trí huệ, phiền não biến thành bồ
đề, vô minh biến thành trí huệ: đó là ngộ cảnh. Lúc đó
tâm cảnh như thế nào ? Vũ trụ quan và nhân sinh quan có biến
đổi không và biến đổi tới mức độ nào ? hay là không
biến đổi và nếu như vậy tại sao lại gọi là giác ngộ
? Đầu Tử không chơi chữ cũng không nói vòng vo, mà nói huỵch
toẹt ra :
-Đêm
tối đừng đi, đợi trời sáng hãy đi.
Đi
đêm ở đây có 2 ý nghĩa :
1.
Ông còn chìm đắm, lần mò trong đêm tối phiền não.
2.
Ông không trông thấy rõ mặt người cũng như không trông rõ
mặt mình. Thân thể mình đầy sẹo, nhưng không chịu thừa
nhận, cũng không muốn người khác trông thấy.
Đợi
trời sáng hãy đi là bỏ xuống hết mọi phiền não, mọi
hành vi đen tối, để cho ánh sáng trí huệ phát huy đến tận
cùng là thành Phật mới thôi. Vì người tu Thiền ngộ cảnh
có nông, có sâu cho nên khi có được chút cảm ứng đừng
cho là đủ rồi, vẫn phải nỗ lực cho tới đích. (Xem thêm công án 54)
2096.- Phật nói hay là ma nói.
Quy
Sơn hỏi Ngưỡng Sơn :
-Trong
40 cuốn kinh Đại Niết Bàn có bao nhiêu là lời Phật nói,
có bao nhiêu là lời ma nói ?
-Toàn
là ma nói.
-Từ
giờ trở đi, trong thiên hạ không còn ai làm phiền ông nữa.
(Tứ Lý Thiền)
Phật giáo chủ trương Phật pháp là pháp bất nhị và mọi pháp đều bình đẳng. Do đó Phật pháp và ma pháp đều bình đẳng bất nhị. Đối với một số người thì Phật, ma, thiện ác không thể trộn lẫn được.
2097.- Cách sông phẩy quạt.
Thiền
sư Cao Đình Giản đến tham bái Đức Sơn Tuyên Giám. Mới
tới bờ sông đã thấy Đức Sơn ở bờ bên kia, bèn lớn
tiếng hỏi :
-Lão
thiền sư, con không biết làm sao để hiểu Thiền ?
Đức
Sơn không trả lời, chỉ giơ quạt lên phẩy một cái. Giản
thiền sư lập tức khai ngộ, cũng không nói năng gì, đi thẳng
không ngoảnh cổ lại.
(Tứ Lý Thiền)
Từ
đằng xa thấy có khói là biết có lửa. Cách sông phẩy quạt,
đi cũng không ngoảnh cổ lại là giai thoại của Thiền tông.
Mỗi cử mỗi động đều xúc phát thiền cơ. Đương các ông
có chuyện làm nhức óc, hãy bỏ cả xuống, tới nơi u vắng,
tâm sẽ dịu lại .
(Xem
thêm công án 1573)
2098.- Tự có quần áo.
Vân
Cư Đạo Ưng sai thị giả mang quần áo tặng một vị am chủ.
Vị am chủ này nói :
-Tôi
không dùng quần áo này. Từ khi mẹ sanh, tôi đã có quần
áo rồi.
Thị
giả trở về thuật lại, Vân Cư sai thị giả quay lại hỏi
:
-Khi
mẹ ông chưa sanh ra ông, thì ông mặc quần áo gì ?
Am
chủ không trả lời được. Về sau khi ông qua đời, lúc hoả
táng có lưu lại nhiều xá lợi. Thị giả trình chuyện này
cho Vân Cư nghe. Vân Cư nói :
-Dù
có cả đấu xá lợi đi nữa cũng chẳng bằng trả lời được
câu hỏi của tôi.
(Tứ Lý Thiền)
Thiền tông đặc biệt chú trọng đến kiến địa, là nhận thức trực tiếp đối với vũ trụ và đối với chính mình căn cứ trên sự thể nghiệm của chính mình. Trong Tam học (giới, định, tuệ) nếu chỉ coi trọng giới, định mà xem nhẹ tuệ thì không có nhận thức này, không thể chân chính vào cửa Phật.
2099.- Pháp đường sắp đổ rồi.
Dược
Sơn Duy Nghiễm trước khi lìa đời hô lên :
-Pháp
đường sắp đổ rồi ! Pháp đường sắp đổ rồi !
Tăng
chúng vội vàng chạy đến ôm cột trụ ở pháp đường.
Dược
Sơn giơ tay than :
-Các
ông không hiểu ý tôi !
Nói
xong liền mất.
(Công Án 100)
Dược
Sơn và các đệ tử hiểu nghĩa pháp đường khác nhau. Tăng
chúng nghĩ pháp đường là toà kiến trúc, còn Dược Sơn thì
coi thân thể là một toà pháp đường để giáo hoá chúng
sanh. Sắp lìa đời không còn pháp đường để thuyết pháp
nữa nên Dược Sơn nói pháp đường sắp đổ. Trong thiền
viện, pháp đường quan trọng hơn thiền đường. Thiền đường
là chỗ chư tăng ngồi thiền, còn pháp đường là nơi đại
chúng tụ lại để nghe thiền sư giảng pháp. Ai có câu hỏi
gì thì nêu lên thiền sư sẽ dùng cơ phong để thúc đẩy
sự khai ngộ của thiền sinh. Nay pháp đường đã đổ, chư
tăng đã đánh mất cơ hội khai ngộ. Thực ra mọi người
đều có pháp đường riêng của mình, chỉ là đa số còn
chưa khánh thành, còn chưa xử dụng. Pháp đường của Dược
Sơn đổ rồi, khuyến khích đại chúng hãy xử dụng pháp
đường của chính mình. Bất kể lúc đó đại chúng có hiểu
không, nhưng cho đến bây giờ chỉ thị của Dược Sơn đối
với chúng ta vẫn còn hữu dụng.
(Xem
thêm công án 1359)
2100.- Công đức thiên, hắc ám nữ.
Hoàng
Long Huệ Nam một hôm thượng đường bảo đại chúng :
-Có
một người sáng xem kinh Hoa Nghiêm, chiều coi kinh Bát Nhã ngày
đêm chuyên cần không hề lười biếng. Lại có một người
không tham thiền, không luận nghĩa, cả ngày chỉ ngủ. Hai
người này đều đến đây. Một người hữu vi, một người
vô vi, người nào mới đúng ?
Lâu
lắm không có ai trả lời, Hoàng Long lại nói :
-Là
người có trí huệ thì Công đức Thiên và Hắc ám Nữ đều
không muốn.
(Công Án 100)
Hoàng
Long Huệ Nam mô tả tác phong của người Hữu vi và người
Vô vi rồi hỏi ai đúng ? Không ai trả lời được nên ông
tự trả lời :
-Cả
hai tôi đều không muốn !
Công
án này bao gồm ba tầng lớp :
1.
Hữu vi
2.
Vô vi
3.
Vượt lên hữu vi và vô vi.
Loại
người 1: sáng chiều coi kinh, dụng công không lười biếng
là hữu vi.
Loại
người 2 : Không tham thiền, chỉ ngủ, bề ngoài thấy là lười
biếng, nhưng thật ra là người đã giải thoát, có ai cần
giúp thì giúp, lúc cần làm thì làm, đây là vô vi.
Hoàng
Long dùng công đức thiên và hắc ám nữ để tỷ dụ.
Công
Đức Thiên còn gọi là Cát Tường Thiên Nữ là em gái của
tài thần Tỳ Sa Môn Thiên Vương, tướng mạo đẹp đẽ, có
thể giúp chúng sanh thành tựu công đức. Hắc Ám Nữ còn
được gọi là Đại hắc Thiên là chiến thần, mặt lộ phẫn
nộ, nhe nanh cọp, có tám tay cầm võ khí, đầu lâu, rắn độc
v . v . có thể hàng phục các ma, tại Thiền tông biểu thị
không bị phiền não làm lay động. Người không có trí huệ
thích Công Đức Thiên và sợ Hắc Ám Nữ không biết rằng
tướng mạo họ khác, nhưng bản thể thì đồng. Người có
trí huệ thì không chấp vào người nào mà vượt lên cả
2. Trong mắt Hoàng Long loại người 1 chưa tu thành, loại người
2 thì bất kể tu hành hay không, chưa ngộ hay đã ngộ ông
đều coi như nhau, không vì hữu vi hay vô vi mà bị ảnh hưởng,
thế mới là đại tự tại.
2101.- Sa di có chủ.
Thiếu
niên Ngưỡng Sơn đến tham Quy Sơn Linh Hựu. Quy Sơn hỏi :
-Ông
là sa di có chủ hay vô chủ ?
-Con
là sa di có chủ.
-Chủ
ở đâu ?
Ngưỡng
Sơn đi từ Tây sang Đông rồi đứng lại. Quy Sơn nhận rằng
ông rất khác người.
(Công Án 100)
Thường
sa di phải theo Thế Độ sư, đến tròn 20 tuổi mới thọ giới
Tỳ kheo nếu thầy còn đủ kiến thức để dạy thì sa di
vẫn theo bên, gọi là sa di có chủ, là sa di vẫn còn dưới
sự giám hộ, chăm sóc của Thế độ sư. Ngưỡng Sơn còn
trẻ đã ly khai Thế độ sư đến Quy Sơn tham học, không còn
ở bên Thế độ sư. Ngưỡng Sơn nói mình là sa di có chủ
không phải là bảo Thế độ sư ở bên cạnh mà là biểu
thị chính mình là chủ. Thông thường nhân vì Thế độ sư
không hiểu phương pháp tu hành, không hiểu nghĩa lý Phật
pháp nên bảo đi tìm những bậc thiện tri thức mà tu học
Phật pháp.
Câu
Quy Sơn hỏi : “Ông là sa di có chủ hay vô chủ” có 2 nghĩa
:
1.
Ông xuất gia ở đâu ? Thế độ sư là ai ?
2.
Ông đã làm chủ được mình chưa ? đã chỉ huy, săn sóc,
giúp đỡ được mình chưa ? đã làm chủ được thân, khẩu,
ý chưa ?
Câu
đáp của Ngưỡng Sơn : “Con là sa di có chủ, cũng có
2 nghĩa :
1.
Con có Thế độ sư.
2.
Con có thể làm chủ.
Quy
Sơn lại hỏi :
-Chủ
ở đâu ?
Câu
này cũng có 2 ý :
1.
Thế độ sư của ông ở đâu ?
2.
Ông nói ông làm chủ được mình, ông chủ ấy ở đâu ?
Ngưỡng
Sơn không nói dùng động tác để biểu thị mình làm chủ
được mình, muốn làm gì thì làm, có thể chỉ huy an định
được chính mính. (Xem thêm công án 1018)
2102.- Trực dụng, trực hành.
Có
ông tăng hỏi Đại Châu Huệ Hải :
-Làm
sao để được giải thoát ?
-Vốn
không có ai trói đâu cần cởi trói. Trực dụng, trực hành
là chân giải thoát.
(Công Án 100)
Trong công án này một người đòi giải thoát còn một người bảo không cần giải thoát, chỉ cần lấy tâm chính trực làm chuyện chính trực thì đó là giải thoát. Có một số người cứ nhận định rằng mình bị hoàn cảnh làm khốn quẫn, bị người làm phiền nhiễu, tự tâm mâu thuẫn buồn phiền dẫn tới bất hạnh. Nhìn bề ngoài thì có vẻ có lý, nhưng sự thực thì hoàn cảnh làm mình khốn khổ hay chính mình tự làm khổ mình ? Vì thế Đại Châu mới nói người tu hành đừng cầu giải thoát, đừng hy vọng người nào giúp mình giải thoát, chỉ cần tâm không cầu gì, không sợ hãi gì, không lẩn tránh gì, không bị quái ngại gì thì đó là giải thoát. Quái ngại là khi chưa được, cầu được, khi được rồi lại sợ mất, hoặc cho là chưa đủ, còn muốn thêm nữa, đương nhiên là vĩnh viễn không được giải thoát. Trực dụng là chỉ các hành vi của thân và tâm vận dụng một cách hợp lý. Trực hành là các hành vi của thân, khẩu, ý chính trực không cong queo, không hoài nghi, không kiêu ngạo, không tự ty, không đố kỵ, không đắc ý v . v .
2103.- Lão tăng háo sát.
Triệu
Châu Tòng Thẩm cùng chư tăng ra vườn dạo chơi, một con thỏ
trông thấy kinh hãi bỏ chạy. Có ông tăng hỏi :
-Hoà
thượng là bậc đại thiện trí thức, làm sao con thỏ lại
sợ ?
-Vì
lão tăng háo sát.
(Công Án 100)
Trong
kinh Phật có chép các con vật như thỏ, bồ câu thường thân
cận với Phật, không hề sợ hãi. Các vị cao tăng đại đức
cũng có nhiều con vật thân cận, thậm chí còn có ác thú
làm bạn hoặc làm đồ đệ. Triệu Châu là vị cao tăng đắc
đạo, dĩ nhiên lòng từ bi có cảm hoá lực lớn đáng nhẽ
con thỏ phải không sợ hãi mới phải chứ ?
Câu
hỏi của ông tăng có thể giải thích :
1.
Có thể con thỏ không sợ Triệu Châu, nhưng sợ những người
đi theo ông.
2.
Con thỏ không có thiện căn : sợ người, sợ vật chỉ cần
gió thổi cỏ lay là đã sợ rồi, kể gì là Triệu Châu từ
bi hay không từ bi.
Câu
đáp của Triệu Châu cũng có 2 ý :
1.
Lão tăng vốn không sát sanh, nhưng vì ông hỏi nên chỉ còn
cách trả lời là thỏ sợ bị lão giết. Kỳ thật tôi giết
hay không giết là chuyện của tôi, con thỏ nhận là tôi háo
sát là chuyện của nó, nên nó chạy trốn.
2.
Người tu hành khi khai ngộ rồi gập cảnh không khởi tâm
phân biệt, không chấp vào cảnh gọi là giết cũng như Văn
Thù cầm kiếm trí tuệ không chấp có không, thiện ác, ma
Phật, gập bất cứ cảnh nào cũng giết đó chẳng phải là
háo sát sao ? Triệu Châu cùng chư tăng đi dạo, con thỏ sợ
bỏ chạy, ông tự mình nhận trách nhiệm : “Lão tăng háo
sát”. Người phàm khi gặp chuyện thường đổ trách nhiệm
cho người khác chứ ít khi chịu gánh trách nhiệm .
(Xem
thêm công án 2)
2104.- Mỗi ngày chỉ xem một chữ.
Triệu
Châu Tòng Thẩm hỏi một ông tăng ;
-Một
ngày ông xem bao nhiêu kinh ?
-7,
8 quyển hoặc 10 quyển.
-Ông
không biết xem kinh.
-Sư
phụ một ngày xem bao nhiêu kinh ?
-Lão
tăng một ngày chỉ xem một chữ.
(Công Án 100)
Thời cổ, kinh Phật được chép trên những thanh trúc, mỗi quyển đại khái có chừng một vạn chữ. Một ngày xem 10 quyển là chính thường. Triệu Châu không cho là phải. Mỗi ngày ông chỉ xem một chữ. Chữ đó là chữ gì ? Triệu Châu không cho biết. Nhưng Triệu Châu có lưu lại một công án “Con chó không có Phật tánh, cũng còn gọi là “Vô tự công án”. Người sau tham công án này rất kỹ, tham tới khi trong tâm không còn gì khác ngoài chữ Vô, không ngừng tự hỏi Vô là cái gì ? Đó cũng có thể coi là chỉ xem một chữ. Một có thể nói là tâm thống nhất, không nhị dụng, nhất tâm nhất ý. Làm bất cứ việc gì cũng dùng thái độ chuyên tâm nhất ý thì sự gì làm không được ? Sự gì mà chả thành ? Lúc tu hành, tâm không phân biệt, không chấp trước, không dụng công thì nhất định sẽ khai ngộ. (Xem thêm công án 529)
2105.- Ăn cháo chưa ?
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu Tòng Thẩm :
-Đệ
tử còn mê, xin sư phụ chỉ thị.
-Ông
ăn cháo chưa ?
-Dạ,
đã !
-Vậy
đi rửa bát đi.
Ông
tăng ngay khi đó khai ngộ.
(Công Án 100)
Công án này rất nổi danh gọi là “Cháo Triệu Châu”. Lúc đó có lẽ đã quá bữa sáng và ông tăng có lẽ là từ nơi khác đến tham học. Triệu Châu chỉ hỏi một câu trong sinh hoạt hàng ngày. Chẳng lẽ ăn cháo và rửa bát lại có thể khai ngộ ? Lúc ăn cháo thì ăn cháo, ăn cháo xong thì rửa bát. Đó là sinh hoạt hiện thực. Ngộ cảnh cũng không thể lìa hiện thực. Nhiều người cho rằng khai ngộ là một cái gì sâu xa không thể đo lường được, huyền diệu không thể biết hoặc nói được. Kỳ thật trong sinh hoạt hàng ngày mỗi cử mỗi động đều là chân lý hiển lộ. Ông tăng tưởng là phải bị đánh một gậy, bị hét một tiếng, phải trải qua nhiều giai đoạn ly kỳ, thâm ảo, huyền diệu mới tới được ngộ cảnh, nào ngờ Triệu Châu chỉ dùng một câu nói giản dị, bình thường mà phiền não biến mất, ngộ cảnh hiện tiền. Thiền là ngay trong hiện tại, hiện tại không có được, mất. Được, mất là thuộc về quá khứ, vị lai, tuyệt đối không ở trong hiện tại. Nếu chỉ sống trong hiện tại không tính toán, không bẻ cong nhận thức thì thấy mọi người chung quanh đều đáng yêu đều đồng cảm, đó chẳng phải là tự tại giải thoát ư ? (Xem Thêm công án 1073)
2106.- Muỗi đốt trâu sắt.
Vân
Nham Đàm Thạnh hỏi sư phụ là Quy Sơn Linh Hựu :
-Tướng
mạo của Bách Trượng (sư phụ của Quy Sơn) ra sao ?
-Cao
lớn hùng tráng, trước khi mở miệng không tiếng, sau khi chết
không thân. Ông hãy như con muỗi đốt trâu sắt.
(Công Án 100)
Câu
hỏi của Vân Nham Đàm Thạnh có nghĩa là Bách Trượng biểu
hiện ra tướng Phật như thế nào ? Sau khi đáp là cao lớn
hùng vĩ, Quy Sơn lại thêm khi chưa mở miệng thì không có
tiếng, nhục thân chết rồi thì không còn hình thể. Tại
sao lúc trước có hình dung có thanh, có sắc lúc sau lại không
thanh, không sắc ? Đây không phải là chỉ ra mâu thuẫn mà
là chỉ cho Đàm Thạnh đừng chấp trước. Ông muốn tôi tả
ra tướng của Bách Trượng, tôi tuy có diễn tả ra nhưng đó
không phải là tâm cảnh của Bách Trượng, không phải là
ngộ cảnh biểu hiện cảnh giới Phật, ông hãy như con muỗi
đốt trâu sắt, không có chỗ để cắm vòi vào mà chích.
Muỗi
đốt trâu sắt là một dụng ngữ của Thiền tông , có 2 ý
:
1.Ngộ
cảnh không thể dùng lời để diễn tả.
2.Khi
chưa ngộ nên biết mục đích là con trâu sắt, mình là một
con muỗi, phải cố gắng liên tục để cắm vòi vào chích.
Dùng suy luận thì không thể vào, nhưng đứng về phương diện
công phu thì chỉ có như thế mới đạt được mục đích.
Khi dụng công không dùng sức, không mong mỏi, không chờ đợi,
cuối cùng quên cả mình đang dụng công, quên cả mục đích,
bỏ tất cả trong ngoài, chủ khách xuống. Đó là giác ngộ.
2107.- Tay cầm tang vật còn kêu oan.
Đại
Mai Pháp Thường hỏi Mã Tổ Đạo Nhất :
-Phật
là thế nào ?
-Tâm
là Phật.
Vô
Môn Huệ Khai có bài kệ :
Ban
ngày sáng tỏ
Chớ
đi tìm quanh
Lại
hỏi sao thế ?
Cầm
vật kêu oan.
(Xem
nguyên văn chữ Hán tắc 30 trong Cửa Không Cửa)
(Công Án 100)
Hạng người này chúng ta thường thấy trong xã hội, ngay chính chúng ta cũng thuộc hạng đó. Tự mình không làm đủ trách nhiệm lại còn nhận mình là người bị hại. Tự mình làm sai lại đổ thừa cho hoàn cảnh và người khác đúng như câu “Vừa đánh trống vừa ăn cướp”. Ý câu nói này là phiền não là do mình tạo ra, lại còn oán trời, oán người. Rượu không làm say người, người tự say. Tự mình say sưa lại còn nói là bị rượu làm hại. Ai bảo ông uống rượu ? Rượu là chất độc. Ông say vì ông không có cách nào tự chủ, không quản lý được chính mình. Nếu như ông quản lý được tâm mình, biết rõ mình đang nghĩ gì, làm gì ? Cái gì nên làm, cái gì không nên làm, cái gì nên muốn, cái gì không nên muốn, thì lúc đó người ta có đút tang vật vào tay ông, ông cũng không nhận, há phải đợi đi lấy trộm ? Người ta đưa tài vật cho ông là có nguyên nhân, ông không nhận sẽ không bị phiền não. Trên đời này có nhiều chuyện oan thật, chỉ cần có cơ hội là phải minh oan. Nhưng tay cầm tang vật mà kêu oan thì đó là lỗi ở mình, do sự sơ sót của mình, phải sám hối. Người trí không vĩnh viễn làm sai. Đừng đổ trách nhiệm cho người khác, đừng vu oan giá hoạ cho người thì tâm luôn luôn được bình thản.
2108.- Người mù theo người mù.
Có
ông tăng hỏi Đại Điên Bảo Thông :
-Biển
khổ sóng lớn, dùng thuyền bè nào để qua ?
-Lấy
gỗ đóng thuyền mà qua.
-Làm
vậy mà qua được sao ?
-Người
mù theo người mù đi trước, người câm theo người câm đi
trước.
(Công Án 100)
Ông
tăng hỏi Đại Điên Bảo Thông phải dùng phương pháp nào
để qua cửa sanh tử phiền não ? Chúng ta thường nghe nói
Phật pháp là con thuyền từ đưa chúng sanh sang bờ bên kia.
Nhưng Phật pháp là gì ? Nhiều người niệm kinh cũng chưa
khai ngộ, nghe giảng Phật pháp cũng chưa lìa khổ được vui,
ông tăng nghĩ nhất định phải có một cửa để qua nên hỏi
Đại Điên. Đại Điên cũng không chỉ ra một phương pháp
gì thần bí, kỳ lạ, chỉ thuận mồm đáp :
-Ông
dùng gỗ đóng thuyền là có thể thoát được sóng lớn mà
qua bờ bên kia.
Ông
tăng không hiểu, nghĩ thuyền gỗ chỉ qua được biển nước,
còn biển khổ làm sao qua? Thực ra, thuyền gỗ và biển khổ
đều là tỷ dụ. Thuyền gỗ là chỉ Phật pháp. Phật nói
tất cả các pháp đều là Phật pháp, lại nói “phi pháp,
phi phi pháp là Phật pháp”, còn nói Phật chưa hề nói một
pháp. Chỉ cần bỏ thuyền xuống leo lên bờ là qua được
biển khổ, còn thắc mắc gì nữa ? Do đó Đại điên mới
nói :
-Người
mù theo người mù đi trước. Ông đã giảng rõ rồi, ai muốn
qua biển khổ thì lấy gỗ đóng thuyền mà qua. Đã chỉ cho
ông tăng rồi mà ông ta nhìn không thấy, chẳng là mù
thì là gì ?
(Xem
thêm công án 334)
2109.- Bức hoạ tổ sư.
Đời
Đường, tể tướng Bùi Hưu đến Khai Nguyên tự dâng hương.
Bùi Hưu chỉ bức tranh treo trên tường hỏi viện chủ :
-Vẽ
gì vậy ?
-Vẽ
tổ sư.
-Tranh
ở đây, còn tổ sư ở đâu ?
Viện
chủ không trả lời được.
(Công Án 100)
Đối
thoại này như một đoản kịch. Tiếc rằng Bùi Hưu tuy thông
minh nhưng không phải là một thiền sư, và viện chủ thì
lại chưa khai ngộ, nếu không thì trong 2 người sẽ có một
người nhân đó mà ngộ. Bùi Hưu lại hỏi trong chùa có vị
thiền sư nào không xin mời ra gặp mặt. Vừa may lúc đó Hoàng
Bá vừa đến quải đơn. Viện chủ bèn mời ra. Bùi Hưu lập
lại câu hỏi. Hoàng Bá nói :
-Bùi
Hưu.
Bùi
Hưu ngay đó tỉnh ngộ. Vì sao ông ngộ ? Khi ông hỏi tổ sư
ở đâu là ông tâm ông đã lìa lúc này, ở đây mà vin vào
một duyên ở một thời gian khác, một không gian khác. Hoàng
Bá lên tiếng gọi là kéo tâm ông trở lại, tự quán sát
tự tâm mà kiến tánh. Giả sử lúc đó Hoàng Bá nói tổ sư
ở Tây phương cực lạc hoặc ở một Phật quốc nào đó,
thì đó chỉ là tín ngưỡng đối với Bùi Hưu không có ích
lợi gì cho việc soi sáng tự tâm cả. Chỉ có cách đừng
hướng ra bên ngoài, vin vào một duyên nào đó mà vọng tưởng
thì mới thể nghiệm được hiện tại, vấn đề của mình
còn chưa giải quyết còn hỏi những chuyện không liên quan
gì đến mình làm chi ? Bùi Hưu lúc đó bỏ xuống vạn duyên,
mới thật là khai ngộ. Cao đồ gập minh sư chỉ cần điểm
nhãn là rồng có thể bay lên. Nếu không phải là Bùi Hưu
mà là một người khác, Hoàng Bá cũng dùng thủ pháp này thì
chưa chắc người đó đã ngộ. (Xem thêm công án 269)
2110.- Hòn đá toát mồ hôi.
Có
ông tăng hỏi Thạch Sương Khánh chư :
-Thế
nào là bản phận sự của hoà thượng ?
-Hòn
đá còn toát mồ hôi sao ?
(Công Án 100)
Bản
phận sự là thành Phật, khai ngộ, giải thoát. Hễ đã khai
ngộ tất có tâm đại từ bi để quảng độ chúng sanh. Nếu
như khai ngộ mà không độ chúng sanh thì không thể thành Phật.
Hòn đá là vô sinh vật làm sao có thể toát mồ hôi? Đây
là tỷ dụ người đã khai ngộ tuy tích cực cứu độ chúng
sanh, nhưng không tưởng đến công đức quả báo, không quái
ngại, không thủ xả, làm sao còn có cái gì gọi là bản phận
sự ? người đó và bản phận sự đã hợp thành một. Một
ngày làm hoà thượng đánh chuông gõ mõ là bản phận sự
trước mắt, làm gì làm cho hết sức là bản phận sự. Làm
việc thiện không cần cho ai biết, bố thí chẳng cần hồi
báo vì làm thiện, bố thí là bản phận sự của Phật tử.
Chung cực của bản phận sự là thành Phật. Thạch Sương
bảo hòn đá không thể toát mồ hôi là dạy chúng ta tận
tâm tận lực mà làm, tâm không mong thành tựu, chờ đợi
gì, nếu không sẽ gập phiền não.
(Xem
thêm công án 392, 2073)
2111.- Dã hồ tinh.
Đời
Đường, Đại Nhĩ Tam Tạng từ Ấn Độ tới Trung Hoa tự
xưng đắc tha tâm thông. Đường Túc Tông yêu cầu quốc sư
Huệ Trung trắc nghiệm. Quốc sư hỏi 2 lần “Tâm lão sư
đang ở đâu ?” Đại Nhĩ Tam Tạng đều đáp trúng, một
lần ở Tứ Xuyên, một lần ở Thiên Tân kiều. Quốc sư hỏi
lần thứ 3, Đại Nhĩ Tam Tạng yên lặng không đáp được.
Quốc sư mắng :
-Dã
hồ tinh ! Tha tâm thông của ngươi ở đâu ?
(Công Án 100)
Thiền
tông không phủ nhận thần thông, nhưng cũng không vận dụng
thần thông để mê hoặc người, bành trướng thế lực. Thần
thông có thực, có giả. Mặc kệ là thật hay giả cũng không
thể đi ngược lại luật nhân quả. Dù có thể dùng thần
thông để ích lợi nhất thời, nhưng hậu quả phải gánh
sẽ nghiêm trọng hơn nhiều.
(Xem
thêm công án 388, 1636)
2112.- Long Đàm thổi tắt đèn.
Khi
Đức Sơn cáo lui, ra ngoài thấy trời tối bèn quay lại thưa
với Long Đàm :
-Bên
ngoài trời tối quá !
Long
Đàm đốt đèn lên trao cho Đức Sơn. Đức Sơn vừa giơ tay
ra, Long Đàm bèn thổi tắt phụt đèn.
(Công Án 100)
Bất
kể chúng ta đang ở đâu, nên nhận định mình ở hoàn cảnh
nào ? trạng huống mình ra sao? không so sánh mình trong quá khứ
và hiện tại, cũng không so sánh mình với người, vì sẽ
sinh ra tự tôn hoặc tự ty, vĩnh viễn bị ngoại cảnh ảnh
hưởng, không làm chủ được mình. Mình là sao thì là vậy.
Ngoài trời tối, có đèn thì càng tốt, không có đèn cũng
chẳng sao. Vượt lên sáng tối, đối lập mới thật là giải
thoát tự tại.
(Xem
thêm công án 1989)
2113.- Có đủ tất cả.
Đại
Châu Huệ Hải hỏi Mã Tổ Đạo Nhất về Phật pháp. Mã Tổ
nói :
-Tâm
có đủ tất cả, không thiếu thốn gì, xử dụng thoải mái,
việc gì phải tìm kiếm ở bên ngoài?
(Công Án 100)
Trong tâm mỗi người đều có đầy đủ điều kiện để thành Phật, không phải tìm Phật pháp ở bên ngoài. Khi sư phụ dẫn vào cửa, phương pháp là do sư phụ chỉ, nhưng khai ngộ là phải nhờ vào chính mình, vào sự dụng công của chính mình. Vốn không có gì gọi là cửa, nỗ lực là cửa, làm sao nỗ lực ? Bỏ xuống cái tâm chấp ngã, tự tư, phiền não, tìm cầu thì có thể kiến tánh thành Phật.
2114.- Đạp đổ tịnh bình.
Có
người đến gặp Bách Trượng , muốn kiếm một người trong
đám môn hạ, thích hợp để làm trụ trì một quả núi. Bách
Trượng chọn Quy Sơn thay vì toạ chủ Hoa Lâm. Hoa Lâm không
phục. Bách Trượng chỉ tịnh bình đặt trên đất bảo :
-Không
gọi là tịnh bình thì gọi là cái gì ? Ai đáp trúng thì sẽ
được làm trụ trì.
Hoa
Lâm đáp :
-Không
gọi là tịnh bình, cũng không gọi là khúc gỗ.
Bách
Trượng lại hỏi Quy Sơn. Quy Sơn không đáp, đạp đổ tịnh
bình, đi ra.
Bách
Trượng cười bảo :
-Hoa
Lâm ! Ông đã thua một toà núi rồi.
(Công Án 100)
Câu
đáp của Hoa Lâm không sai vì tịnh bình và khúc gỗ là 2 vật
khác loại. Quy Sơn vì không nghĩ đến làm trụ trì một toà
núi, không cần biết tịnh bình gọi là gì, không sợ được
thua, trong tâm ông chuyện đó là dư thừa, nên đạp đổ là
xong. Phản ứng này là của người trí. Người hoạn đắc,
hoạn thất trong tâm phản ứng sai lệch. Đem cái tâm sai lệch
đó quan sát hiện tượng thì dĩ nhiên sẽ cho ra những nhận
thức sai lệch, không thể khách quan.
(Xem
thêm công án 210)
2115.- Không mang gì đến.
Nghiêm
Dương hỏi Triệu Châu Tòng Thẩm :
-Con
không mang gì đến thì thế nào ?
-Ông
hãy bỏ xuống đi !
-Con
đã không mang vật gì đến, hoà thượng bảo con bỏ xuống
cái gì ?
-Ông
đã không bỏ xuống được thì mang nó đi.
Nghiêm
Dương ngay đó đại ngộ.
(Công Án 100)
Nhiều
người được sanh ra trong gia đình giàu có, đẹp trai, học
giỏi. Lại có nhiều người khác sanh ra trong gia đình nghèo
khó, xấu trai, học dốt. Đây chẳng phải là do phúc báo,
khổ báo ư ? Nhưng chấp vào nghiệp báo là vẫn còn chấp,
là không bỏ xuống được, là phiền não, là căn nguyên của
thống khổ. Người có trí tuệ thì nhận định rằng khi chúng
ta sanh chúng ta đến với hai bàn tay không, khi chết chúng ta
cũng ra đi với hai bàn tay không, chúng ta chẳng mang gì đến
cũng chẳng mang được gì đi. Cũng không để niệm trước
dắt niệm sau. Trong sinh hoạt hãy làm hết sức mình, tận
hiến hết sức mình. Có thể nhấc lên, cũng có thể bỏ xuống.
Nếu làm được như vậy thì phiền não, đau khổ, hối hận,
khát vọng, lo lắng v . v . đâu còn làm phiền chúng
ta được nữa ? Câu hỏi của Nghiêm Dương có 2 ý :
1.Thế
nào là không mang một vật gì đến.
2.Nếu
đã tu hành tới trình độ không mang một vật gì tới, tức
đã khai ngộ rồi, còn người chưa khai ngộ thì sao ? Nghĩa
là ông đem cái tâm chưa ngộ muốn biết cái tâm khai ngộ
như thế nào ? Câu hỏi của Nghiêm Dương cho thấy ông còn
bị tự ngã làm phiền não. Do đó, Triệu Châu khai thị cho
ông :
-Ông
hãy bỏ xuống đi !
Ý
Triệu Châu là ông hãy bỏ cái vấn đề “mang tới hay không
mang tới cái gì “ xuống đi. Nhưng Nghiêm Dương vẫn chưa
hiểu :
-Nếu
con không mang gì tới thì đâu cần phải bỏ xuống ? Rõ ràng
là ông không biết phải bỏ xuống cái gì ? làm sao bỏ xuống
? Triệu Châu lại giúp ông :
-Được
rồi ! Ông không bỏ xuống được thì hãy mang nó đi.
Cuối
cùng Nghiêm Dương đã khai ngộ. Hiểu được ý của Triệu
Châu :
-Nếu
ông không bỏ xuống được thì ông đã biết không bỏ xuống
được cái gì ? Vậy thì hãy mang nó đi.
Nghiêm
Dương nghĩ lại: Nếu đã không mang gì đến, cũng không cần
mang gì đi, như người đang bệnh tự nhiên khỏi.
(Xem
thêm công án 1)
2116.- Xuống núi làm trâu.
Nam
Tuyền sắp lìa đời, chúng đệ tử hỏi :
-Hoà
thượng qua đời rồi đi đâu ?
-Tôi
xuống núi làm một con trâu.
Có
ông tăng hỏi :
-Con
có thể theo hoà thượng xuống núi không ?
-Nếu
ông muốn theo tôi thì ngậm theo một bó cỏ.
(Công Án 100)
Sư
phụ muốn xuống núi làm trâu, đệ tử không hiểu mình có
đi theo được không ?Câu đáp của Nam Tuyền có nghĩa là tâm
ông còn quái ngại, chưa bỏ xuống được nghiệp chướng
thì không thể tự do đến đi siêu thoát được. Nam Tuyền
không phải đã tạo nghiệp ác mà làm trâu. Vì có người
hỏi chết rồi ông đi đâu nên ông mới thuận mồm nói xuống
núi làm trâu. Đây không phải là dự ngôn mà làm gì cũng
được. Dưới con mắt thiền thì làm một vị Bồ tát hoặc
làm trâu đều như nhau không khác. Nam Tuyền đi đâu là do
nhân duyên chỗ nào cần ông tới thì ông sẽ tới, tuỳ duyên
độ chúng, cùng loại biến hoá, tuỳ nơi mà thị hiện. Ở
trong loài người có thể làm quốc vương, phú ông, ăn mày,
thục nữ . . . Tất cả đều không sắp đặt trước,
không nhất định phải làm gì, không làm gì. Ông muốn đả
phá quan niệm của một số người cho rằng cao tăng chuyển
thế nhất định sẽ làm một vị cao tăng hoặc vãng sanh tịnh
độ. Đó là còn có ngã, có niệm, có tướng là còn chấp,
vì thế khi đệ tử hỏi có đi theo được không là còn chấp.
Sư phụ đã ngộ làm trâu là tuỳ loại ứng hoá, đệ tử
chưa ngộ làm trâu là tuỳ nghiệp thọ báo.
(Xem
thêm công án 1149)
2117.- Nói giống một vật là không trúng.
Nam
Nhạc Hoài Nhượng tham phỏng Lục tổ Huệ Năng, tổ hỏi
:
-Ông
từ đâu tới ?
-Con
từ Tung Sơn Lão An hoà thượng tới.
-Là
vật gì ? Làm sao tới ?
Hoài
Nhượng không trả lời được, ở lại tu học. Tám năm sau
mới khai ngộ, thưa với Lục tổ :
-Con
nghĩ ra rồi.
-Thế
nào ?
-Nói
giống một vật là không trúng.
(Công Án 100)
Nam
Nhạc Hoài Nhượng là một trong 2 đại đệ tử của lục
tổ Huệ Năng, vị kia là Thanh Nguyên Hành Tư. Câu hỏi của
Lục tổ có nghĩa là “Khi cha mẹ chưa sinh ra thì ông là vật
gì “ Nếu theo thường tình thì sẽ đáp :
-Con
tên Hoài Nhượng, từ Tung Sơn Lão An tới.
Là
được rồi. Nhưng ông biết đây không phải là những gì
Lục tổ muốn hỏi. Tám năm sau cuối cùng đã khai ngộ ông
mới đưa ra câu trả lời :
-Nói
giống một vật là không trúng !
Ý
là từ kinh nghiệm nội chứng tự do tự tại, không, rộng
sáng, tĩnh không một vật, nhưng chứa vạn vật, dù nói thế
nào, mô tả thế nào cũng không thể hình dung ra được. Nói
tự mình là cái gì hoặc không là cái gì đều sai vì mọi
dạng đều không phải, mọi dạng đều phải. Nói mình từ
đâu, làm sao tới hoặc không từ đâu, không làm sao tới đều
sai, vì bản tánh mình và chư Phật không những tương thông
mà còn tương đồng. Làm gì còn vấn đề đến đi gì nữa
? Người khai ngộ là người mà vị Phật ngủ yên trong tâm
thức dậy, phát hiện rằng mình vốn không lìa mình thì làm
gì có đến đi. Chưa ngộ và khi đã ngộ sự thể nghiệm
hoàn toàn bất đồng, còn gọi tên là gì ư ? Vị Phật ấy
không có hình tượng không thể miêu tả, không thể hình dung
chỉ có thể thể hội. Nếu có thể thể hội trong tâm không
có phiền não không có đến đi, được mất, không có chấp
trước thì đó là ngộ cảnh chân chính.
(Xem
thêm công án 369)
2118.- Hòn đá trong tâm.
La
Hán Quế Khâm chỉ một hòn đá hỏi Pháp Nhãn Văn Ích :
-Các
vị tổ sư đều nói tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức,
theo ông thì hòn đá này ở trong tâm hay ngoài tâm ?
-Ở
trong tâm.
-Ông
ném hòn đá đó vào tâm để làm gì ?
(Công Án 100)
Tam
giới duy tâm là nói tất cả mọi người, mọi sự, vật đều
từ tâm xuất hiện, lại quay trở về tâm. Ngày nghĩ gì thì
đêm mộng thấy cái ấy, đó là duy tâm. Làm việc thành công
là do để hết tâm vào mà làm đó là duy tâm.Chữ pháp trong
vạn pháp duy thức là chỉ tất cả mọi hiện tượng bất
luận sinh lý, tâm lý, vật lý đều nhân nhận thức, chấp
trước phân biệt tích tụ lại mà thành nghiệp thức. Nếu
một người không có tự ngã làm trung tâm chấp trước thì
bất cứ hiện tượng nào dù tồn tại thì đối với người
ấy cũng như không tồn tại. La Hán dùng câu này để giúp
Pháp Nhãn khai ngộ. Bất kể Pháp Nhãn trả lời thế nào cũng
không tránh khỏi bị mắng. Quả nhiên Pháp Nhãn nghe sư phụ
hỏi, bèn động niệm trả lời :
-Nếu
đã là tam giới duy tâm thì hòn đá dĩ nhiên ở trong tâm.
Câu
trả lời này vừa đúng, vừa sai. Đúng vì tam giới duy tâm,
sai vì không thể ném hòn đá đó vào tâm được.
Do
đó La Hán cho ông một gậy :
-Ông
ném hòn đá đó vào tâm để làm gì ?
Bình
thường hình dung tâm có đeo một hòn đá là biểu thị lo
âu, sợ hãi, bất an. Tuy Pháp Nhãn không có ý này, nhưng câu
đáp đã sai rồi. Hòn đá là hòn đá làm sao ném vào tâm được
? “Tâm” trong tam giới duy tâm là nói có chấp trước. Nói
hòn đá trong tâm là chấp có hòn đá, phân biệt có hòn đá,
đó không phải là cảnh giới khai ngộ. Nếu không có tính
toán, phân biệt được mất, lợi hại, phiền não, chấp trước
thì trong tâm chẳng có hòn đá nào cả. (Xem
thêm công án 1026)
2119.- Đãi gạo.
Tuyết
Phong Nghĩa Tồn ở nơi Động Sơn Lương Giới coi việc bếp
nước. Một hôm đang sàng gạo, Động Sơn đến hỏi :
-Ông
đãi gạo bỏ cát hay đãi cát bỏ gạo ?
-Gạo
và cát đều bỏ.
-Vậy
đại chúng lấy gì ăn ?
Tuyết
Phong không nói, lật đổ sàng gạo.
(Công Án 100)
Theo
thường thức gạo có thể ăn nên giữ lại, cát không thể
ăn nên bỏ đi. Đây là một cặp đối đãi có không, thiện
ác. Động Sơn dĩ nhiên là biết điều này, nhưng vẫn cố
hỏi để trắc nghiệm xem trình độ Tuyết Phong đến đâu.
Tuyết Phong liền đáp :
-Gạo
và cát đều bỏ.
Rồi
sau đó ông lật đổ sàng gạo. Cử động này không phải
là ông chống đối sư phụ mà là diễn tả tâm cảnh của
ông đã vượt lên đối đãi ăn được và không ăn được,
không bị ăn được và không ăn được làm cho tâm bị phiền
não.
(Xem
thêm công án 624, 2000)
2120.- Thai trâu sanh voi.
Có
ông tăng hỏi Vĩnh Minh Diên Thọ :
-Học
nhân ở đây đã lâu mà vẫn không biết thế nào là gia phong
của Vĩnh Minh.
-Ông
hãy từ chỗ không hiểu mà hiểu.
-Đã
không hiểu làm sao hiểu ?
-Thai
trâu sanh ra voi, biển xanh dậy bụi hồng.
(Công Án 100)
Rất
nhiều người cho rằng cảnh giới khai ngộ rất phi thường
thâm ảo, huyền diệu; kỳ thực không phải vậy. Nếu bỏ
xuống được hết tâm tìm cầu, lo lắng, chờ đợi thì đó
là ngộ cảnh. Ông tăng theo học đã lâu nhưng vẫn không biết
Vĩnh Minh truyền thiền pháp gì ? Vĩnh Minh cho ông biết nếu
ông đã không hiểu, vậy thì cứ không hiểu là được rồi.
Nhưng ông tăng vẫn không hiểu nên Vĩnh Minh đành nói :
-Tôi
nói chuyện với ông như đem đàn gảy tai trâu, như thai trâu
sanh voi, như biển xanh dậy bụi hồng. Câu ông hỏi giống
như vô sự mà tạo ra có sự. Cái ông muốn hỏi như lông
rùa, sừng thỏ, vốn không tồn tại, nếu ông còn chưa hiểu
thì hãy thử nghĩ coi thai trâu có thể sanh ra voi ư ?
2121.- Phiền não tức bồ đề.
Lục
tổ Huệ Năng nói :
-Niệm
trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức
bồ đề.
(Công Án 100)
Niệm
trước chấp cảnh sanh ra những cảm thọ tốt, xấu hoặc
những phản ứng khác thì đó là phiền não. Nếu chuyển niệm,
niệm sau lìa mọi phân biệt, chấp trước, tính toán của
niệm trước thì đó là trí tuệ. Tựa hồ như lìa phiền
não là được bồ đề, kỳ thực phiền não và bồ đề đều
cùng một thể, đều là tác dụng của tâm. Hãy lấy một
ví dụ khi ta đi đường gặp một quả núi chắn ngay trước
mặt (phiền não). Trong ví dụ này ta có thể rút ra 2 điểm
:
1.
Không có chuyện gì là không giải quyết được. Nếu không
thể trèo qua núi thì ta tìm đường đi vòng qua ngọn núi,
hoặc một con đường khác (bồ đề).
2.
Không vì thiếu tôi, thiếu ông mà chuyện không thể làm được
(vô ngã). Các người khác có thể tìm ra những cách khác nhau
để vượt qua.
2122.- Hai gương chiếu nhau.
Có
ông tăng hỏi Giáp Sơn Thiện Hội :
-Khi
hai gương chiếu nhau thì thế nào ?
-Trai
thì hiến hạt châu, rồng thì khạc hạt châu trong bụng ra.
(Tứ Lý Thiền)
Hai
gương chiếu nhau là dụ cho nhận thức tự nhận thức. Nhận
thức là gì ? là tôi xem tôi. Cái tôi nào (chủ thể) nghiên
cứu cái tôi nào (đối tượng) ? Mã Tổ nói :
-Đây
là đem tất cả tài sản mình có quăng bỏ đi, lại đi tìm
tài vật ở bên ngoài.
Giáp
Sơn thì đưa ra hình ảnh trai và rồng hiến châu. Đây là
chuyện khiến người ta khó mà lãnh hội, nếu đã rõ rồi
thì vẫn là câu : Mặt trời còn cần ánh nắng soi sáng nó
sao?
2123.- Nhàn nhã trong bận rộn.
Có
ông tăng hỏi Giáp Sơn Thiện Hội :
-Làm
sao nhận biết của báu nhà mình ?
-Nhàn
nhã trong bận rộn.
(Tứ Lý Thiền)
Câu hỏi của ông tăng là làm sao nhận ra tự tánh ? Thiền tông nhận định rằng không thể dùng nhận thức để đạt được cảnh giới tối cao, bỏ nhận thức xuống là đã ở cảnh giới đó rồi.
2124.- Tre dài, tre ngắn.
Thuý
Vi bảo Thanh Bình :
-Đợi
không có người tôi sẽ bí mật truyền Phật pháp cho ông.
Thanh
Bình đợi một lúc, nhìn quanh không có ai , bèn thưa :
-Sư
phụ, hiện không có ai, xin sư phụ truyền pháp cho con.
Thuý
Vi không nói một lời dẫn Thanh Bình ra vườn. Thanh Bình lại
thưa :
-Sư
phụ ! Chỗ này không có người, xin sư phụ truyền pháp cho
con đi.
Thuý
Vi chỉ bụi tre bảo :
-Ông
hãy chú ý coi, chỗ này tre ngắn, chỗ kia tre dài.
(Tứ Lý Thiền)
Chân lý là cái gì ? Không ai nói ra được rõ ràng, nhưng không chỗ nào không có nó. Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày trong mỗi cử động, hoặc trong tự nhiên, một cây, một cỏ lãnh hội được ý vị của chân lý không ? Cây tre này dài, cây tre kia ngắn đối với bất cứ người thường nào thì cũng là một nhận thức thực tế đâu có gì là lạ ? Chính điểm này bao dung toàn bộ chân lý. Chúng ta hãy từ những điểm nhỏ nhặt này mà tiến vào cửa chân lý. (Xem thêm công án 85)
2125.- Núi lớn tốt.
Có
ông tăng hỏi thiền sư Duy Khoan :
-Thế
nào là Đạo ?
-Núi
lớn tốt .
-Con
hỏi Đạo sao thiền sư lại đáp núi lớn tốt ?
-Ông
chỉ biết núi lớn tốt, làm sao hiểu Đạo ?
(Công Án 100)
Ông
tăng hỏi Duy Khoan là muốn biết tin tức về Đạo. Lúc đó
hoặc Duy Khoan trông thấy núi hoặc nghĩ tới núi nên thuận
miệng nói ra :
-Núi
lớn tốt.
Câu
nói này bản thân vô ý nghĩa, nhưng đáp trúng. Đạo chẳng
lìa bất cứ thời gian, không gian nào, thuận tay chỉ bất
cứ cái gì cũng là Đạo. Đạo bản thân không là một vật
cụ thể, nhưng cũng không lìa vật cụ thể. Cho nên khi ông
tăng hỏi Đạo là gì, vì thiền sư nói là núi lớn tốt,
thì làm sao ông khai ngộ được ? Đạo chỉ có tự mình thể
hội, không ai có thể bảo cho mình biết Đạo là thế nào,
dù có nói cũng chỉ là phí lời, ông không thể tìm được
tin tức gì trong đó. Thiền sư dùng một động tác hoặc một
lời dường như không liên quan gì để tạo nên một loại
thể nghiệm hoặc phản ứng tâm lý, có thể xúc tiến việc
khai ngộ của ông tăng. Đó là tinh tuỷ của công án này. (Xem thêm công án 621)
2126.- Một cọng cỏ.
Triệu
Châu Tòng Thẩm thượng đường nói :
-Như
minh châu trong lòng bàn tay : hồ đến hồ hiện, Hán đến
Hán hiện. Lão tăng lấy một cọng cỏ làm kim thân trượng
sáu, lấy kim thân trượng sáu làm một cọng cỏ. Phật là
phiền não, phiền não là Phật.
Lúc
đó có một ông tăng bước ra hỏi :
-Không
biết Phật là phiền não của nhà nào ?
-Là
phiền não của tất cả mọi người.
-Làm
sao để trừ ?
-Trừ
để làm gì ?
(Công Án 100)
Câu
chuyện này là để phá trừ những cặp đối đãi lớn nhỏ,
phàm thánh, trí ngu. Bất kể Hồ, Hán tới minh châu không bị
ảnh hưởng gì. Minh châu vẫn là minh châu. Câu Triệu Châu
nói về cọng cỏ và pháp thân Phật là chỉ rằng các pháp
đều bình đẳng, không khởi tâm phân biệt, chấp trước.
Nếu chấp pháp thân Phật là kim thân trượng sáu là còn phiền
não. Ngoài ra vì các pháp đều bình đẳng nên Phật là phiền
não. Chấp Phật là phiền não, không chấp Phật là không tin
Phật cũng là phiền não. Lúc đó, ông tăng hỏi Phật là phiền
não của ai ? Triệu Châu đáp Phật làm cho mọi người phiền
não. Ý là vì có quan niệm Phật khiến cho mọi người chấp
do đó bị phiền não. Còn một ý nữa là chúng sanh tự mình
đã là Phật nhưng nhiều người chưa biết điều này do đó
phiền não do tự tâm sinh ra cũng như Phật chấp phiền não
cho chúng sanh. Ông tăng lại hỏi làm sao để trừ phiền não.
Triệu Châu bảo :
-Không
cần phải trừ, chỉ cần không chấp nó là được rồi. Nếu
ông muốn trừ phiền não thì lại tăng thêm một tầng phiền
não nữa. Nếu mặc kệ nó, vượt lên nó thì cả Phật và
phiền não đều tan biến. (Xem thêm công án 723)
2127.- Tâm giữ tĩnh là bệnh.
Ngưu
Đầu Pháp Dung nói :
-Giữ
cho tâm tĩnh là còn bị bệnh.
(Công Án 100)
Phật
giáo Trung Quốc có 2 định nghĩa về Thiền :
1.Do
tĩnh toạ vào thiền định : đó là thiền tiểu thừa, là
giữ tâm cho tĩnh : ninh tĩnh, an tĩnh, bình tĩnh. Giai đoạn
thô thiển gọi là tĩnh toạ, thâm sâu hơn gọi là thiền
định.
2.Thiền
ngộ : không nhất thiết phải ngồi thiền, chỉ cần bỏ xuống
mọi chấp trước, mong cầu, khiến tâm được an định.
Bệnh
là gì ? nếu tâm an tĩnh nhưng chưa sáng, nếu có rối ren phát
sinh tâm sẽ bị ảnh hưởng, xao động. Do đó, không lạ khi
những người giữ tĩnh thích độc cư nơi vắng vẻ, xa lánh
mọi người. Những người này dù vào được định nhưng
khi xuất định vẫn không tránh được phiền não. Khi gặp
hoàn cảnh được, mất xung đột thì tham, sân, si lại xuất
hiện. Vì vậy Pháp Dung bảo những người này chưa lìa bỏ
được phiền não. Thiền tông tuy nhận toạ thiền là một
phương pháp tu hành, nhưng lại càng quý trọng những người
tham thiền ở ngã tư đường hơn. Thân ở nơi náo loạn mà
tâm không bị ảnh hưởng đó mới là thiền ngộ.
2128.- Không vì trời, người mà tới.
Có
lần Động Sơn Lương Giới đi hành cước, bị lạc đường
ở núi Long Sơn, gập được Long Sơn hoà thượng. Động Sơn
hỏi :
-Núi
này không có đường vào, hoà thượng làm sao vào được ?
Hỏi
ba lần Long Sơn đều đáp không biết, Động Sơn chất vấn
:
-Vì
sao hoà thượng không biết ?
-Tôi
không phải vì trời, người mà tới.
(Công Án 100)
Đây
là đoạn đối thoại rất trí tuệ của hai vị thiền
sư đã khai ngộ. Long Sơn là tên núi, Động sơn cũng là tên
núi. Động Sơn đến Long Sơn thấy cây cối rậm rạp nên
hỏi Long Sơn từ đường nào vào núi. Sự thật thì khi Động
Sơn vào núi cũng chẳng thấy đường nào, ông đã biết nhưng
vẫn hỏi để trắc nghiệm xem Long Sơn có phải là một vị
cao tăng hay không ? Long Sơn đáp :
-Tôi
không phải là mây, nước. (vân thuỷ : chỉ ông tăng đi hành
cước
Mây
trên trời theo gió trôi, nước dưới đất theo dòng chẩy.
Ý
nói không có chỗ trú nhất định, cũng có nghĩa chẳng tới,
chẳng đi.
-Nếu
hoà thượng không đi hành cước thì trú ở núi này đã bao
lâu rồi ?
-Xuân,
Thu chẳng kể.
Ý
nói ông đã vượt qua thời, không; đây không phải là nói
nhục thân ông không già mà là cảnh giới giác ngộ của ông
không liên quan gì đến thời, không.
Động
Sơn lại hỏi để xem ông ngộ thật hay giả :
-Ngọn
núi này ở đây trước hay hoà thượng ở đây trước ?
-Không
biết.
-Vì
sao hoà thượng không biết ?
-Tôi
không vì trời, người mà tới.
Chỉ
có trời và người chưa ngộ mới tính toán thời gian. Ngộ
cảnh vượt lên thời, không cho nên không rơi vào tầng trời
người. Người chưa giải thoát không biết cảnh giới siêu
thoát thời, không như thế nào, có nói ra cho họ thì cũng
như là không nói. Đối với người đã ngộ trả lời không
biết dường như là ngu mà thực ra là đại trí. (Xem thêm công án 953, 2090)
2129.- Đại cơ đại dụng.
Một
hôm Quy Sơn bảo các đồ đệ :
-Có
nhiều người chỉ được đại cơ, không được đại dụng.
Ngưỡng
Sơn đem câu nói này hỏi một vị am chủ ở dưới núi :
-Lão
hoà thượng nói câu này là ý gì ?
-Ông
nhắc lại coi. Ngưỡng Sơn mở miệng định nhắc lại, am
chủ đạp cho một đạp ngã lăn trên đất. Ngưỡng Sơn về
báo cáo lại cho Quy Sơn. Quy Sơn cười ha hả.
(Tứ Lý Thiền)
Các chướng ngại tâm lý ảnh hưởng đến sự phát huy trí thức. Nếu một người có thể buông bỏ tất cả xuống thì sẽ cảm thấy mình đột phá được những chướng ngại tâm lý. Cơ dụng của thiền là như thế.
2130.- Căn nguyên của Phật pháp.
Hà
Dịch Thần Hội hỏi Lục tổ Huệ Năng :
-Phật
pháp khởi từ đâu ?
-Từ
tâm chúng sanh.
(Công Án 100)
Hà Dịch Thần Hội là một chú sa di nhỏ tuổi rất được Lục tổ coi trọng. Câu hỏi của Thần Hội có nghĩa là căn nguyên của thiền pháp cũng là trí tuệ, niết bàn, giải thoát, lìa khổ được vui là gì ? Nói cách khác, Phật pháp có thể dùng để thấy được khổ não của chúng sanh đồng thời vận dụng để được giải thoát, tự tại, từ đâu ra ? Nhiều người cho rằng Phật pháp là những lời dạy của Đức Phật, nhưng Lục tổ Huệ Năng lại bảo Phật pháp xuất phát từ tâm chúng sanh. Vậy chúng ta hãy xét tâm Phật và tâm chúng sanh để hiểu cho rõ. Tâm Phật ổn định và bất động nên là trí tuệ, còn tâm chúng sanh khởi phục bất định nên là phiền não. Ổn định và bất động của trí tuệ có công năng soi chiếu. Khởi phục bất định của phiền não sanh ra những hiện tượng tâm lý như, nhân ngã, đúng sai, được mất v . v . Tâm Phật và tâm chúng sanh đồng thể lưỡng diện. Chỉ cần tâm phiền não bất động thì tâm trí tuệ hiển hiện, tương tự như mặt biển khi lặng yên có thể phản chiếu mọi hình tượng, nhưng khi có gió thổi, sóng dậy thì không phản chiếu được gì. Chỉ cần chúng sanh có thể giữ cho tâm được bình tĩnh, an định không bị hoàn cảnh ảnh hưởng thì trí tuệ tương đồng với chư Phật hiển hiện. Do đó, Phật pháp không do bên ngoài đưa tới mà do trong tâm mỗi chúng sanh đã có Phật pháp hiện thành. Bởi vậy có thể nói : “Chúng sanh là chúng sanh ở trong tâm của chư Phật, Chư Phật là chư phật ở trong tâm của chúng sanh. Tâm Phật và tâm chúng sanh tâm tâm tương thông. Chư Phật đã khai ngộ nên tâm an định không bị gió thổi làm lay động. Chúng sanh còn chấp mê chưa ngộ nên còn theo tình huống khởi phục làm mình bị khốn và đồng thời làm khốn người khác.
2131.- Chẳng động môi họng.
Bách
Trượng Hoài Hải thượng đường yêu cầu đại chúng :
-Các
ông không được động môi, họng. Nói mau ! Nói mau !
Quy
Sơn Linh Hựu bước ra thưa :
-Con
không nói, mời sư phụ nói.
-Nếu
tôi nói cho ông nghe thì về sau không còn con cháu nữa.
(Công Án 100)
Hai thầy trò nói gì vậy ? Thầy muốn trò không dùng lời mà nói, trò rất thông minh, thầy đã không cho dùng lời vậy con không dùng lời, mời thầy nói đi. Bách Trượng bảo nếu tôi nói ra thì sau này không còn Thiền tông nữa. Thế là thế nào ? Công án này cho chúng ta biết chân lý không thể dùng lời mà diễn tả ra được. Trong kinh Phật nói không thể nghĩ bàn là chỉ chân lý tuyệt đối. Người trí thì nhận định rằng không có một lời nhất định nào để nói về chân lý, cũng không có một chân lý nhất định nào để giảng. Bởi vì dùng lời để nói ra thì chân lý không còn là chân lý nữa. Nếu ta giơ một bông hoa lên bảo mọi người mô tả, thì lời của mỗi người mỗi khác. Đó là vì mọi người có hoàn cảnh, trình độ, tư chất v . v . khác nhau. Vì vậy chúng ta có thể rút ra một điều là trong sinh hoạt chúng ta nên tôn trọng ý kiến của người khác, đừng bắt người nào phải cảm nhận, suy nghĩ giống như mình.
2132.- Ép dân lành làm giặc.
Động
Sơn Lương Giới tới tham Nam Tuyền Phổ Nguyện gập đúng
ngày kỵ Mã Tổ. Nam Tuyền bảo đại chúng :
-Ngày
mai cúng chay Mã Tổ, không biết Mã Tổ có tới không ?
Đại
chúng không ai trả lời được. Động Sơn nói :
-Đợi
có bạn sẽ tới.
Nam
Tuyền khen :
-Ông
tuy là hậu sanh, nhưng là ngọc có mài dũa.
-Hoà
thượng đừng ép người dân lành làm giặc .
(Công Án 100)
Thiền
tông vẫn giữ tập tục văn hoá, đến ngày kỵ của lão sư,
đều làm bữa cơm chay cúng, giữ tập tục nhưng không chấp,
vô tướng, vô ngã. Nam Tuyền nhân ngày kỵ Mã Tổ đề ra
vấn đề này. Mã Tổ đã ngộ đạo há cần người sau cúng
? Tăng chúng nghĩ nếu đã cúng sao còn hoài nghi Mã Tổ không
đến ? Do đó không trả lời được. Đối với những người
đã ngộ thì các nghi thức không cần thiết, nhưng đối với
những người chưa ngộ thì đó là một nhu cầu. Động Sơn
Lương Giới đã khai ngộ nên đáp :
-Mã
Tổ không đến một mình, đợi có bạn sẽ tới.
Mã
Tổ đã khai ngộ, giải thoát, nếu còn ỷ lại vào bạn thì
không phải là Mã Tổ nữa. Câu nói này có nghĩa Mã Tổ không
thể đến, cũng có thể nói là vấn đề đến hay không đến
không được đặt ra. Nam Tuyền nghe nói liền khen ngợi vị
hậu sanh khả uý này.
2133.- Ở mọi nơi thì hoả táng còn ở đây thì chôn sống.
Hoàng
Bá dẫn tăng chúng ra vườn trà cuốc đất, thấy Lâm Tế
chống cuốc liền hỏi :
-Ông
mệt lắm hả ? Sao không làm việc ?
-Con
vừa mới tới, làm sao đã mệt ?
Hoàng
Bá biết Lâm Tế muốn quẫy nhiễu, liền giơ gậy lên đánh.
Lâm Tế nắm lấy gậy, thuận tay đẩy lão sư ngã lăn cù
trên đất.
Hoàng
Bá kêu lên :
-Duy
Na, mau đỡ tôi dậy.
Duy
Na chạy lại vừa nâng Hoàng Bá dậy vừa lẩm bẩm :
-Cái
gã Lâm Tế khùng này, thực hết nói, dám đẩy ngã phương
trượng, phải đuổi gã ra khỏi sơn môn mới được !
Nào
ngờ Hoàng Bá lại đánh Duy Na. Lâm Tế đứng bên cuốc vài
nhát nói lời điên khùng :
-Ở
các nơi thì hoả táng, còn ở đây thì chôn sống.
Ông
dùng cuốc không phải để trồng trà mà là chuẩn bị chôn
sống Hoàng Bá.
(Công Án 100)
Công
án này cho chúng ta biết điều gì ? Tâm Lâm Tế đã tự tại,
độc lập, siêu thoát, hy vọng được Hoàng Bá kiểm nhận.
Nếu Hoàng Bá không chấp nhận thì là công phu chưa đủ, còn
phải cố gắng thêm. Do đó, mới hướng Hoàng Bá thỉnh giáo.
Sư phụ đánh ông, ông nắm lấy gậy, đẩy ngã sư phụ. Nếu
là người khác thì có can đảm làm việc này không ? Ý Lâm
Tế là : đánh con không phải là biện pháp, không có công
dụng gì, con không cần phải đánh. Do đó, đẩy ngã sư phụ
để biểu lộ tâm cảnh. Nếu Lâm Tế giả ngộ thì sẽ lộ
ra tỳ vết và Hoàng Bá sẽ tiếp tục đánh. Nhưng kết quả
là Hoàng Bá lại đánh Duy Na. Duy Na không hiểu vì không biết
chuyện gì đã xẩy ra giữa Hoàng Bá và Lâm Tế. Hoàng Bá
đánh để ông hiểu rõ sự tình. Câu của Lâm Tế có nghĩa
là: tôi đã tự do, tự tại không còn ỷ lại vào sư
phụ nữa.
(Xem
thêm công án 582)
2134.- Bay qua rồi.
Bách
Trượng Hoài Hải theo hầu Mã Tổ Đạo Nhất ra ngoài nơi
khoáng dã chơi, gập một bầy vịt trời bay qua. Mã Tổ hỏi
:
-Là
con gì ?
-Vịt
trời.
-Bay
đi đâu ?
-Bay
qua rồi.
Mã
Tổ bóp mũi Bách Trượng, Bách Trượng bị đau kêu toáng lên.
Mã Tổ bảo :
-Ông
còn nói đã bay qua rồi ư ?
Bách
Trượng ngay đó đại ngộ.
(Công Án 100)
Đây
là một công án trứ danh. Bách Trượng là thiền sư khai sáng
ra Nông Thiền, ông khai ngộ là nhờ công án này. Những câu
đáp của Bách Trượng đều không sai, nhưng đối với Thiền
thì tâm phải luôn luôn giữ ở hiện tại. Tâm Bách Trượng
đáng nhẽ phải không còn lưu giữ dấu vết gì của vịt
trời, nhưng tâm ông lại theo vịt trời bay về quá khứ. Do
đó, Mã Tổ bóp mũi ông, ông bị đau. Cái đau đó là hiện
tại, chân thật, trọng yếu, thân thiết, ngay trước mắt.
Trong từng giây phút nếu giữ được thân tâm là một, tâm
khẩu là một thì đó là tu hành. Nếu không có động tác
gì thì không có tôi, không có ông, không có thời gian, không
gian dĩ nhiên cũng không có “ đã bay qua rồi”. Từ công
án này chúng ta rút ra được 3 điều :
1.
Hiện tại là trọng yếu nhất.
2.
Nếu động một cái thì đã là quá khứ rồi.
3.
Nếu không động thì không tồn tại.
(Xem
thêm công án 1041, 1572, 1719)
2135.- Trụ trì bận rộn.
Tam
Thánh Huệ Nhiên hỏi Tuyết Phong Nghĩa Tồn :
-Cá
trong lưới ăn gì để qua ngày ?
-Đợi
khi nào ông ra khỏi lưới, tôi sẽ nói cho ông biết.
-Hoà
thượng lãnh 1500 chúng mà sao không hiểu lời con hỏi ?
-Tôi
làm trụ trì bận rộn lắm.
(Công Án 100)
Có
một số người không biết mình như cá nằm trong lưới, chỉ
bận rộn sanh hoạt, không biết cái chết ở ngay trước mặt,
cứ như người sống say chết mộng. Có một số người khác
như Tam Thánh biết mình như cá nằm trong lưới , nhưng không
biết lối nào thoát ra. Vấn đề là trong lưới không có đồ
ăn, chỉ đành cá lớn nuốt cá bé, phải làm sao đây ? Tuyết
Phong bảo :
-Giản
dị lắm, khi nào ông ra khỏi lưới tôi sẽ bảo.
Tam
Thánh không hiểu nên mới thốt ra lời oán trách. Thực ra
Tuyết Phong đã trả lời rõ ràng rồi mà ông không hiểu.
Lưới phiền não ở đâu mà ra ? Chính là do ông tự đan, tự
buộc lấy mình. Nếu bỏ tất cả mọi vọng tưởng xuống
: không so sánh, tính toán, ỷ lại, chờ đợi v . v . thì
đã thoát ra khỏi lưới phiền não rồi. Lão tăng làm trụ
trì bận rộn lắm không có thì giờ mà giải đáp những câu
hỏi như câu hỏi này .
(Xem
thêm công án 1077, 2068)
2136.- Mã Tổ xem nước.
Ma
Cốc theo hầu Mã Tổ Đạo Nhất, hỏi :
-Thưa
thầy thế nào là Đại Niết Bàn ?
-Gấp.
-Gấp
cái gì ?
-Xem
nước.
(Công Án 100)
Lúc
đó hai thầy trò Mã Tổ và Ma Cốc có lẽ đang đi dạo ở
bên bờ suối. Ma Cốc đang suy nghĩ về vấn đề sanh tử Niết
Bàn. Mục đích của người tu là giải quyết vấn đề sanh
tử. Nếu vấn đề này chưa giải quyết xong thì phải nỗ
lực tu hành, nếu không thì không được giải thoát, không
thể ngưng nghỉ. Do đó, khi Ma Cốc hỏi, Mã Tổ đáp “Gấp”
ý là ông hãy mau vào Niết Bàn. Niết Bàn là bất sanh bất
diệt, tịch diệt giải thoát cùng sanh tử tương đối. Ý
nghĩa sanh tử có thể nhỏ, có thể lớn. Nhỏ nhặt như một
vọng niệm khởi diệt, lớn hơn như đời người từ sanh
tới tử, lớn hơn một tầng nữa là chết đi sống lại.
Chết ở đây là chết đi mọi phiền não, vô minh. Sống lại
là cứu nhân độ thế của tâm hạnh bồ tát. Theo Thiền tông
thì sống lại là đại tự tại, đại giải thoát, đại trí
tuệ, đại từ bi, đại hoằng nguyện, không còn phiền não,
không còn bị khốn quẫn.
Câu
đáp “Gấp” của Mã Tổ là nói nếu ông chưa biết sanh
tử thì phải mau lên. Đối với người đã giác ngộ thì
sanh tử và Niết Bàn chỉ là một. Mã Tổ nói “xem nước”
ý là nếu ông còn hỏi Niết Bàn là gì thì hãy xem nước
vì đối với người đã ngộ thì xem bất cứ một sự vật
gì, thể nghiệm bất cứ một hiện tượng gì, đều là ngộ
cảnh. (Xem thêm công án 729)
2137.- Gập nhau ở đâu ?
Vân
Nham Đàm Thạnh bị bệnh nặng, Đạo Ngô Tông Thái đến thăm
hỏi :
-Lìa
cái túi da này, chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu ?
-Ở
nơi bất sanh bất diệt.
-Sao
ông không nói ở nơi phi bất sanh, bất diệt ? và chúng ta
cũng chẳng cần gặp nhau ?
(Công Án 100)
Người
tu coi thân thể là một công cụ tạo nghiệp. Tạo ác nghiệp,
tội nghiêp sẽ bị khổ báo, tạo thiện nghiệp sẽ được
phúc, lộc, thọ báo. Vân Nham bị bệnh, Đạo Ngô đến thăm
lại còn hỏi “Sau khi chết sẽ gặp nhau ở đâu ?”Cho
thấy các Thiền sư không chấp sự sanh tử ly biệt. Thực
ra, lúc sanh không đến, lúc chết không đi. Nhục thể chết
đi là một hiện tượng tự nhiên. Người giác ngộ chỉ nhận
cái tâm bất sanh bất diệt thanh tịnh, thường tịnh, thường
chiếu, hằng động, hằng tĩnh, không để ý đến cái thân
ảo sanh, ảo diệt. Coi cái thân ngũ uẩn này là không thì
cùng chư Phật, chúng sanh tương kiến bởi vì ông là không,
tôi cũng là không, không thời không nơi tồn tại. Chỉ cần
siêu việt thời không thì vĩnh viễn gặp nhau.
Vân
Nham hy vọng sẽ gặp nhau ở nơi bất sanh, bất diệt là hãy
còn chấp. Người đã tu hành đến tầng thứ bất sanh bất
diệt thì không còn phân biệt chủ khách tương đối, còn
cần phải nói vĩnh viễn tương kiến, nơi nơi tương kiến
sao ? Đạo Ngô đề ra phi bất sanh, bất diệt là vượt lên
sanh diệt và bất sanh diệt, đồng thời bỏ xuống gặp nhau
và không gặp nhau, cho thấy tâm ông đã viên mãn, tự tại. (Xem thêm công án 234, 1975)
2138.- Đem chôn một lượt.
Có
ông tăng vừa khóc vừa chạy vào pháp đường. Bách Trượng
hỏi ông ta :
-Có
chuyện gì vậy ?
-Cha
mẹ con đều chết hết cả rồi, thỉnh hoà thượng chọn
ngày phát tang.
-Đem
chôn cả đi !
(Công Án 100)
Thông
thường cha mẹ một ông tăng chết không việc gì phương trượng
phải lo, hơn nữa trong lúc phương trượng đang giảng pháp
lại đưa ra thỉnh cầu này. Ý ông tăng là việc sanh tử bức
thiết như cha mẹ chết, xin hoà thượng chỉ điểm. Dĩ nhiên
là Bách Trượng hiểu ý của ông nên thuận nước đẩy thuyền
bảo :
-Được
rồi ! Đem cha mẹ ông, ông và mọi người đem chôn hết đi.
Ý
Bách Trượng là đem chôn tất cả mọi quái ngại, cá nhân,
đoàn thể, trong tâm, ngoài tâm. Đó là thủ pháp nhanh chóng
giúp cho ông tăng và thính chúng đạt được giải thoát. Nếu
tất cả mọi sự trong tâm đều đem chôn hết thì sẽ phát
hiện thiên hạ vốn vô sự, chỉ là tự mình làm khó mình.
Trước khi ngộ nên tu giới định tuệ để tiêu diệt tham,
sân, si, thân tâm đừng khẩn trương, sau khi ngộ nên kết
thiện duyên để phổ độ chúng sanh. Câu “Đem chôn tất
cả đi” giống như đề hồ quán đỉnh làm tâm các ông được
trong trẻo.
2139.- Hoà thượng gót chân còn chưa chấm đất đất.
Một
hôm Tuyết Phong Nghĩa Tồn thượng đường nói :
-Đại
chúng nên biết chuyện này như gương cổ trên đài : Hồ đến
Hồ hiện, Hán đến Hán hiện.
Huyền
Sa hỏi :
-Nếu
như gương vỡ thì sao ?
-Hồ,
Hán đều ẩn.
-Gót
chân hoà thượng còn chưa chấm đất.
(Công Án 100)
Tuyết
Phong giảng cho đại chúng lìa phiền não thì được trí tuệ.
Minh tâm kiến tánh như gương cổ trên đài Hồ đến thì có
ảnh Hồ, Hán đến thì có ảnh Hán. Ý nói sau khi ngộ rồi
thì có nhận thức khách quan, không có thành kiến, không lấy
ngã làm trung tâm. Lời này không sai, nhưng Huyền Sa cho rằng
lời nói này có ngữ bệnh, sợ rằng người sau nhận rằng
có một gương cổ thật thì sẽ biến thành tâm chướng, do
đó phải phá gương giả tưởng đó đi. Tuyết Phong nhân Huyền
Sa hỏi, thuận miệng đáp :
-Gương
cổ đã vỡ rồi thì không có ảnh Hồ, ảnh Hán.
Câu
đáp này cũng không sai, khi trí tuệ ẩn thì công năng không
xuất hiện. Ảnh tuy không có nhưng Hồ, Hán còn đó phải
làm sao ? Do đó, Huyền Sa đưa ra ý cảnh thâm sâu hơn :
-Gót
chân lão hoà thượng còn chưa chấm đất.
Lão
hoà thượng còn để ý đến có, không là hãy còn chấp, chưa
triệt để giải thoát. Đối thoại này của hai thầy trò
là phương thức siêu Phật, vượt Tổ. Không phải là trò
cao hơn thầy mà là khai thị cho đại chúng đừng chấp vào
quyền uy, ngẫu tượng, đừng nương tựa vào ai, phải tự
mình thấy được bản lai diện mục.
(Xem
thêm công án 325)
2140.- Tiệm tạp hoá.
Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch một hôm thượng đường nói :
-Nơi
đây
là một tiệm tạp hoá, người đến mua cứt chuột tôi bán,
người đến mua vàng ròng tôi cũng bán.
(Công Án 100)
Ngưỡng Sơn tiếp dẫn học trò không kể giỏi, dốt hễ có lòng muốn học là ông dạy. Những lời chỉ dẫn của ông đồng dạng nhưng người trí thấy là hoàng kim, còn kẻ ngu thấy là cứt chuột. Điều này cho thấy đệ tử của Ngưỡng Sơn có nhiều tầng thứ. Có người thiện căn thâm hậu, thân cận Ngưỡng Sơn thu nhận được nhiều lợi ích, kiến tánh khai ngộ, sau tự hoằng pháp lợi sanh. Có người tuy chưa khai ngộ, nhưng cũng được chút lợi ích. Lại có những người khi tới đem thành kiến tới, khi đi đem biên kiến đi. Những người này tuy nghe Ngưỡng Sơn nói pháp nhưng tâm lại phản ứng như ngoại đạo, tà pháp, ma pháp, nói đó là học từ Ngưỡng Sơn, kết quả tự hại mình, hại người.
2141.- Tay không nắm cán mai.
Phó
đại sĩ có làm bài kệ sau :
Tay
không nắm cán mai
Đi
bộ lưng trâu ngồi
Theo
cầu qua bến nước
Cầu
trôi nước chẳng trôi.
(Trúc
Thiên dịch)
Xin
xem nguyên tác chữ Hán ở công án 263.
(Công Án 100)
Phó
đại sĩ bản danh là Truyền Ông, người đời Lương, là một
vị thiền sư tiên khởi, trước làm nghề đánh cá, sau chuyển
sang làm ruộng. Bài kệ này toàn nói những lời trái ngược,
theo như thường thức thì chỉ là những lời nói điên khùng,
nhưng suy nghĩ kỹ lại thì thấy cũng có đạo lý.
Tay
không nắm cán mai : tay tuy có nắm cán mai nhưng tâm không để
cho cái mai chiếm hữu, vĩnh viễn không bỏ xuống được.
Thí dụ ta có một chiếc xe hơi, có xe đi cũng tốt nhưng đừng
cả ngày lo sợ bị mất xe. Sự thực ngay chính thân thể mình
cũng không phải là mình còn nói gì đến vật ngoài thân.
Đi
bộ lưng trâu ngồi : Có trâu để cưỡi dĩ nhiên là tốt,
nhưng không nên chấp phải có trâu, không có trâu là không
được. Không có trâu thì xuống đi bộ, có sao đâu ?
Theo
cầu qua bến nước, cầu trôi nước chẳng trôi : nhìn xuống
sông thấy nước chẩy đó là sự thật, là vô thường, nhưng
luật vô thường lại bất biến.
Hai
câu đầu là chỉ Hữu, vô bất nhị, hai câu sau là chỉ Động
tĩnh bất nhị. (Xem thêm công án 1691)
2142.- Lễ Phật.
Đường
Tuyên Tông lúc còn là sa di thấy Hoàng Bá lễ Phật bèn hỏi
và bị tát ba cái.
(Công Án 100)
Công
năng lễ Phật tối thiểu có 5 loại :
1.
Để cầu cảm ứng : là để tiêu tai, tăng phước, tăng thọ.
2.
Để sám hối : trước mắt Tam Bảo thừa nhận lỗi lầm,
xin chịu trách nhiệm, hứa sẽ không tái phạm.
3.
Tỏ lòng cảm ơn : vì học Phật pháp lìa khổ được vui.
4.
Cầu an : dùng lễ bái để tâm được an định, bình tĩnh,
thống nhất, đắc định, mở trí.
5.
Không cầu gì cả : giống như Hoàng Bá đã khai ngộ rồi,
không cầu gì cả, chỉ làm tăng một ngày nên đánh chuông,
gõ mõ, làm một Phật tử nên ngày ngày lễ Phật. Đường
Tuyên Tông không hiểu cảnh giới của Hoàng Bá nên mới bị
đánh.
(Xem
thêm công án 1930)
2143.- Sư cô nguyên là người nữ.
Trí
Thông một đêm bỗng kêu lớn :
-Tôi
ngộ rồi !
Hôm
sau Quy Tông thượng đường hỏi Trí Thông :
-Ông
ngộ được đạo lý gì, nói ra nghe thử ?
-Sư
cô nguyên lai là người nữ.
(Công Án 100)
Tỳ
khưu ni cũng gọi là ni cô hoặc tôn xưng là sư cô, có nơi
gọi là sư thái. Câu nói của Trí Thông đối với mọi người
dường như là vô vị. Ni cô đương nhiên là người nữ rồi,
ai chả biết, sao nói là ngộ ? Nhưng nếu biết được bối
cảnh của Trí Thông thì sẽ hiểu được. Nói được câu
nói này chắc chắn Trí Thông phải trải qua một thời gian
tu hành lâu dài, đột nhiên tâm địa loé ra trí huệ. Mục
đích của người tu là khai ngộ để thành Phật. Các vị
thiền sư không nói cho biết thế nào là ngộ và làm sao để
ngộ. Họ chỉ cho biết những gì chưa ngộ. Nhiều người
tu hành cả đời cũng chẳng biết thế nào là ngộ, chỉ khi
nào nhân duyên đã chín mùi, lão sư hỏi một câu không những
đáp ngay không suy nghĩ mà là làm cho lão sư hài lòng chấp
nhận thì đó mới là khai ngộ.
(Xem
thêm công án 523)
2144.- Hoà thượng bao nhiêu tuổi ?
Hàn
Dũ hỏi Đại Điên :
-Hoà
thượng bao nhiêu tuổi ?
-Ngày
đêm 108.
Hàn
Dũ không hiểu, ngày hôm sau lại lên chùa, gặp thủ toạ bèn
nhắc lại câu hỏi, thủ toạ không đáp chỉ nghiến răng
3 lần. Khi gặp Đại Điên, Hàn Dũ cũng lập lại câu hỏi.
Đại Điên cũng nghiến răng 3 lần. Hàn Dũ nói :
-Nguyên
lai Phật pháp không hai.
(Công Án 100)
Câu
chuyện này như một câu đố. Chuyện kể xong người nghe chẳng
hiểu gì cả. Công án là những chuyện xảy ra trong Thiền
sử, có thể khiến người ta khai ngộ. Hàn Dũ còn được
gọi là Hàn Văn Công, vì dâng sớ bài Phật, kết quả bị
Đường Ninh Tông đầy tới Hồ Châu. Đến nơi, nghe tiếng
có vị cao tăng là Đại Điên Bảo Thông bèn tới bái phỏng.
Hàn Dũ hỏi Đại Điên bao nhiêu tuổi, Đại Điên giơ
chuỗi hạt lên hỏi :
-Ông
hiểu không .
-Không
hiểu.
-Ngày
đêm 108. Chuỗi hạt có 108 hạt, đại biểu 108 phiền não.
Đếm một hạt là trừ một phiền não, đếm xong 108 thì phiền
não không còn nữa. Thực ra phiền não của con người đâu
thể trừ đi một cách dễ dàng như thế ? Vì vậy phải đếm
ngày đêm. Nhưng đếm niệm châu có quan hệ gì đến tuổi
tác ? Do đó, ngày hôm sau Hàn Dũ lại lên chùa để hỏi, gập
thủ toạ ông hỏi. Thủ toạ chỉ nghiến răng 3 lần để
trả lời. Khi gặp Đại Điên ông nói :
-Khi
con hỏi hoà thượng, hoà thượng đáp : ngày đêm 108, hỏi
thủ toạ, thủ toạ nghiến răng 3 lần. Sao 2 câu trả lời
không giống nhau ?
Đại
Điên bèn nghiến răng 3 lần.
Đến
đây các ông đã hiểu chưa ? Thực ra không có gì là huyền
ảo cả. Niên kỷ người xuất gia có nhiều loại :
1.
Sanh niên : là năm sanh, sanh được bao năm rồi ?
2.
Tăng lạp : xuất gia được bao nhiêu năm ?
3.
Giới lạp : thọ giới được bao năm ?
4.
Pháp lạp : khai ngộ được bao năm ?
Trả
lời những câu hỏi này không đại biểu cho Đại Điên. Tối
thực tại là Đại Điên ngay trước mặt tay cầm hạt chuỗi.
Đó mới là Đại Điên còn những câu đáp khác đều vô ý
nghĩa. Để trả lời Hàn Dũ, Đại Điên đáp : Ngày đêm
108 là nói : Tôi ngày ngày , đêm đêm đều như thế này, đếm
108 hạt, tâm cảnh nhất quán, cái ông nhìn thấy là toàn thể,
tướng mạo và tâm cảnh đều bầy ra cho ông coi. Hàn Dũ không
hiểu, hôm sau hỏi thủ toạ, thủ toạ không trả lời, lại
không có chuỗi hạt bên cạnh nên nghiến răng 3 lần để
đáp, ý nghĩa cũng giống như Đại Điên. Khi Đại Điên nghiến
răng 3 lần thì cuối cùng Hàn Dũ đã hiểu Phật pháp vốn
không hai, ngay đây không tính toán, không tưởng tượng.
(Xem
thêm công án 1139)
2145.- Không chịu gánh vác.
Dược
Sơn Duy Nghiễm hỏi Cao sa di :
-Nghe
nói thành Trường An rất náo nhiệt, có phải không ?
-Dạ,
thành Trường An rất náo nhiệt, nhưng tâm con bình tĩnh.
-Cảnh
giới đó là do ông xem kinh hay thỉnh ích lão sư mà được
?
-Đều
không phải.
-Có
nhiều người cũng như ông, không xem kinh, không thỉnh ích
các vị lão sư, sao không đạt được cảnh giới này ?
-Vì
họ không chịu gánh vác.
(Công Án 100)
Cao
sa di là một ông tăng nhỏ mà đã đạt được công phu thâm
hậu, thật không dễ dàng. Dược Sơn hỏi ông do kinh điển
hay được sư phụ giảng dạy ? Ông bảo đều không phải,
là do ông tự ngộ, tự chứng, không hướng ra ngoài mà tìm
cầu. Dĩ nhiên những gì mà kinh Phật và những gì mà lão
sư chỉ điểm đã biến thành một bộ phận nội tại của
sinh mạng ông, do đó ông có thể tự làm chủ. Cảnh giới
của ông không như kinh Phật và lão sư chỉ cho, vì những
trí thức, quan niệm này chỉ thuần tuý là trí thức, giáo
huấn chỉ là giáo huấn, đối với nội tại sanh mạng của
ông không kết thành một thể. Có nhiều phần tử trí thức
có thể xem kinh điển hiểu rõ nghĩa lý, có thể giảng dạy
cho người khác minh tâm kiến tánh nhưng những hành vi về
thân, khẩu, ý của họ còn đầy thất tình lục dục, chẳng
khác gì người thường cho thấy trí thức, học vấn của
họ cùng với sự tu dưỡng không tương ứng. Đó là họ không
chịu gánh vác, không đem những kiến thức do kinh điển và
chỉ dẫn của lão sư đem thể nghiệm, thực hành.
(Xem
thêm công án 1943)
2146.- Sự khai ngộ của Vân Môn Văn Yển.
Vân
Môn Văn yển đến tham Mục Châu Trần Tôn Túc, mỗi lần đến
gõ cửa cầu pháp, Mục Châu thấy là Văn Yển bèn đóng sập
cửa lại. Đã 3 lần như vậy, đến lần cuối Văn Yển đã
học khôn. Khi cửa vừa hé mở ông vội lùa một chân vào
trước rồi xông vào sau. Mục Châu túm lấy ông vừa đẩy,
vừa nói :
-Ông
nói mau ! nói mau !
Văn
Yển vốn có nhiều lời để hỏi Mục Châu, không ngờ giờ
lại bị Mục Châu hỏi khiến ông ngẩn người ra. Mục Châu
vừa đẩy ông, vừa mắng :
-Ông
chỉ chở những chuỳ nặng đời Tần ! (Những chuỳ nặng
đời Tần đến đời Đường đã trở thành võ khí vô dụng
không còn dùng nữa).
Nói
rồi sập cửa. Đáng thương chân Văn Yển bị kẹt trong cửa
bị gẫy khiến ông bị đau đến tận tim, phổi. Nhưng nhờ
thế mà Văn Yển được khai ngộ.
(Công Án 100)
Người
ngoài xem chuyện này như một trò phường tuồng chả có đạo
lý gì cả. Sự thật thì giữa 2 thầy trò họ đã phát sinh
một chuyện kinh thiên động địa. Văn Yển muốn biết làm
sao khai ngộ. Mục Châu muốn giúp ông, hai người tâm tâm tương
ứng. Mục Châu dùng thủ đoạn rất phi thường, ông bảo
Văn Yển :
-Ông
nói mau ! nói mau !
là
bức bách Văn Yển vào đường cùng, không tiến không được.
Lúc đó, Văn Yển không biết phải trả lời làm sao. Mục
Châu lại bồi thêm một câu :
-Ông
chỉ chở những võ khi vô dụng đời Tần !
Ở
đây những võ khí vô dụng là chỉ tâm mong cầu khai ngộ
của Văn Yển. Hơn nữa, chân Văn Yển lại bị gẫy khiến
ông đau đớn. Lúc đó bị bức bách, ông bỏ cả thân tâm
xuống do đó mà khai ngộ. (Xem
thêm công án 276, 1160)
2147.- Hãy còn cái đó.
Ngưu
Đầu Pháp Dung dẫn sư phụ là Song Phong Đạo Tín thăm chỗ
tu hành của mình. Trên đường gặp hổ, Đạo Tín làm ra vẻ
sợ hãi. Pháp Dung nói :
-Sư
phụ còn cái đó !
Về
sau, Đạo Tín viết chữ Phật lên bàn thạch nơi Pháp Dung
thường ngồi Thiền. Pháp Dung không dám ngồi xuống. Đạo
Tín bảo :
-Ông
hãy còn cái đó !
(Công Án 100)
Xem
ra thì đây là hai thầy trò khảo nghiệm lẫn nhau và người
không vượt được sự khảo nghiệm là đệ tử Pháp Dung.
Lịch đại tổ sư sống nơi rừng sâu gập hổ báo là chuyện
thường, vẫn an nhiên tự tại, thậm chí còn thu phục làm
đệ tử, tại sao sư phụ lại sợ hãi, do đó Pháp Dung nói
:
-Sư
Phụ ! Sao trong tâm sư phụ còn nỗi lo sợ ?
Ý
nói sư phụ chưa được giải thoát. Đến lúc hai người sửa
soạn ngồi thiền, Đạo Tín viết chữ Phật lên thạch bàn,
Pháp Dung trông thấy không dám ngồi xuống. Đạo Tín bèn cười
ông :
-Trong
tâm ông hãy còn một chữ Phật nhé ! Phật chỉ là một chữ
viết, một quan niệm, cũng không phải là bản thân Phật Thích
Ca Mâu Ni ở đó, huống hồ Thiền tông chủ trương Phật ở
trong tâm chứ không ở bên ngoài, lại còn chủ trương nơi
nơi đều là Phật, không đâu không có Phật. Ngờ đâu chỉ
một chữ Phật đã làm ông không dám ngồi xuống. Điều đó
đã cho thấy tâm thái chấp trước của ông. Do sự chỉ điểm
đó Pháp Dung cảm thấy hổ thẹn, nỗ lực tu hành cuối cùng
đã khai ngộ.
(Xem
thêm công án 1082)
2148.- Trường không không trở ngại mây trắng bay.
Thiên
Hoàng Đạo Ngộ hỏi Thạch Đầu Hi Thiên :
-Thế
nào là đại ý Phật pháp ?
-Không
được, không biết.
-Hướng
thượng còn chỗ xoay trở không ?
-Trường không không trở ngại mây trắng bay.
(Công Án 100)
Phật
pháp đại ý là chỉ tinh nghĩa của thiền hoặc tâm pháp,
cũng là chỉ ngộ cảnh của chư Phật, tổ. Câu đáp của
Thạch Đầu nghĩa là không thể dùng phương pháp truyền thọ
mà được. Không được, không biết vậy phải làm sao ? Do
đó, Đạo Ngộ hỏi :
-Vậy
có cửa nào để khai ngộ ? Thầy có thể chỉ cho con không
?
Một
dải trường không vạn dậm, mây trắng tự do bay lượn có
gì để chỉ ? Đó là tâm cảnh người khai ngộ. Ông thấy
không mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chim lượn, mây bay tất
cả đều không. Người khai ngộ tâm không phiền não, nhưng
mọi hiện tượng đều xuất hiện trong tâm. Những gì xuất
hiện cố nhiên là có hình, có tượng, có đối lập, sai biệt
nhưng không làm khốn quẫn ông. Có thể nói tuy mọi hiện
tượng đều tồn tại nhưng không ảnh hưởng đến ngộ cảnh
của ông như mây trắng bay, muốn bay thế nào thì bay không
ảnh hưởng gì đến trường không, trường không cũng không
vì đó mà biến đổi. Người ngộ đạo thân ở thế gian
cùng người, sự, vật tiếp xúc đều vào tâm ông, nhưng ông
không kháng cự, không chiếm hữu. Những hiện tượng này
tự sanh diệt trong tâm ông, đối với ông không có quan hệ
gì. Người đại trí chính là như vậy, không bị tốt xấu,
đúng sai, thiện ác v . v . làm khốn quẫn, ông ta có thể
bao dung và xử lý chúng.
2149.- Xử dụng 12 thời.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu Tòng Thẩm :
-Làm
sao dụng tâm trong 12 thời ?
-Ông
bị 12 thời chuyển, còn lão tăng chuyển 12 thời.
(Công Án 100)
Thời
cổ, Trung Quốc chia một ngày một đêm là 12 giờ. Mỗi giờ
tương đương với 2 giờ ngày nay. Thông thường lúc tỉnh
người thường khó mà khống chế được tâm niệm của mình,
nói gì đến khi nằm ngủ. Do đó, ông tăng hỏi Triệu Châu
:
-Một
vị cao tăng như hoà thượng chắc là trong 12 giờ không có
khoảnh khắc nào không dụng tâm, làm sao làm được như thế
?
Ý
ông tăng là làm sao có thể liên tục không gián đoạn cả
ngày, cả đêm không khởi vọng tưởng, tạp niệm, chỉ nhất
tâm chuyên chú tu hành ? thí dụ một người ăn cơm, không
chỉ ăn cơm mà còn xem truyền hình, nghe nhạc, đọc báo, nói
chuyện v . v ., tâm khẩu không nhất chí, tâm niệm không
thể chuyên chú vào một việc. Thiền tông gọi hiện tượng
này là tạp dụng tâm, tâm viên ý mã, vọng tưởng phân phi.
Đó là tâm tán loạn. Ngược lại, tâm có thể tập trung vào
một việc gọi là chuyên tâm, nhất tâm do tâm không làm 2
việc một lúc, tiến lên nữa là đạt tới vô tâm. Đó là
sự dụng tâm của thiền sư. Câu đáp của Triệu Châu có
nghĩa là trong 12 giờ ông bị các tạp niệm vọng tưởng làm
khốn quẫn, còn tôi thì tâm không tán loạn, thậm chí không
dụng tâm mà xử dụng 12 giờ. Trọng điểm của công án này
là không nên nghĩ làm sao dụng tâm trong 12 giờ, mà đối với
mỗi giây phút ngắn ngủi của hiện tại hãy tự tĩnh hoá
mình, giúp đỡ, bao dung người, tuỳ thời, tuỳ chỗ, tuỳ
cảnh, tuỳ duyên đều nỗ lực học tập cống hiến tha nhân.
Còn nếu bỏ rơi hiện tại vin vào quá khứ hay vị lai là
bị 12 giờ chuyển. (Xem thêm công án 1860)
2150.- Toàn thân là mắt.
Đạo
Ngô Tông Trí hỏi Vân Nham Đàm Thạnh :
-Quán
Âm ngàn mắt ngàn tay, mắt nào là chánh.
-Như
người trong đêm sờ cái gối.
-Đệ
hiểu rồi.
-Ông
hiểu thế nào ?
-Toàn
thân đều là mắt.
(Công Án 100)
Mắt
có mắt chánh, mắt tà, mắt thịt, mắt tuệ. Kiến giải chân
chánh là mắt chánh, cong queo là mắt tà, cha mẹ sanh ra là
mắt thịt. Khi tâm không còn phiền não thì mắt tuệ sẽ sanh.
Mắt tuệ lại có nông, sâu. Nông là có cái nhìn khách quan,
sâu là vượt lên tự ngã. Chánh nhãn của Quán Âm là tuệ
nhãn. Tuệ nhãn này phối hợp với thiên nhãn có thể nhìn
thấy những thống khổ của chúng sanh ở mọi nơi, với lòng
từ bi dùng ngàn tay để cứu độ. Nếu đã là Bồ Tát Quán
Âm thì mắt nào chả là mắt chánh ? Vân Nham lại khai triển
thêm, phàm phu ngoài mắt thịt ra toàn thân đều có thể sản
sinh công năng của mắt. Trong đêm tối không nhìn thấy gối
nhưng có thể sờ được, bất cứ bộ phận nào của cơ thể hễ chạm đến đều có thể nhận biết đó là cái gối.
Do đó, có thể nói toàn thân đều là mắt. Phật nói Quán
Âm có ngàn mắt kỳ thực chỉ có 2 vì toàn thân đều là
tuệ nhãn.
(Xem
thêm công án 185)
Chung.
Các sách trích dịch
Công Án 100 Thánh Nghiêm
Công
Án Thiền Cơ Huyền Tường
Danh
Thiền Bách Giảng Chung Sĩ Phật
Đạo
Nguyên Ngữ Lục Tâm Linh Nhã Tập
Lưỡng
Nhẫn Tương Giao Lâm Cốc Phương
Nhất
Nhật Nhất Thiền Đông Phương Văn Duệ
Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ Long Mân
Nhất
Chuyển Ngữ Thiền Lý Tuấn Dật
Nhất
Thiền Nhất Thế Giới Long Tử Dân
Phật
Pháp Tu Chứng Tâm Yếu Nguyên Âm Lão Nhân
Thiền
Cơ Lâm Minh Dục
Thiền
Môn Khai Ngộ Thi Đỗ Tùng Bách
Thiền
Ngộ Dữ Thực Hiện Trịnh Thạch Nham
Thiền
Lâm Châu Cơ Duy Minh
Thiền
Tông Đại Ý Chánh Quả
Thiền
Tư Chiêm Hanh Vũ
Thiền
Vị Chiêm Hanh Vũ
Tinh
Vân Thiền Thoại Tinh Vân
Tứ
Lý Thiền Học Thành Cư Sĩ
Zen
Light Barragato
03-15-2008 04:23:56
Chân Thành Cảm Ơn Dịch Giả đã gửi tặng TVHS (Tâm Diệu)