Thực Hành Quán Thế Âm

25 Tháng Tám 201612:41(Xem: 5846)

THỰC HÀNH QUÁN THẾ ÂM
CHỈ DẪN CỐT TỦY CỦA KYABJE YANGTHANG RINPOCHE  
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.


Đức Quán Thế Âm Bồ TátTinh túy tâm của tất thảy chư Phật và Bồ Tát là Bồ đề tâm, tâm giác ngộ. Khi Bồ đề tâm này mang một hình tướng, nó xuất hiện dưới dạng Đức Quán Thế Âm Chenrezig (Avalokiteshvara).

Bất cứ khi nào chúng ta thực hành Quán Thế Âm, khía cạnh quan trọng nhất của pháp tu này là sự sinh khởi và phát triển Bồ đề tâm, lòng bi mẫn mà Đức Quán Thế Âm dành cho mọi hữu tình chúng sinh. Vì thế, nếu chúng ta cũng phát khởi được lòng bi mẫn, tâm giác ngộ giống như vậy, thật dễ dàng để chúng ta thành tựu Quán Thế Âm bởi tinh túy của Ngài chính là Bồ đề tâm. Bởi thế, ân phước gia trì và những kết quả sẽ rất nhanh chóng.

Quán Thế Âm có nhiều hóa thân và danh hiệu khác nhau, nhưng về cơ bản các vị đều có cùng một bản chất, đó là Bồ đề tâm, bản tính tâm của tất thảy chư Phật. Ngài xuất hiện trong hình tướng tức tai, hình tướng tăng ích và hình tướng phẫn nộ. Ngài mang những màu sắc khác nhau – đôi lúc màu trắng, đôi lúc màu đỏ. Đôi khi, Ngài xuất hiện với một nghìn mắt và nghìn tay, lúc khác lại một đầu và bốn tay, hay một đầu và hai tay, và thường cầm các pháp khí khác nhau. Ngài thường được nhắc đến là “Thugje Chenpo”, tức “Đấng Đại Bi”. Ngài mang danh hiệu này bởi Ngài là sức mạnh bi mẫn của tất cả chư Phật và Bồ Tát, hiện thân về sức mạnh của lòng bi đó. Ngài cũng được gọi là “Chenrezig”, tức “Bậc Nhìn Mọi Hữu Tình Chúng Sinh Một Cách Bình Đẳng và Đồng Thời, và Luôn Nhớ Nghĩ Đến Họ và Biết Nhu Cầu Của Họ”.

Yangthang Rinpoche
Yangthang Rinpoche

Sự quan tâm của Ngài dành cho hữu tình chúng sinh là tràn khắp và liên tục. Ngài cũng thường được nhắc đến là “Jigten Wangchuk” bởi, Ngài sẽ xuất hiện theo bất kỳ cách nào và bằng mọi cách cho tới khi tam giới của luân hồi hoàn toàn trống rỗng. Ngài sẽ hóa hiện trọn vẹn và tràn khắp để kết nối và giải thoát hữu tình chúng sinh khắp tam giới. Vì vậy, Ngài được gọi là “Đấng Có Sức Mạnh Làm Chủ Thế Gian”. Những danh hiệu khác nhau này đều để chỉ một vị Bổn tôn – Đức Quán Thế Âm. Đó là những danh hiệu khác nhau dành cho các hóa hiện khác nhau nhưng có cùng bản chất.

Từ quan điểm của Ba Thân, về bản tính Pháp thân, Đức Quán Thế Âm là Phật Vô Lượng Quang, về Báo thân, Ngài là Nam Nang Den So, và Hóa thân, Ngài là Quán Thế Âm Chenrezig, vị xuất hiện cả hiền hòa và phẫn nộ. Trong hình tướng hiền hòa, Ngài xuất hiện với nghìn mắt và nghìn tay, hoặc một đầu bốn tay. Trong hình tướng phẫn nộ, Ngài trở thành Mã Đầu Minh Vương Hayagriva. Hình tướng phẫn nộ đơn giản là sự hiển bày mạnh mẽ của lòng bi mẫn lớn lao, điều cần thiết để điều phục tâm thức của chúng sinh, những kẻ không thể điều phục nhờ phương pháp an bình. Mã Đầu Minh Vương cũng xuất hiện dưới nhiều hóa hiện, đôi lúc có chín đầu và mười tám tay, ba đầu và sáu tay, một đầu hai tay, lúc màu đỏ, lúc màu đen. Khi Quán Thế Âm xuất hiện dưới dạng Hộ Pháp Dharmapala, Ngài là Hộ Pháp trí tuệ nguyên sơ Mahakala sáu tay. Khi hiển bày là một Bổn tôn tài bảo, Ngài trở thành Đức Dzambhala trắng.

Tất cả những hiển bày khác nhau này chỉ là các phương pháp khác nhau mà lòng bi mẫn hiển bày để đáp ứng nhu cầu và mục đích của mọi hữu tình chúng sinh. Và bởi vô số chúng sinh đều rất khác biệt, vô số phương pháp là điều cần thiết. Thực sự, có nhiều phương pháp đến mức nếu thầy giải thích chúng, chúng ta sẽ hết thời gian trước khi thầy có thể kết thúc và các con đều sẽ trở nên chán nản. Nói ngắn gọn, số lượng các hóa hiện của vị Bổn tôn này là không thể nghĩ bàn, thế nhưng đó chẳng là gì khác ngoài tâm đại bi, sự hiển bày của Bồ đề tâm vĩ đại.

Vì thế, chúng ta có thể nói rằng, thay vì thành tựu bất kỳ Bổn tôn nào khác, thành tựu Quán Thế Âm là đủ, bởi Ngài là tinh túy tâm của tất thảy chư Phật và như thế là tinh túy của tất thảy chư Bổn tôn. Hơn thế nữa, Quán Thế Âm khá dễ dàng thành tựu. Chúng ta biết rằng nếu một người thực hành Quán Thế Âm một cách tốt đẹp trong sáu tháng không gián đoạn, anh ta chắc chắn sẽ có dấu hiệu thành tựu. Không thể nào không có dấu hiệu thành tựu. Điều này nghĩa là anh ta sẽ có linh kiến trực tiếp về Đức Quán Thế Âm hay vài dấu hiệu khác. Cũng thật dễ dàng khi trì tụng Minh chú OM MANI PEME HUNG. Nó đến khá tự nhiên với mọi người. Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng, trong tất cả các pháp trì tụng khác nhau, chẳng có lợi lạc nào lớn hơn việc trì tụng Minh chú Mani – OM MANI PEME HUNG. Trong tất cả các thực hành dựa trên sự trì tụng, đây là pháp tu mạnh mẽ nhất, lợi lạc nhất.

Để hoàn thành một Bổn tôn thiền định khác, chúng ta phải biết cách thực hành các giai đoạn phát triển và hoàn thiện, chúng ta phải biết cách cử hành nghi quỹ một cách chính xác, chúng ta phải biết cách mà thực hành được sắp đặt, chúng ta phải biết cách kiến lập Mandala và chúng ta phải biết nhiều thứ khác, điều thực sự khác khó khăn và phức tạp – chỉ để thành tựu Bổn tôn. Nhưng thành tựu Quán Thế Âm khá khác bởi những điều này là không cần thiết.

Có một vị Lama ở miền Đông Tây Tạng, thường được gọi là “Mani Lama” bởi ông ấy chỉ thực hành Quán Thế Âm. Ông ấy nói rằng thậm chí khi một người đang trải qua sự ham muốn hay bất cứ độc nào khác, chẳng hạn đố kỵ hoặc thù hận, khi tiêu cực khởi lên trong tâm, họ vẫn có thể thực hành Quán Thế Âm và trì tụng OM MANI PEME HUNG. Nói cách khác, họ không cần phải gạt sang một bên việc thực hành hay chuyển hóa độc hoặc làm gì khác, vì pháp tu tự thân đã tiêu trừ các cảm xúc phiền não. Điều này là bởi sáu âm của Minh chú Mani có sức mạnh diêt trừ sáu cảm xúc phiền não, gồm có vô minh, kiêu mạn, thù hận, bám luyến, đố kỵ và tham lam. Sáu âm này cũng có sức mạnh để đóng lại cánh cửa tái sinh vào sáu cõi luân hồi bởi một chúng sinh trong sáu cõi, không ngoại lệ, đều có trong thân thể sáu âm tiết tương ứng với sự tái sinh trong sáu cõi. Nguyên nhân của việc lang thang trong luân hồi là vì điều kiện hiện hữu của sáu âm này.

Khi con trì tụng OM MANI PEME HUNG, sáu âm của Đức Quán Thế Âm, điều quan trọng là hiểu rằng chúng có sức mạnh điều phục và đẩy lùi sáu âm luân hồi bình phàm, nhờ đó chặn hay đóng lại cánh cửa tái sinh vào sáu loài chúng sinh. Đó là sức mạnh đặc biệt của Minh chú Mani. Thêm nữa, trong chính đời này, đơn giản trì tụng OM MANI PEME HUNG sẽ xua tan bệnh tật, ốm đau và các thế lực ma quỷ. Các con sẽ trở nên hạnh phúc, an lạc và đầy đủ. Trì tụng câu chú này sẽ tăng cường sức mạnh thiền định và con sẽ phát triển những cấp độ thiền định sâu sắc hơn trong đời này, thứ sẽ tiếp tục trong nhiều đời tương lai. Lúc chết, các con sẽ không sinh vào ba đọa xứ mà vãng sinh về Dewachen – Tây Phương Cực Lạc hay trong chính cõi Tịnh Độ của Đức Quán Thế Âm – Riwo Potala, và ở đó, con sẽ dần dần đạt đến Phật quả. Cho tới lúc đó, ân phước gia trì và sức mạnh của thực hành sẽ không cạn kiệt; nó sẽ tiếp tục tạo ra kết quả giác ngộ.

Quán Thế Âm thực sự không giống các Bổn tôn khác. Nhiều người thích các Bổn tôn phẫn nộ, chẳng hạn Phổ Ba Kim Cương, Mã Đầu Minh Vương, Guru Drakpo hay tương tự, và muốn thành tựu các pháp này, nhưng nếu họ không biết rõ và chính xác cách thực hành giai đoạn phát triển và hoàn thiện của các pháp tu Mật thừa cấp nội về chư Bổn tôn phẫn nộ, rất khó để thành tựu. Tuy nhiên, Quán Thế Âm thì dễ dàng hơn và Minh chú Mani cũng rất dễ trì tụng. Vì vậy, hãy nhớ điều này trong tâm.

Có nhiều người nghĩ rằng thực hành Quán Thế Âm và Minh chú Mani chỉ dành cho đại chúng, người già và trẻ nhỏ, chứ không dành cho những hành giả và học giả đích thực. Thái độ này là bởi sự vô minh; nó hoàn toàn sai lầm. Thực sự, trong tất cả các Bổn tôn, Quán Thế Âm là Bổn tôn chính yếu và quan trọng nhất. Điều này đúng với ngày nay và cả trong quá khứ, trong thời đại của các học giả và đại thành tựu giả vĩ đại của Ấn Độ, phần lớn các vị đều đạt chứng ngộ nhờ thực hành Quán Thế Âm. Mỗi một vị đều có những linh kiến về Quán Thế Âm và nhờ đó, các Ngài đạt được những thành tựu và chứng ngộ tâm linh. Và đặc biệt ở Tây Tạng, mọi vị đạo sư vĩ đại nhất đều có kết nối mạnh mẽ với Đức Quán Thế Âm. Các vị có linh kiến, thọ nhận những tiên tri trực tiếp và nhờ Quán Thế Âm, các Ngài đạt chứng ngộ.

Ân phước gia trì của thực hành này cực kỳ lớn lao. Đừng nghi ngờ về nó. Trì tụng dù chỉ một chuỗi Minh chú Mani cũng có lợi lạc to lớn, chẳng thể nghĩ bàn. Cầu nguyện đến Quán Thế Âm một cách thành tâm và trì tụng Minh chú thực sự là một pháp tu rất sâu xa. Nếu con cầu nguyện đến Ngài đều đặn và trì tụng Minh chú Sáu âm càng nhiều càng tốt, chắc chắn khi con rời bỏ cuộc đời này, con sẽ không sinh về các cõi thấp. Bởi vậy, hãy xem xét điều này và hòa nhập pháp tu này vào cuộc đời.

Các con cần thấy mọi hình tướng đều là Quán Thế Âm, mọi âm thanh đều là Minh chú Sáu âm của Ngài và mọi ý niệm khởi lên đều là tâm của Ngài. Con cần có lòng từ và bi dành cho mọi chúng sinh không ngoại lệ, từ con côn trùng nhỏ bé nhất đến chúng sinh to lớn nhất, bởi tất cả, giống như con, đều muốn hạnh phúc và mong được trải nghiệm hỷ lạc. Không ai muốn khổ đau. Vì thế, điều quan trọng là luôn có lòng từ dành cho mọi hữu tình chúng sinh, duy trì trạng thái ba phần của sự tỉnh giác thanh tịnh và trì tụng OM MANI PEME HUNG càng nhiều càng tốt.

 

 

Nguyên tác: The Practice of Avalokiteshvara, Pith Instructions by the Venerable Yangthang Rinpoche. | Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

Mọi sai sót là lỗi của người dịch. Xin thành tâm sám hối trước Tam Bảo, Tam Gốc.
Mọi công đức có được, dù nhỏ bé, xin hồi hướng vì sự giác ngộ của tất thảy bà mẹ chúng sinh.

Ý kiến bạn đọc
13 Tháng Chín 201601:15
Khách
Âm thứ nhất, OM [Án], là tổng hợp của ba mẫu tự A, U và M, tượng trưng cho thân miệng ý ô nhiễm của người tụng chú, đồng thời cũng tượng trưng cho thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà. Có thể nào chuyển thân miệng ý ô nhiễm thành thân miệng ý thanh tịnh được không? Hay đây là hai phạm trù hoàn toàn tách biệt? Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm, mang đủ mọi tánh đức. Thân miệng ý thanh tịnh đến từ sự tách lìa trạng thái ô nhiễm, chuyển hóa ô nhiễm thành thanh tịnh. Chuyển hóa bằng cách nào? Phương pháp tu được nhắc đến qua bốn âm kế tiếp.
MANI [ma ni], nghĩa là ngọc báu, tượng trương cho phương tiện, là tâm bồ đề, vì chúng sinh mà nguyện mở tâm từ bi, đạt giác ngộ. Cũng như viên ngọc quí có khả năng xóa bỏ cảnh nghèo, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng xóa bỏ sự bần cùng khó khăn trong cõi luân hồi và niết bàn cá nhân. Như ngọc như ý có khả năng chu toàn mọi ước nguyện của chúng sinh, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng chu toàn mọi ước nguyện chúng sinh.

PADME [bát di], nghĩa là hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ. Hoa sen từ bùn mọc lên nhưng lại không ô nhiễm vì bùn. Tương tự như vậy, trí tuệ có khả năng đặt người tu vào vị trí không mâu thuẫn ở những nơi mà người thiếu trí tuệ đều sẽ thấy đầy mâu thuẫn. Có nhiều loại trí tuệ, trí tuệ chứng vô thường, trí tuệ chứng nhân vô ngã (con người không tự có một cách độc lập cố định), trí tuệ chứng tánh không giữa các phạm trù đối kháng (nói cách khác, giữa chủ thể và khách thể) và trí tuệ chứng sự không có tự tánh. Mặc dù có nhiều loại trí tuệ, nhưng chính yếu vẫn là trí tuệ chứng tánh Không.

Trạng thái thanh tịnh có được là nhờ sự kết hợp thuần nhất giữa phương tiện và trí tuệ, được thể hiện qua âm cuối, HUM [hồng]. Âm này ứng vào trạng thái bất nhị, không thể phân chia. Trong hiển thừa, phương tiện và trí tuệ bất nhị có nghĩa là phương tiện ảnh hưởng trí tuệ, và trí tuệ ảnh hưởng phương tiện. Trong mật thừa, sự hợp nhất này ứng vào một niệm tâm thức trong đó phương tiện và trí tuệ đồng loạt hiện hành. Nói về chủng tự của năm vị Thiền Phật, HUM là chủng tự của Bất Động Phật [Akshobhya], sự đứng yên không gì có thể lay chuyển nổi. Om mani padme hum [Án ma ni bát di hồng], có nghĩa là dựa vào đường tu kết hợp thuần nhất phương tiện và trí tuệ mà người tu có thể chuyển hóa thân miệng ý ô nhiễm của mình thành thân miệng ý thanh tịnh của Phật. Thường nói người tu không thể tìm Phật ở bên ngoài, tất cả mọi nhân tố dẫn đến giác ngộ đều sẵn có từ bên trong. Chúng ta ai cũng mang sẵn trong mình hạt giống thanh tịnh, cốt tủy của Như Lai (Tathatagarbha - Như lai tạng), đó là điều cần nuôi nấng phát triển đến mức tột cùng để bước vào địa vị Phật đà.
=== Dalai Lama ===
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Chín 2015(Xem: 5209)
Phía trước, ở giữa biển mây phẩm vật cúng dường Đức Phổ Hiền, / Nơi an trú của chư vị lama, Yidam, Tam Bảo và Hộ Pháp / Cùng các đấng hiền thánh đã thành tựu chân lý; / Xin hoan hỷ nhận mây cúng dường các phẩm vật này, và ban cho con chân lý tối thượng.
13 Tháng Tám 2015(Xem: 5412)
Đây là một bài ca tụng mười bảy đại sư Nalanda được đặt danh đề “Mặt Trời Chiếu Sáng Ba Phương Diện Chánh Tín”.
08 Tháng Tám 2015(Xem: 8329)
Bởi ta đã thực hành trong cuộc đời, ta sẽ không sợ hãi khi tiến trình của sự hấp hối bắt đầu. Chúng ta sẽ bám rễ vào niềm tin và biết rõ thái độ nào là lợi lạc và thái độ nào không có lợi trong tiến trình này.
25 Tháng Bảy 2015(Xem: 4521)
Như đã được đề cập đến trong chương trước, trong tất cả chúng sinh trong cõi luân hồi đều mang trong mình Phật tánh. Cho dù là vậy, có phải tất cả chúng sinh trong 5 cõi: địa ngục, quỷ đói, súc sinh, atula và cõi trời đều có khả năng để tu thành chánh quả? Câu trả lời là Không. Chỉ có ở “Kiếp người quý báu” mới hội tụ đủ 2 phẩm chất của Thiện và Duyên và tâm phát khởi 3 Lòng tin mới có đủ những điều kiện thuận lợi để tu tập chánh pháp.
03 Tháng Bảy 2015(Xem: 5966)
Dù người ta tin tưởng bất kỳ điều gì về sự thực của những thiên thần hay quỷ ma hung dữ, rõ ràng là những nhà lãnh đạo của sự sùng bái Dolgyal Shugden chẳng làm gì hết trong hơn 30 năm qua
02 Tháng Bảy 2015(Xem: 5009)
Việc nghiên cứu về lịch sử khám phá rằng thực hành Dolgyal, là thực hành có ngụ ý bè phái mạnh mẽ, có lịch sử kết hợp với một xu thế bè phái không hòa hợp trong những thành phần, và giữa các cộng đồng khác nhau của Tây Tạng.