Chương Một Let Be, Let Go and Now What?

10 Tháng Chín 201503:32(Xem: 4850)
KHOA HỌC NÃO BỘ & 
THIỀN CHÁNH NIỆM 
Quán Như Phạm Văn Minh 
Nhà xuất bản Văn Hóa Văn Nghệ 2015

Chương Một
Let Be, Let Go and now What?

Trong cuốn Cơ sở Khoa học của Thiền Chánh Niệm tôi đề cập tính chất chủ yếu của Chánh Niệm là Bàng Quan (Let Be) và Buông Xả (Let Go).  Tuy nhiên còn một giai đoạn thứ ba trong các liệu pháp mà các Bác sĩ Tâm thần áp dụng để chữa trị bệnh nhân là Let in, tìm cách để các kinh nghiệm tích cực thẫm thấu vào não bộ. Tôi hy vọng các bác sĩ chuyên khoa tâm thần (psychiatrists) và các nhà tâm lý chuyên về não bộ (neuro-psychologists) ‘gốc Việt’ góp phần kinh nghiệm vào việc thực tập Thiền Chánh Niệm. Mỗi lần đọc được các bài về Thiền trên các Web Phật giáo hay không Phật giáo, tôi mừng rỡ vì nghĩ là sẽ có nhiều người đồng thanh tương ứng, và hy vọng một ngày nào đó các bài viết về Thiền càng ngày càng đậm rõ nét khoa học như các bài viết các nhà khoa học đang cổ động Thiền Chánh Niệm hiện nay ở Tây Phương. Tôi cũng có nói vào cửa Thiền theo cửa nào cũng tốt, huống chi bằng cửa triết lý và nghệ thuật. Nhưng thiền sức khỏe gần như một nhu cầu thiết yếu của thời đại, và là một phương tiện hoằng pháp hữu hiệu cho các thanh niên và sinh viên Phật tử trẻ.

Nhưng hy vọng này cũng như hỏa ánh hỏa châu chợt sáng chợt tắt, nên đã lở ‘mang lấy nghiệp vào thân’, tôi xin phép tiếp tục viết về Thiền Chánh Niệm với kiến thức  hiện có của  mình, tới đâu hay tới đó.  

Now what?

Sau hai giai đoạn chủ yếu trong Thiền Chánh Niệm (TCN), Let be và Let go, các nhà Tâm lý Trị liệu có nhắc tới một giai đoạn tích cực thứ ba là Let in (the Good). Bác sĩ Rick Hanson đưa ra một hình ảnh minh họa giống như trong vườn hoa ‘tâm linh’, giai đoạn thứ nhất Let Be của Chánh Niệm là giai đoạn ý thức về cây cỏ trong vườn, giai đoạn thứ hai là Let Go tức là nhổ cỏ dại và giai đoạn thứ ba là Let in trồng thêm những khóm hoa mới.  Giai đoạn Chánh Niệm là giai đoạn quan trọng nhất vì nếu chúng ta sống trong thất niệm năm này sang năm nọ, không ý thức là cỏ hoang cỏ dại đã mọc ra khắp vườn và đến một ngày nào đó, chúng ta không còn khả năng để đối phó, dẫn đến trình trạng cả hệ thống thân-tâm sụp đổ (nervous breakdown).  (xem TCN tr 37)

Nhà tâm lý não bộ Gia Nã Đại Donald Hebb sau một thời gian nghiên cứu hoạt động não bộ kết luận là “Neurons fire together, wire together” (những tế bào thần kinh nào dùng sóng điện liên lạc với nhau sẽ kết hợp và tăng cường cho nhau). Chúng ta dùng não để thay đổi tâm và dùng tâm để thay đổi não. Nếu chúng ta biết ‘cơ chế’ hoạt động của não chúng ta có thể có một khung thực hành tích cực để thay đổi các tế bào não, dĩ nhiên là làm ‘tâm’ tốt hơn. Khi não hoạt động tích cực hơn, tâm sẽ gạn lọc bớt reactive và làm giảm những tình cảm tiêu cực như thù hận, lo âu, trầm cảm.. và và đáp ứng (responsive) hỗ trợ các tình cảm tích cực như vui vẻ, an lạc với kích thích bên ngoài.

Quá trình tiến hóa của não bộ

Trái đất thành hình sau khi vũ trụ bùng nổ (big bang) khoảng 4.0-  đến 4.5 tỷ năm và phải đợi chứng một tỷ năm sau đó đời sống trên trái đất mối bắt đấu thành hình (khoảng 3.5 tỷ năm). Khi các sinh vật đa bào hình thành và khi cơ thể các sinh vật trở nên phức tạp và cần một cơ quan ‘trung ương’ điều khiển não bộ mới thành hình( khoảng 600 – 650 triệu năm). Các loài có vú và cá không có xương sống như Sứa (Jelly Fish) thành hình khoảng 200 triệu năm. Các loài linh trưởng và Homo-sapiens xuất hiện khoảng chừng 150 triệu năm ; Con người hiện đại (Cromagnon) xuất hiện khoảng 55 triệu năm và các genome chuyển hóa và mắt con người lúc đó thường có hai mầu, nâu hạt dẽ hay xanh lục và cho đến chừng 5000 năm có lẽ một đứa bé nào ở Đan Mạch sinh ra có mắt xanh dương và mầu này trở nên mầu mắt được ưa chuộng nhất.

Về phương diện cấu trúc của não xin xem TCN (Tr 18-19). Để đáp ứng với nhu cầu sống còn, trọng lượng não bộ con người tăng gấp 3 lần so với tổ tiên chúng ta trong thời đại đồ đá cũ và mới (paleo- and neo-ontology) và não có 3 lớp võ dùng trong ba chức năng khác nhau. Hai chức năng đáp ứng với nhu cầu sống còn là tránh nguy hiểm (Avoiding) khỏi phải vào chui vào bụng thú dữ hay những bộ lạc thù nghịch và chức năng thứ hai là đi tìm phần thưởng (approaching) thỏa mãn các nhu cầu căn bản như thực phẩm và sinh lý…. Phản ứng mà chúng ta nhắc ở trên là Fight, Flight hay freeze. Chức năng này gây ra đau khổ cho chúng ta ( lo âu, sợ hãi…) tượng trưng cho cây gậy. Nhưng nếu chúng ta không tìm được thực phẩm hay sex hôm nay, chúng ta vẫn còn hy vọng tìm thấy thực phẩm hay sex vào một ngày khác. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, chúng ta không tránh được cây gậy, chúng ta (hay tổ tiên chúng ta) sẽ không còn dịp nào tìm ra thực phẩm vì lúc đó chúng ta đã trở thành thực phẩm cho các loài thú dữ hay các thành phần thù nghịch khác. Nghĩa là chúng ta thà chịu đau khổ trong một thế giới ít tài nguyên trong cuộc chạy đua sống còn trong chọn lựa tự nhiên (natural selection). Ai dai sức và thông minh quyền biến thì sống sót.

Chức năng thứ ba của hệ thống não bộ là chức năng sống tập đoàn (xã hội tính), thường trong một bộ tộc chừng 500 người. Xã hôi hóa bắt đầu từ việc chọn lựa đôi lứa, cần tiêu chuẩn như lấy chồng chọn tông, lấy vợ chọn giống (có khả năng sản xuất nhiều hậu duệ . Lúc xã hội phát triển phức tạp tiêu chuẩn thường là kinh tế (môn đăng hộ đối), hay đại gia thì lấy ‘hot girl chân dài’ (tôi không ưa chữ này nhưng nói để chứng tỏ tôi không lạc hậu về mặt ngôn ngữ so với các người viết bên nhà) (!) Xã hội càng phức tạp chừng nào não bộ càng phải hoạt động nhiều chừng đó và càng lớn chừng đó (use it or loose it). Đó là lý do tại sao loài chim và loài có vú có não bộ lớn hơn não bộ loài bò sát và cá (so với trong lượng nói chung của cơ thể) vì loài chim và có vú phải phải dùng não bộ chọn người phối ngẫu, lo chăm sóc con cái (con người mới trãi qua một thời gian niên thiếu dài hơn bất cứ một loài thú nào khác)  

Quê nhà của Tâm

Tại sao lúc nào tâm của chúng ta lúc nào cũng lo âu, xao xuyến, không lúc nào an tại vì nhu cầu sống còn. Nếu chúng ta không đề cao cảnh giác, chúng ta bị cây gậy đập tan xương thịt nát, nghĩa là vào bụng thú dữ và không có cơ hội sống sót. Giữa hai loại sai lầm giữa một con cọp thiệt là một con cọp giấy, chúng ta thà lầm nghĩ một con cọp thiệt là cọp giấy còn hơn dễ ngươi xem một con cọp thiệt là cọp giấy! Nghĩa là thà bị lo âu, sợ hãi còn hơn là không sống sót. Do đó tâm và não bộ lúc nào cũng cảnh giác với các tín hiệu tiêu cực và dễ nhớ các kinh nghiệm tiêu cực hơn và các cuộc vui (ngày vui qua mau!).

Mặc dù lúc nào cũng bận tâm với sự sống còn và tâm-thân lúc nào cũng bất ổn, nhưng theo BS Rick Hanson quê nhà đích thực của tâm là nội tâm an tĩnh, vui vẻ tâm trạng mà Hanson gọi là an lạc (inner peace), hài lòng (contentment) và chăm sóc (caring) cho người khác. Quê nhà của Tâm là hệ thống đối giao cảm, nơi tâm tạm thời yên nghỉ và tích tụ năng lực mới đối phó  những biến cố có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nếu hệ thống dây thần kinh nối kết với hệ giao cảm Sympathetic System (xem TCN tr 41-42)  vì một lý do nào đó bị cắt đứt, chúng ta vẫn còn sống dù là chuông báo động những nguy hiểm không còn hoạt động được, nhưng nếu dây thần kinh nối kết với hệ đối giao cảm (Para- sympathetic) bị cắt đứt, chúng ta chết ngay tức khắc.

Thành ra ‘bản chất’ của tâm chính ra là an lạc, hài lòng và thương cảm, chuyển qua thuật ngữ của Phật giáo là an lạc, từ, bi, hỷ và xả. Giống như tổ sư Thiền dạy “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật’. Đâu phải sự tình cờ mà các Tổ Sư Thiền và các nhà khoa học não bộ sống ở hai thời đại khác nhau, trong hai nền văn hóa khác nhau, có nhận xét tương tự, hay dùng ngôn ngữ của  Joanna Macy ‘có một sự trùng hợp đáng ngạc nhiên’. Khi chúng ta không bị hoàn cảnh bên ngoài phá quấy hay đe dọa, tâm của chúng ta trở về nghỉ ngơi trong hệ thống đối giao cảm, an tĩnh nội tâm, hỷ và xã, một T6am không còn thù hận, tham lam hay vô minh. Tôi đề nghị xem đây là nhưng tiêu chuẩn giải thoát, thay vì bằng những yếu tố mà chúng ta không (hay chưa kiểm chứng được).

Kinh nghiệm ngồi Thiền cho quý vị thấy tâm thường rối loạn thay vì yên tĩnh. Tề Thiên vung thiết bảng quấy phá lung tung, tâm viên ý mã, thế thì an lạc, từ bi hỷ xả chỗ nào? Trong Cơ Sở Khoa học của Thiền Chánh Niệm (TCN) chúng tôi có nói khi ngồi thiền, chúng ta ‘sang số’ từ Tâm Tư Duy (Thinking mind) sang Tâm Cảm Thọ (sensing mind). Chuyển qua Tâm cảm thọ, Tề Thiên tự nhiên bớt quấy phá hơn, như thể Đường Tam Tạng niệm chú khiến vòng kim cô thắt chặt lại. Thở ra, hít vào. Ra vào. Một hai. Giản dị như thế nhưng đó là chú niệm của Phật Bà, nếu quý vị chưa thử, thử xem sao! Chư Tổ cũng không nói gì hơn trực chỉ chân tâm, và Kiến tánh tỉnh thức. Giác ngộ là tỉnh thức, chấm dứt khổ đau là có an lạc. Euraka! Chúng ta chúc nhau “Ngày an lành, đêm an lành. Đêm ngày sáu thời đều an lành” Nụ cười của Đức Phật mãi an lạc và tự tại trên tòa sen.  Không phải giải thoát thì là gì?

Ba câu hỏi khoa học còn sót lại

Rick Hanson nói hiện còn ba câu hỏi còn sót lại: Nguyên nhân của Big Bang, Hai thuyết Tương Đối của Einstein và các nhà Cơ Học Lượng Tử kết hợp thành thuyết Grand Unified Theory, được nhiều bằng chứng khoa học hỗ trợ, nhưng vẫn còn nhiều điểm mâu thuẫn, và câu hỏi thứ ba, mối liên hệ giữa Tâm và Não Bộ. Câu hỏi thứ nhất đã được trả lời qua công trình nghiên cứu CERN của Âu châu gần đây đã tìm ra hạt God (but no God thanks!) và nguyên tắc complementary của các nhà Cơ học Lượng tử đề giải thích những hiện tượng nói nhìn có vẻ mâu thuẫn giữa Einstein và các nhà Vật lý mới (xem TCN tr. 109-115)

Khoa học não bộ là một khoa học còn non trẻ, chỉ bắt đầu hơn 2 hay 3 thế kỷ, nhưng thực sự mới phát triển mạnh từ thập niên 70s và trong vòng 30 năm qua kiến thức về não bộ tăng gia gấp đôi, nhờ các dụng cụ đo đạc hoạt động các dây thần kinh như fMRI  và Neuro Scan. Tuy thế những khám phá rất đáng tin cậy và các nhà khoa học não bộ vẫn tiếp tục phát kiến về mối liên hệ giữa Tâm và Não. Dựa trên mối giao lưu giữa Khoa học Não bộ, Tâm lý và phương pháp nội tĩnh Đông Phương, nhất là Thiền của Phật Giáo, các nhà khoa học đưa đến những kết luận làm nền tảng của các phương pháp trị liệu tâm thần và nhất là chuyển hóa tâm qua não như chúng tôi có dịp nhắc tới. Thiền của Phật Giáo đóng góp tích cực chuyển hóa tâm-thân, đóng góp của Thiền Phật giáo cho nhân gian lớn tới mức nào!   Nếu các nhà khoa học não bộ tìm ra cơ chế mối liên hệ giữa não và tâm, xem như thắc mắc cuối cùng khoa học đều được giải đáp bằng cách này hay cách nọ. Quả thật là tội nghiệp và bất công cho Phật giáo, nếu Phật tử chỉ được dạy chánh pháp qua những ‘tín ngưỡng dân tộc’ đầy dẫy mê tín dưới nhãn hiệu ‘tám vạn bốn ngàn pháp môn’ để che lấp nọa tính không chịu thay đổi. Về điểm này, tôi hoàn toàn đồng ý với Thầy Nhật Từ, nếu ‘Pháp môn’ nào không cứu được khổ như Đức Phật trân trọng, thì pháp môn đó không đáng lưu giữ và truyền bá.

Let in: trồng thêm mấy chậu trong khu vườn tâm linh

Trong khi thực hành chánh niệm, chúng ta chỉ cần đê tự nhiên let be và nếu buông xả let go được thì càng tốt, nhưng nhiều người bị trầm cảm quá nặng, chúng ta cần những biện pháp tích cực hơn để nhổ cỏ dại. Tỷ lệ các bệnh nhân bị trầm cảm được hồi phục theo giáo sư Mark Williams cho biết chừng 30 đến 50% ngoài ra còn những người lâm vào tình trạng trầm cảm mãn tính và phải trở lại Bệnh Viện điều trị hai hay ba lần. Thực hành Chánh niệm chỉ là bước đầu để chúng ta quan tâm đến tình trạng sức khỏe tâm thần của minh.

BS Rick Hanson dựa trên nguyên tắc dùng Tâm thay đổi não, và sau đó dùng não để thay đổi tâm và giúp tế bào não bộ mới sinh sản thêm (self directed neo-plasticity). Lần này chúng ta không còn bàng quan hay buông xả mà tích cực can thiệp vào các sinh hoạt tế bào não khi chúng trao đổi thông tin với nhau, các tế bào não được sinh sản hay tăng cường ‘sức mạnh’ theo nguyên tắc mà Donal Hebb đã tìm ra (Fire together = Wire together). Các tế bào não thay đổi như thế nào? Phần trao đổi của các tế bào là phần ‘đuôi’ có tên là synapse. Các phần này có thể thay đổi trong vòng 30 giây sau khi trao đổi thông tin. Trong các phần trước chúng tôi có nhắc đến việc thay đổi não bộ của các tài xế lái tắc xi ở Luân Đôn, phần não bộ hippocampus, là phần có trách nhiệm về ký ức về hình ảnh, đã ‘dày’ ra thêm. Các Thiền sư thực tập lâu năm như Matthieu Ricards, cũng có phần não bộ Pre-frontal Cortex (PFC) dầy thêm, vì phần này giúp hành giả duy trì chú ý khi thực hành Chánh niệm, trong khi phần lớn Pre-frontal cortex của người bình thường bị mỏng dần vì tuổi tác.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Ba 2016(Xem: 14781)
Thật sự thì cũng định trả lời kiểu “cộc lốc” ngay lúc con nhắn thư hỏi rồi, nhưng thiết nghĩ, nên trích dẫn bài kinh liên quan đến vấn đề này cho nó khoa học hoá vấn đề chút. Dù sao thì con người thời nay vẫn thích “trích chương tầm cú” và “mê tín khoa học” hơn! Mà lạ lùng thay, chính đức Phật lại là người đầu tiên trả lời thực tế và giản dị một cách lạ thường mà thời nay có thể cho rằng nói kiểu đó là thô tục, không lịch sự. Nhưng có lẽ nhờ dùng từ miêu tả không bóng bẩy như vậy mà trúng tim đen người nghe. Thầy tạm dịch theo lối văn cộc lốc để lấy nghĩa cho con thấy: “Này Vāseṭṭha, rõ ràng rằng, những bà mẹ của họ đến tháng có kinh nguyệt, mang bầu, sinh đẻ, rồi cho con bú mớm. Họ toàn sinh ra từ bộ phận sinh dục của những bà mẹ ấy cả. Vậy mà họ mở miệng ra là ca tụng giai cấp Bà-la-môn là cao thượng, thanh tịnh, da trắng, là con cái, là thái tử sinh ra từ miệng của Thượng đế (Phạm thiên), Thượng đế tạo ra, là nối dõi của Thượng đế, còn giai cấp khác là hạ liệt…” [2]
28 Tháng Ba 2016(Xem: 6251)
“In my Heart Sutra’s view, one plus one equals three , and two minus one equals emptiness ().” Tru Le Nhị nguyên nhi sinh tam thừa (phải trái và trung đạo,) và 1= Sắc = = Không. Nên nhớ định đề Bát Nhã: Không không phải Không mà là Không.
30 Tháng Tám 2010(Xem: 56360)
Quyển A Brief History of Time của Stephen W . Hawking đã bán trên 22 triệu quyển ở khắp thế giới và đã được dịch trên 35 thứ tiếng. Tôi nhớ đâu đó tác giả nói rằng ai đọc hiểu quyển này thì sẽ có trình độ hiểu biết về Vật lý học ngang hàng Với một kẻ đậu tiến sĩ Vật lý học. Mặc dù tác giả đã cố gắng viết một cách phổ thông dễ hiểu, nhưng quyển A Brief History of Time không phải dễ hiểu như lúc mình mới đọc sơ qua. Trên 10 năm qua, tôi đã được dịp đọc lại nhiều lần quyển sách của Hawking và thấy rằng : “Thấy Thượng Tọa Viên Lý đã tập trung thiên lực và định lực để làm vài ba sự việc ít ai làm được: đã dịch hai tác giả khó hiểu nhất của nhân loại , một người mang tên là Long Thọ (Nagarjuna) và một người mang tên là Stephen Hawking: một bên là cái khó khăn nhất của Đạo học Đông – phương và một bên là cái khó khăn nhất của Khoa học Tây phương. Chỉ nội nỗ lực vĩ đại truyền đạt hai cái khó khăn nhất của Phật học và Khoa học, Thượng Tọa Viên Lý đáng được chúng ta hết lòng ngưỡng mộ, đó là chư
03 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6660)
Muốn khảo sát vũ trụ hiện hữu thì trước nhất phải biết rõ chính mình, hiểu rõ người, chúng sinh, và vạn vật rồi mới có thể nghiên cứu tới vũ trụ quan. Thế nên, điều thực tiển trước nhất cho nhân sinh là quay trở về chính mình để biết mình là ai, từ đâu tới, đang làm gì và sẽ đi đâu?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6063)
Nhà khoa học dùng logic kiểu Descartes để tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên, còn Phật giáo, theo tôi hiểu , dùng tư duy đạo đức, triết học để giác ngộ và giúp nhân loại diệt khổ. Tuy nhiên, khoa học và Phật giáo không phải là không tương hợp với nhau. Một Phật tử có thể là một nhà khoa học lỗi lạc. Nhưng nếu dùng khoa học để giải thích một hiện tượng siêu hình, đối với tôi, là không thực tế.
10 Tháng Mười 2015(Xem: 9716)
Từ bi có sức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không? Trước tiên, từ bi sẽ chuyển hóa được cả thân và tâm của người tu tập.
17 Tháng Chín 2015(Xem: 11660)
Trong quyển Cơ Sở Khoa Học của Thiền Chánh Niệm, nội dung nhấn mạnh đến những phương pháp thực hành Chánh Niệm. Nội dung quyển này chú trọng đến những khám phá mới về vận hành của não khi thực hành Chánh niệm qua ánh sáng khoa học.
01 Tháng Chín 2015(Xem: 7905)
Tôi cũng xin tâm tình đôi chút . Hôm nay là ngày giỗi mẹ tôi . Ngày mẹ tôi mất cách đây 16 năm , lần đầu tôi nghe và đọc Bát Nhã Tâm Kinh : “Sắc bất dị không , không bất dị sắc ; thọ , tưởng , hành , thức , diệc , phục như thị …” và tìm đến triết lý “tánh không” của ngài Long Thụ . Qua cuốn sách của anh Bách , tôi suy ngẫm về cái Không lượng tử theo đó chân không là vật chất , vật chất là chân không , hai cái đó chỉ là một giả ngữ , chúng liên hoàn tương tác với nhau , cái này chứa cái kia ; chân không , vật chất chẳng sao tách biệt .
01 Tháng Chín 2015(Xem: 5818)
21 Tháng Năm 2015(Xem: 6146)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới. Ví dụ nếu chúng ta có một gene gây ra một bệnh di truyền huyết thống, thế hệ kế tiếp thế nào cũng mắc một bệnh tương tự, chạy trời không khỏi nắng!