Chương Mười Vầng thơ từ độ lên ngôi

10 Tháng Chín 201504:07(Xem: 4436)
KHOA HỌC NÃO BỘ & 
THIỀN CHÁNH NIỆM 
Quán Như Phạm Văn Minh 
Nhà xuất bản Văn Hóa Văn Nghệ 2015

Chương Mười
Vầng thơ từ độ lên ngôi

 

Dùng tâm thay đổi não và dùng não thay đổi tâm chúng ta có thể thay đổi cấu trúc não bộ và dần dần thay đổi nhãn quan về cuộc đời của chúng ta.

Đời là một kính vạn hoa, bất cứ một biến cố hay trãi nghiệm nào trên đời chúng ta đều có thể nhìn trong nhãn quan tiêu cực hay thất bại mà cũng có thể nhìn theo nhãn quan tích cực hay thành công. Chúng ta có thể biến đổi các tế bào nền synapses từ tiêu cực sang tích cực và tăng cường các synapses tích cực như trong chương Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.

Tình yêu là đau khổ hay hạnh phúc? Hồ Dzếnh nhìn ở phía tích cực, được sống và yêu hay được yêu là một điều hạnh phúc.

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé

Tình chỉ VUI khi chửa vẹn câu thề

Thơ viết đừng xong

Thuyền trôi chớ đỗ

Xem truyện kiếm hiệp của Kim Dung, tôi rất cảm kích mối tình của Đầu Đà Hư Trúc, bị cô A TỬ chanh chua lừa đảo hành hạ.  Nhưng ông vẫn thà là làm một thiết đầu đà sống chết cho tình yêu bởi yêu là hạnh phúc, dù là yêu một ma nữ như A Tử!

Theo tôi, đó là một mối tình đẹp nhất trong những mối tình. Như mối tình Trương Chi, không vẹn câu thề, chén ngọc vỡ tan vì một giọt lệ rơi. Đẹp và hạnh phúc quá. Tình trong giây phút mà thành thiên thu. Chúng ta vui hay buồn khi yêu và khi thất tình? Có thể chúng ta cảm thấy hạnh phúc, khi thấy những mối tình đẹp và trong sáng như thế.

Anh Hoàng Nguyên Nhuận có lúc đọc cho tôi nghe hai câu thơ của Tô Man Sự (Bùi Giáng phiên âm là Tô Mạn Thù), khi nghe xong tôi cảm thấy rúng động cả người

 Hoa Nghiêm bảo bố cao thiên trượng

Chẩm chập khanh khanh ái ngã tình

Tô Man Sự theo Mao Trạch Đông trong cuộc Vạn lý Trường chinh, có lúc bị quân Tưởng bao vây nên phải chạy lên chùa Hoa Nghiêm ẩn náu. Nằm nhớ người yêu và viết hai câu này. Tạm dịch:

Hoa Nghiêm thác đổ cao nghìn trượng

Sao bằng tình ta với ái khanh

Độc giả nghĩ là tôi đang lạc đề, nhưng cùng một trãi nghiệm trong đời, chúng ta có thể cảm thấy đau khổ hay hạnh phúc, tùy cách nhìn của chúng ta. Đó là ý nghĩa tựa cuốn Best Selling Full Catastrophy Living của Ron Kabat Zinn theo nghĩa là chúng ta sống vời Đau khổ và hạnh phúc trong cuộc đòi. Chấp nhận sống trọn vẹn, đầy đủ.

Hồ Dzếnh có lẽ có một cái nhìn khác hơn là cái nhìn của người ‘bình thường’ như phần lớn chúng ta. Tôi còn nhớ trong một bài hát khác có những câu đứt ruột như: “Nếu biết là yêu là đau khổ, thì dương gian đừng có chúng mình!”  Thầy Nhất Hạnh gọi đó là ‘văn nghệ đứt ruột’. Yêu mà sợ khổ thì thà đừng yêu còn hơn! Mà sống không yêu thì thà đừng sống còn hơn! Dù thuyền trôi chớ đỗ, chúng ta vẫn có thể biến đau thương thành ‘thú đau thương’. Đời là một khúc nhạc buồn mà cũng có thể là một khúc nhạc vui.

Quý vị có thể sống lại những trãi nghiệm Blue Moon, hiếm có và quý giá trong đời mình, như chuyện vòng tay học trò của tôi. Không biết cô có khi nào xem tôi như một người tình ‘dự khuyết’ hay chỉ xem là một anh học trò mới lớn điên rồ. Đối với tôi đó là một mối tình thuần khiết, trong sạch nhất mà tôi có trong đời. Khi nào tôi nghĩ đến cô tôi cũng thấy ấm áp và hạnh phúc và còn nghe bên tai tiếng cười trong như thủy tinh khi cô giảng bài. Cũng như nhà sư đa tình Tô Man Sự và thiết đầu đà Hư Trúc, cũng giống như tôi, họ sung sướng khi nghĩ tới người mình yêu dù bị người tình phụ hay thờ ơ. Kim Dung đặt tên cho Thiết Đầu Đà là Hư Trúc. Trúc là tâm quân tử trong đạo Nho. Đó là mối tình trong sạch và trinh nguyên dù nhiều người cho ông Thiết Đầu Đà này là đại ngu. Giống như hai nhà sư đa tình nói trên, thay vì đau khổ làm người thua cuộc, dù đến rồi đi, em vẫn xin tạ ơn đời, tạ ơn cô.

Em hai mươi tóc xõa dài

Một bài thơ khác cũng làm tôi thao thức là bài Quán Bên Đường của Quang Dũng:

Hồn đã vương qua vài sợi tóc

Tôi thương mà em đâu có hay?

Xã hội Việt nam là một xã hội lạm phát thi sĩ, tôi cũng như nhiều thanh niên khác, lúc nhỏ cũng tập tành làm thơ. Thơ không hay nên xoay ra viết chuyện, chuyện cũng không hay nên quay ra viết nghiên cứu! Giống như Sainte Beuve thành nhà phê bình vì không thành công như một nhà văn hay một nhà thơ!

Tôi cũng có viết một vài câu thơ cảm xúc về một mái tóc như Quang Dũng

Tình cũng rồi như mây trắng bay

Ừ đời như nước cũng vơi đầy

Ừ mai phiêu bạt khi nào gặp

Tóc hạ em còn trên cánh tay

Dù chỉ là những câu ghép vận chưa ra thơ, nhưng mỗi lần đọc lại tôi vẫn cảm thấy vui sướng (thơ mình mà!), và nếu lý thuyết của Rick Hanson là đúng, tôi đọc lại những câu này khi gặp những buồn trong đời sống, thay vì nói Bonjour Tristess ‘buồn ơi hỡi chào mi!’, tôi tìm cách nhổ cỏ dại để thay thế bằng một vài luống hoa trong vườn.Tôi nghĩ trong đời quý vị cũng có những trãi nghiệm tương tự, quý vị có thể dùng những niềm vui đó để thay đổi não, thay vì cứ để các synapses nghỉ ở những chỗ tiêu cực, càng ngày tâm càng ưu sầu và kích thích cho các stress hormones hành hạ mình.

Ly nước nửa đầy và  ly nước nửa vơi

Tại sao có người ‘lạc quan’ và có người bi quan? Tại trời sinh hay tại tập luyện tâm linh?

Tất cả bí quyết của kỹ thuật ‘dùng tâm đổi não và dùng não đổi tâm’ đều bắt đầu từ thực chứng ‘học nhi tri’ (nhờ học mới biết), chứ trong đời không có ai ‘sinh nhi tri’. Nói tới bẩm sinh tức là nói tới một lý do ngoài sự hiểu biết của chúng ta, trong khi phần lớn kiến thức của chúng ta là nhờ học và thu thập kiến thức trong quá trình sống. Ví dụ như hành động cài một cái nút áo, được lưu giữ trong ký ức làm việc của não. Theo Williams, nếu không có ký ức này, mỗi lần cài nút áo chúng ta phải học lại từ đầu! Ký ức làm việc của não đã được học trong bao nhiêu triệu năm của quá trình tiến hóa!

Nếu chúng ta tập nhìn trãi nghiệm qua thái độ ‘ly nước đầy, ly nước vơi’, chuyện này sẽ lưu lại trong ký ức làm việc của não. Và một khi gặp trãi nghiệm tiêu cực, chúng ta vui mừng nói là ‘còn tới một nửa ly nước’. Điều này không có nghĩa là chúng ta mang cặp mắt kính mầu hồng, nhưng chúng ta cũng không mang cặp mắt kính mầu đen bị ‘điều kiện hóa’, mà dùng trí tuệ để biết bất cứ cái gì cũng có hai mặt. Không có sáng thì cũng không có tối. Không có vui thì cũng không có buồn, bởi vì nếu không, thì chúng ta lấy gì để so sánh và biết sáng, tối? Trong quyển Cơ sở Khoa học của Thiền Chánh niệm tôi có định nghĩa Tuệ là nhìn sự vật như chúng là (Things are the way they are) nhờ thế mà chúng ta đạt tới mức Xả, không phản ứng cũng không ôm chầm lạc thọ, không xua đuổi các khổ thọ, nhất là các khổ thọ là kết quả của luật vô thường. Không có buồn thì làm sao chúng ta biết thế nào là vui?

Ai bảo chăn trâu là khổ? Không chăn trâu sướng lắm chứ! Chúng ta không thơ mộng hóa nổi khổ như trên, chỉ cần nhận biết có nổi khổ cần được đối trị. Nếu chưa đối trị nổi thì dùng chánh niệm để quán chiếu và biết là chúng đến rồi đi như bất cứ một hiện tượng tâm lý nào khác!

Nhìn quanh, chúng ta biết có nhiều thứ để tạ ơn. Ơn Cha mẹ cho chúng ta hình hài để sống trong cuộc đời này. Tạ ơn cha mẹ cho chúng ta một não bộ lành mạnh nhờ thế chúng ta sống và yêu với một trí thông minh bình thường, ít nhất cũng như người khác.

Cám ơn Vũ Trụ đã bùng nổ tạo ra bụi bặm nhờ thế mà mấy tỷ năm sau, có dưỡng khí cho chúng ta thở, có chất can-xi trong xương, chất sắt trong máu, tế bào não bộ được thành hình, nên chúng ta có thể tư duy. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?

Cám ơn thiên nhiên cho chúng ta những sáng mùa thu, những trưa mùa hạ, những bình minh, những hoàng hôn, những dòng sông xanh, những bãi biển với hàng thùy dương và những hàng tơ liễu thướt tha, để chúng ta hứng khởi làm thơ. Muốn biến ‘kho trời chung’ thành ‘của mình riêng’, quý vị phải sống trong chánh niệm, thay vì thất niệm trong túy sinh, mộng tử!

 

 Cám ơn tổ tiên đã chuyển hóa genes qua nhiêu thế hệ cho đến thế hệ chúng ta ngày nay, ý niệm mà Thầy Nhất Hạnh gọi là truyền thừa (hay luân hồi).

Cám ơn những sinh vật hay bao nhiêu người khác đã chết cho chúng ta sống, từ anh hùng, liệt sĩ trong lịch sử lập nước, dựng nước đến những sinh vật trong chuỗi thức ăn hàng ngày!

Xin nhắc quý vị chỉ trong vòng 30 năm nay nhờ những tiến triển của khoa não bộ, chúng ta đã thấy thấp thoáng mối liên hệ giữa tâm và não và đây là câu hỏi khoa học cuối cùng còn sót lại mà chưa có lời giải đáp thỏa đáng!

Nếu các nhà khoa học não bộ tìm thấy câu giải đáp qua Chánh niệm và phương pháp nội tĩnh của Phật giáo, không còn ai có thể nói là Phật giáo là một tôn giáo lánh đời hoặc là tôn giáo của người chết. Phục vụ người sống hay người chết cũng tùy quý vị tôn túc đang nổ lực hoằng pháp hay tùy vào cách hành trì của Phật tử, nhất là Phật tử trẻ, sẵn sàng chấp nhận giải thích chánh pháp dưới ánh sáng của khoa học.

Vị Phật trong tương lai, Phật Di Lặc, sẽ vổ bụng, ôm sáu lục tặc cười hả hê, tuyên bố là bây giờ Ngài xem chúng là Lục Phúc đem an lành cho chúng sinh. Chúng ta có thể vững tin là tất cả đều có ngày ai trong chung ta cũng được hưởng Ngày An Lành, Đêm An Lành, Đêm Ngày Sáu thời đều An lành. Miễn là quý vị tinh tấn, kiên nhẫn ngồi xuống, thanh thản thở ra một hơi thở, thở vào một hơi thở. Giữ Chánh niệm. Đừng để Tề Thiên hay các synapses tiêu cực quấy phá mình mãi.

Quán Như Phạm Văn Minh

Pháp danh Quảng Trí

Tháng Sáu năm 2015

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Ba 2016(Xem: 14782)
Thật sự thì cũng định trả lời kiểu “cộc lốc” ngay lúc con nhắn thư hỏi rồi, nhưng thiết nghĩ, nên trích dẫn bài kinh liên quan đến vấn đề này cho nó khoa học hoá vấn đề chút. Dù sao thì con người thời nay vẫn thích “trích chương tầm cú” và “mê tín khoa học” hơn! Mà lạ lùng thay, chính đức Phật lại là người đầu tiên trả lời thực tế và giản dị một cách lạ thường mà thời nay có thể cho rằng nói kiểu đó là thô tục, không lịch sự. Nhưng có lẽ nhờ dùng từ miêu tả không bóng bẩy như vậy mà trúng tim đen người nghe. Thầy tạm dịch theo lối văn cộc lốc để lấy nghĩa cho con thấy: “Này Vāseṭṭha, rõ ràng rằng, những bà mẹ của họ đến tháng có kinh nguyệt, mang bầu, sinh đẻ, rồi cho con bú mớm. Họ toàn sinh ra từ bộ phận sinh dục của những bà mẹ ấy cả. Vậy mà họ mở miệng ra là ca tụng giai cấp Bà-la-môn là cao thượng, thanh tịnh, da trắng, là con cái, là thái tử sinh ra từ miệng của Thượng đế (Phạm thiên), Thượng đế tạo ra, là nối dõi của Thượng đế, còn giai cấp khác là hạ liệt…” [2]
28 Tháng Ba 2016(Xem: 6253)
“In my Heart Sutra’s view, one plus one equals three , and two minus one equals emptiness ().” Tru Le Nhị nguyên nhi sinh tam thừa (phải trái và trung đạo,) và 1= Sắc = = Không. Nên nhớ định đề Bát Nhã: Không không phải Không mà là Không.
30 Tháng Tám 2010(Xem: 56365)
Quyển A Brief History of Time của Stephen W . Hawking đã bán trên 22 triệu quyển ở khắp thế giới và đã được dịch trên 35 thứ tiếng. Tôi nhớ đâu đó tác giả nói rằng ai đọc hiểu quyển này thì sẽ có trình độ hiểu biết về Vật lý học ngang hàng Với một kẻ đậu tiến sĩ Vật lý học. Mặc dù tác giả đã cố gắng viết một cách phổ thông dễ hiểu, nhưng quyển A Brief History of Time không phải dễ hiểu như lúc mình mới đọc sơ qua. Trên 10 năm qua, tôi đã được dịp đọc lại nhiều lần quyển sách của Hawking và thấy rằng : “Thấy Thượng Tọa Viên Lý đã tập trung thiên lực và định lực để làm vài ba sự việc ít ai làm được: đã dịch hai tác giả khó hiểu nhất của nhân loại , một người mang tên là Long Thọ (Nagarjuna) và một người mang tên là Stephen Hawking: một bên là cái khó khăn nhất của Đạo học Đông – phương và một bên là cái khó khăn nhất của Khoa học Tây phương. Chỉ nội nỗ lực vĩ đại truyền đạt hai cái khó khăn nhất của Phật học và Khoa học, Thượng Tọa Viên Lý đáng được chúng ta hết lòng ngưỡng mộ, đó là chư
03 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6661)
Muốn khảo sát vũ trụ hiện hữu thì trước nhất phải biết rõ chính mình, hiểu rõ người, chúng sinh, và vạn vật rồi mới có thể nghiên cứu tới vũ trụ quan. Thế nên, điều thực tiển trước nhất cho nhân sinh là quay trở về chính mình để biết mình là ai, từ đâu tới, đang làm gì và sẽ đi đâu?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6068)
Nhà khoa học dùng logic kiểu Descartes để tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên, còn Phật giáo, theo tôi hiểu , dùng tư duy đạo đức, triết học để giác ngộ và giúp nhân loại diệt khổ. Tuy nhiên, khoa học và Phật giáo không phải là không tương hợp với nhau. Một Phật tử có thể là một nhà khoa học lỗi lạc. Nhưng nếu dùng khoa học để giải thích một hiện tượng siêu hình, đối với tôi, là không thực tế.
10 Tháng Mười 2015(Xem: 9718)
Từ bi có sức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không? Trước tiên, từ bi sẽ chuyển hóa được cả thân và tâm của người tu tập.
17 Tháng Chín 2015(Xem: 11663)
Trong quyển Cơ Sở Khoa Học của Thiền Chánh Niệm, nội dung nhấn mạnh đến những phương pháp thực hành Chánh Niệm. Nội dung quyển này chú trọng đến những khám phá mới về vận hành của não khi thực hành Chánh niệm qua ánh sáng khoa học.
01 Tháng Chín 2015(Xem: 7906)
Tôi cũng xin tâm tình đôi chút . Hôm nay là ngày giỗi mẹ tôi . Ngày mẹ tôi mất cách đây 16 năm , lần đầu tôi nghe và đọc Bát Nhã Tâm Kinh : “Sắc bất dị không , không bất dị sắc ; thọ , tưởng , hành , thức , diệc , phục như thị …” và tìm đến triết lý “tánh không” của ngài Long Thụ . Qua cuốn sách của anh Bách , tôi suy ngẫm về cái Không lượng tử theo đó chân không là vật chất , vật chất là chân không , hai cái đó chỉ là một giả ngữ , chúng liên hoàn tương tác với nhau , cái này chứa cái kia ; chân không , vật chất chẳng sao tách biệt .
01 Tháng Chín 2015(Xem: 5823)
21 Tháng Năm 2015(Xem: 6148)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới. Ví dụ nếu chúng ta có một gene gây ra một bệnh di truyền huyết thống, thế hệ kế tiếp thế nào cũng mắc một bệnh tương tự, chạy trời không khỏi nắng!