● Myohi: Nữ Giáo Thọ Đại Hàn

24 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 6859)

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI
NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ:
Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam
Nhà xuất bản: PHƯƠNG ĐÔNG 2011

Phần III
CẢI CÁCH XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ

Myohi: Nữ Giáo Thọ Đại Hàn
Martine Batchelor
chuyển ngữ tiếng Anh

Myohi là một ni sư Đại Hàn, người đã xây nhà dưỡng lão cho chư ni và nữ cư sĩ. Mỗi ngày hai lần, ni sư hướng dẫn họ tập thể dục mềm dẻo theo chương trình của đài phát thanh.

*

Tôi xuất gia bốn mươi ba năm về trước, năm tôi 14 tuổi, ngay sau khi vừa xong chương trình tiểu học. Giờ tôi đã 57 tuổi. Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo Phật giáo, nên từ nhỏ tôi đã thường được gặp quý tăng ni. Được lắng nghe họ giảng Pháp, cái nhìn của tôi về cuộc đời đã thay đổi. Năm tôi 21 tuổi, chỉ năm hay sáu năm sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, đất nước tôi rất nghèo. Lúc đó, tôi suy nghĩ, “Nếu đợi đến lúc Giác ngộ mới cứu giúp mọi người, thì biết đến bao giờ người ta mới được tôi giúp?” Sau cùng tôi quyết định sẽ giúp người trước bằng cách hết lòng truyền dạy cho họ những lời Phật dạy.

Mấy năm trước đây tôi trở thành trụ trì của một ngôi chùa nhỏ tại thành phố Seoul, nơi tôi đã xây dựng một trường mẫu giáo lớn để giúp trẻ em và gia đình chúng. Tôi cũng là nhà tuyên giáo Phật giáo, công tác trong chương trình giúp đỡ các phạm nhân sắp chết, cố gắng giúp họ trong giai đoạn khó khăn, để sự ra đi của họ được dễ dàng và bình an hơn. Những năm 1980, tôi đi Đài Loan, ở đó tôi được gặp một ni sư, người đã xây dựng bệnh viện cho người nghèo, và lập ra một tổ chức từ thiện để giúp những người khốn khó. Tôi thật ngưỡng mộ tấm lòng chân thật và những lời đại nguyện từ bi của vị ni sư đến nỗi tôi cũng quyết định lập một tổ chức tương tự. Tôi thiết lập mối quan hệ với họ và quyết cống hiến hơn nửa cuộc đời tôi cho những người khốn khó.

Vì lý do đó, gần đây tôi lập ra ngôi nhà dưỡng lão cho các chị em phụ nữ. Họ có thể đến đây vì họ không có áo quần, thực phẩm, không một mái nhà để nương tựa. Đó thật là việc đáng làm. Mục đích chính của tôi là để họ được ở gần Phật pháp, để họ có thể dễ dàng tìm ra Phật tánh của mình. Có bốn sư cô khác ở đây với tôi: người quản lý, người điều hành, y tá và tài xế. Hiện có ba lão ni và mười tám bà cư sĩ, nhưng trong tương lai chúng tôi hy vọng có thể nhận khoảng ba mươi người. Tất cả đều miễn phí. 

Chúng tôi không thể tiếp nhận người bệnh nặng hay khuyết tật vì chúng tôi chưa có cơ sở phù hợp. Người già ở đây ít nhất phải có thể tự tắm giặt, tự mặc áo quần, ngoại lệ ở đây có hai lão ni, đi đứng rất khó khăn. Các vị ni phải ở đây vì chưa có nhà dưỡng lão dành riêng cho ni giới. Tôi dự định xây một toà nhà riêng biệt cho ni. Hiện tại vì chỉ có một toà nhà nên mọi người phải sống chung tại đây, một sự xếp đặt hơi bất tiện vì cuộc sống của người ni và người phụ nữ bình thường không giống nhau. 

Mấy ni chúng tôi trì kinh chung mà cũng tự đọc kinh riêng. Chúng tôi dậy từ lúc 5 giờ sáng, trì kinh, vệ sinh cá nhân chút đỉnh. Lúc 7 giờ thì ăn sáng, 9 giờ tiểu thực, 12 giờ trưa thọ trai, 3 giờ chiều tiểu thực và 6 giờ chiều là bữa tối. 7 giờ tối chúng tôi lại trì kinh. Khoảng giữa những thời gian đó thì thể dục, hành thiền và học kinh. Trí tuệ và từ bi phải được vung trồng và ứng dụng chung với nhau. Đó là lý do tại sao tôi làm những việc này, nhưng cũng chưa đủ. Tôi hy vọng là, trong tương lai, chư ni Đại Hàn sẽ xây dựng nhiều nơi giống như thế này; như thế họ có thể tự tu sửa để đạt đến Giác ngộ, đồng thời cũng có thể giúp đỡ người khác làm như thế.

Tôi dự định xây một toà nhà khác dành cho những người bệnh nặng. Nơi đó sẽ có nhiều chức năng, nhiều phòng ốc hơn, với nhà tắm, nhà vệ sinh đặc biệt được thiết kế cho người khuyết tật nặng. Tôi cũng muốn xây một ngôi nhà nơi người ta có thể đến để chuẩn bị ra đi, hy vọng là tôi có thể làm cho họ cảm thấy yên ổn như ở nhà, như đang bên cạnh người thân của họ, nơi đó sẽ tràn đầy tình cảm ấm áp. Tôi đã viếng thăm một số nhà dưỡng lão khác, thấy chúng lạnh lẻo, lợt lạt. Vì lý do đó, tôi muốn nơi này phải khác, phải thân thiện, ấm áp giống như một gia đình Đại Hàn thực sự.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Ba 2016(Xem: 6128)
Lời giới thiệu của người dịch: Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết về một phụ nữ Pháp thật phi thường là bà Alexandra David-Néel (1868-1969), đăng trên tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste, số l1, năm 2015). Trong Phật giáo có rất nhiều phụ nữ siêu việt và khác thường, xứng đáng cho chúng ta ngưỡng mộ và kính phục, mà bà Alexandra David-Néel là một trong những người phụ nữ ấy. Bài chuyển ngữ dưới đây là bài thứ ba trong một loạt bài với chủ đề "Phật giáo và người phụ nữ":
07 Tháng Ba 2016(Xem: 5733)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết ngắn phân tích hiện trạng của người nữ tu sĩ Phật giáo trên toàn thế giới. Trong suốt lịch sử nhân loại, vị trí của người phụ nữ luôn bị xếp vào hàng thứ yếu trong xã hội, và người nữ tu sĩ thì "thấp kém" hơn các nam tu sĩ trong lãnh vực tín ngưỡng. Phật giáo cũng không hoàn toàn tránh khỏi ảnh hưởng của tình trạng đó, dù rằng điều này đi ngược lại Giáo Huấn của Đức Phật. Bài này được viết cách nay đã 10 năm, trong khoảng thời gian này nhiều cải thiện đã được thực hiện, thế nhưng dường như vấn đề này vẫn còn là một đề tài nóng bỏng.
11 Tháng Giêng 2016(Xem: 10508)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên cứu từng kỉnh pháp và liên hệ với bối cảnh mà Bát kỉnh pháp ra đời.
07 Tháng Giêng 2016(Xem: 6349)
Dưới đây là phần chuyển ngữ của một bài viết trong quyển "Người phụ nữ" ("Les Femmes", nhiều tác giả, nhà xuất bản de l'Atelier, 2002), thuộc một bộ sách với chuyên đề "Các tôn giáo nghĩ gì?" (Ce qu'en pensent les religions). Tác giả bài viết này là Dominique Trotignon, nguyên tổng giám đốc Viện Nghiên Cứu Phật Học (IEB/Institut d' Etude Bouddhique) của Pháp, tu tập theo Phật giáo Theravada.
02 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6154)
Dù Phật giáo luôn quan tâm đến việc nêu cao trước quảng đại quần chúng hình ảnh của một tín ngưỡng phi-bạo-lực và mở rộng, thế nhưng đôi khi cũng không tránh bị cáo buộc là kỳ thị phụ nữ (misogyny) và phân biệt giới tính (sexism), nhất là khi nhìn vào vị trí của người phụ nữ trong sinh hoạt tập thể chốn chùa chiền.
13 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6776)
“Những nữ Phật tử đầu tiên” - The First Buddhist women - nói về các nữ đệ tử đầu tiên của Đức Phật nhằm khai thác thái độ tương đối tự do của Phật giáo đối với phụ nữ kể từ khi hình thành gần 2.600 năm về trước.
04 Tháng Chín 2015(Xem: 6066)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
11 Tháng Sáu 2015(Xem: 9811)
Vấn đề phá thai đã gây ra những bất đồng sâu xa về xã hội và chính trị ở Đông cũng như Tây Phương. Phật tử ở mọi nơi đều có bổn phận đưa ra sự chỉ đạo khôn ngoan cho những người gặp phải vấn đề nhức nhối này.
11 Tháng Sáu 2015(Xem: 15199)
Câu hỏi của tuần nầy đến từ Cô Gái Đẹp (Pretty Girl): Tôi là một người mẹ độc thân, đang nuôi một đứa con còn bé, mới bốn tuổi. Tôi năm nay 41 tuổi, và tôi đã có thai ba lần. Lần có thai đầu tiên, tôi đã phá thai, rồi sau đó, tôi cảm thấy không thể tha thứ cho chính tôi.