Chương Phổ Giác

10 Tháng Mười 201414:43(Xem: 5063)
KINH VIÊN GIÁC 
HT. Thích Trí Quang
 

Chương Phổ Giác

Lúc ấy bồ tát Phổ giác ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương cao cả, ngài đã chỉ dạy một cách thích thú về bịnh hoạn của thiền quán, làm cho đại chúng này được sự chưa từng có, tâm ý thư thái và ổn định lớn lao. Thưa đức Thế tôn, những người thời kỳ cuối cùng cách thời đại của ngài quá xa, hiền thánh ẩn dấu, lý thuyết sai lầm bùng cháy thêm lên; để làm cho những người mù mờ trong thời kỳ ấy khỏi sa vào lý thuyết sai lầm, con xin ngài dạy cho họ biết nên tìm người nào? nên cứ pháp nào? nên làm việc gì? nên trừ bịnh gì? nên phát tâm nào? Tác bạch rồi, bồ tát Phổ giác gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.

Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ tát Phổ giác: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể hỏi Như lai về sự tu hành như vậy, hiến cho những người thời kỳ cuối cùng con mắt tuệ giác không còn e sợ, làm cho họ thành được tuệ giác của các vị thánh giả. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Phổ giác vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.

Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử, người thời kỳ cuối cùng, khi sắp phát tâm vĩ đại và tìm thầy bạn tốt để tu hành, thì nên tìm người thấy biết chính xác: lòng không sống theo khuôn khổ phàm phu, không vướng vào lĩnh vực nhị thừa, biểu hiện bụi bặm mà tâm thường trong sáng, biểu diễn tội lỗi mà tán dương phạn hạnh, không làm cho người sống không giới luật. Tìm được người như vậy thì được tuệ giác vô thượng. Người thời kỳ cuối cùng gặp người như vậy thì nên phụng sự đến tính mạng cũng không tiếc. Người thầy bạn tốt này đi đứng nằm ngồi luôn luôn trong sáng thì nên kính trọng, giả sử biểu hiện tội lỗi thì đừng khinh thường, huống chi chỉ quan tâm đến của cải thân thuộc. Thiện nam tử nào không có ý xấu đối với thầy bạn tốt thì có năng lực thành đạt trọn vẹn tuệ giác chính xác, bông hoa tâm trí phát sáng, chiếu soi tất cả.

Thiện nam tử, hãy y cứ vào pháp của thầy bạn tốt, cái pháp phải tách rời bốn thứ bịnh. Một là bịnh làm, là nếu ai nói tôi chủ tâm làm mọi việc để cầu viên giác; nhưng viên giác không phải làm như thế mà được, nên nói như thế là bịnh đó. Hai là bịnh buông, là nếu ai nói tôi không loại sinh tử không cầu niết bàn, đối với niết bàn và sinh tử tôi không có ý niệm phát động hay hủy diệt, tôi buông thả tất cả, mặc kệ các pháp để cầu viên giác; nhưng viên giác không phải buông như thế mà có, nên nói như thế là bịnh đó. Ba là bịnh ngưng, là nếu ai nói tôi ngừng mọi ý niệm, nắm lấy vắng lặng của toàn bộ các pháp để cầu viên giác; nhưng viên giác không phải ngừng như thế mà hợp, nên nói như thế là bịnh đó. Bốn là bịnh dứt, là nếu ai nói tôi dứt bỏ phiền não, không cả thân tâm, huống chi những thứ căn cảnh huyễn ảo, tôi dứt bặt hết thảy để cầu viên giác; nhưng viên giác không phải dứt như thế mà chứng, nên nói như thế là bịnh đó. Pháp của ai tách rời bốn bịnh như vậy thì biết pháp ấy trong sáng. Và xét như vậy là xét chính xác, xét khác đi là xét sai lầm.

Thiện nam tử, những người thời kỳ cuối cùng muốn tu hành thì phải suốt đời phụng sự thầy bạn tốt có cái pháp tách rời cả bốn bịnh như vậy. Thầy bạn tốt muốn thân gần thì đừng khinh lờn, muốn rời xa thì đừng oán hận. Trước cảnh nghịch hay cảnh thuận lòng như không gian, với thân thể và tâm trí biết toàn không thật, coi tất cả chúng sinh đồng bản thể với mình. Làm như vậy mới mong nhập vào viên giác.

Thiện nam tử, những người thời kỳ cuối cùng không thành đạt tuệ giác là vì chưa loại bỏ những hạt giống ghét ưa đối với bản thân cũng như đối với người khác, đã có từ vô thỉ. Ai nhìn kẻ thù như nhìn cha mẹ, lòng không bỉ thử, thì trừ khử được mọi thứ bịnh hoạn trong sự tu hành. Những sự ghét ưa đối với các pháp cũng phải trừ khử như vậy.

Thiện nam tử, những người thời kỳ cuối cùng muốn cầu viên giác thì phải phát tâm, bằng cách nói như vầy: Cùng tận không gian, bao nhiêu chúng sinh trong đó, con nguyện làm cho họ nhập được viên giác; trong viên giác, con không chấp có người chứng ngộ, con nguyện loại trừ mọi sắc thái ngã tướng nhân tướng. Phát tâm như vậy thì không rơi vào kiến thức sai lầm.

Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

Phổ giác nên biết,

những người sau này

cầu thầy bạn tốt

phải cầu những người

thấy biết chính xác

tâm vượt nhị thừa.

Đối với pháp tu

phải loại bốn bịnh

bịnh làm bịnh ngưng

bịnh buông bịnh dứt.

Và thầy bạn tốt

thân, mình đừng kiêu

sơ, mình không hận,

và nhìn mọi sự

của thầy bạn tốt

lòng thấy hiếm có;

có thầy bạn tốt

như Phật xuất hiện.

Không phạm những gì

trái với uy nghi,

gốc rễ giới luật

vĩnh viễn trong sáng.

Nguyện độ chúng sinh

nhập vào viên giác,

không có ngã tướng

nhân tướng cũng không,

y cứ tuệ giác

chính xác như vậy

thì vượt qua được

mọi thứ tà kiến :

tuệ giác chính xác

thì nhập niết bàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14803)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11893)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12423)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12114)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12091)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7973)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8538)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9152)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10159)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.