Chương Hiền Thiện Thủ

10 Tháng Mười 201414:48(Xem: 5275)
KINH VIÊN GIÁC 
HT. Thích Trí Quang
 

Chương Hiền Thiện Thủ

Lúc ấy bồ tát Hiền thiện thủ ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy,đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương cao cả, ngài đã khai thị một cách rộng rãi như trên, cho chúng con và những người thời kỳ cuối cùng, về những sự ngoài tầm tư duy và thảo luận. Thưa đức Thế tôn, kinh pháp đại thừa này nên mệnh danh là gì? nên phụng trì cách nào? ai tu tập thì được công đức gì? chúng con hộ trì cách nào cho những người phụng trì kinh này? kinh này đi đến đâu? Tác bạch rồi, bồ tát Hiền thiện thủ gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.

Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ tát Hiền thiện thủ: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát và những người sau này mà hỏi Như lai về danh hiệu, công đức, và những gì liên hệ đến kinh pháp như thế này. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ Tát Hiền thiện thủ vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.

Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử, kinh này được trăm ngàn vạn ức hằng sa Phật đà tuyên thuyết, được Phật đà quá khứ hiện tại và vị lai hộ trì, được bồ tát mười phương qui y, vì là con mắt trong sáng của cả mười hai loại khế kinh.

Kinh này mệnh danh là kinh nói về Tổng trì viên giác, thuộc loại cực kỳ cao rộng; cũng mệnh danh là kinh nói về Nghĩa lý cứu cánh của khế kinh, kinh nói về Chánh định chúa tể bí mật, kinh nói về Cảnh giới quyết định của Như lai, kinh nói về Đặc tính và sắc thái của Như lai tạng. Các ông hãy nhớ như vậy.

Thiện nam tử, kinh này chỉ nói cảnh giới của Như lai, chỉ Như lai mới nói cùng tận. Các vị bồ tát, và những người thời kỳ cuối cùng, y cứ kinh này mà tu hành thì tuần tự bước tới, đến tận địa vị Phật đà.

Thiện nam tử, kinh này là đại thừa đốn giáo, nên chúng sinh đốn cơ thì tỏ ngộ bởi kinh này. Nhưng kinh này cũng bao gồm các loại tiệm cơ. Bể cả thì đâu có kém sông bé, muỗi mòng hay tu la, loài nào uống nước biển cả cũng no đủ hết thảy.

Thiện nam tử, giả sử có ai đem bảy thứ quí báu chất đầy cả đại thiên thế giới mà bố thí, cũng không bằng có người nghe danh hiệu hay một câu một nghĩa của kinh này. Lại giả sử có ai giáo hóa một trăm hằng sa chúng sinh được tuệ giác La hán, cũng không bằng có người tuyên thuyết kinh này bằng cách phân tích nửa bài chỉnh cú.

Thiện nam tử, ai nghe danh hiệu kinh này mà thôi, mà tin một cách không còn bị mê hoặc, thì ông phải biết người ấy không phải chỉ gieo trồng phước đức và tuệ giác nơi một vài đức Phật, mà đã gieo trồng những thiện căn như vậy, và đã nghe kinh này, nơi hằng sa Phật đà. Thiện nam tử, các ông nên hộ trì người ấy, đừng để ma vương và ngoại đạo quấy rối thân thể và tâm trí của họ, làm cho họ lùi bước, khuất phục.

Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

Hiền thiện thủ này,

ông nên nhận thức

kinh này là do

chư Phật tuyên thuyết,

và do Như lai

cùng chư Như lai

trân trọng giữ gìn,

vì là con mắt

của mười hai loại

khế kinh của Phật.

Kinh này tên là

Tổng trì viên giác,

thuộc về thể loại

pháp đại phương quảng,

nói về cảnh giới

của chư Như lai.

Những ai tu hành

y theo kinh này

thì tăng tiến lên

đến địa vị Phật,

y như đại dương

nạp hết sông ngòi,

ai uống nước ấy

cũng sung mãn cả.

Giả sử bố thí

bảy thứ quí báu

nhiều bằng cái lượng

đại thiên thế giới,

cũng không bằng phước

được nghe kinh này.

Và nếu giáo hóa

hằng sa chúng sinh

đều thực hiện được

tuệ giác La hán,

cũng không bằng phước

nói nửa bài kệ.

Trong thì vị lai

các người hãy giữ

cho người tuyên thuyết

duy trì kinh này,

đừng để cho họ

phải bị thoái khuất.

Vào lúc bấy giờ, trong đại hội có tám mươi ngàn Kim cang lực sĩ, cầm đầu bởi kim cang lực sĩ Hỏa thủ, kim cang lực sĩ Tồi toái, kim cang lực sĩ Ni lam bà. Các vị kim cang lực sĩ cầm đầu này, cùng thuộc hạ của họ, tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi tác bạch: Thưa đức Thế tôn, thời kỳ cuối cùng sau này, có ai phụng trì được kinh pháp đại thừa quyết định như thế này, thì chúng con nguyện giữ người ấy như giữ con mắt của mình. Những chỗ người ấy thiết lập đạo tràng thì chúng con tự thống suất bộ hạ sớm tối giữ gìn, không để họ bị thoái chuyển. Chỗ họ cư trú thì không bao giờ bị tai nạn và mọi sự chướng ngại khác, những loại bịnh truyền nhiễm cũng tan biến, tài vật phong phú, sung túc, không bao giờ thiếu thốn gì cả.

Cũng vào lúc bấy giờ, Đại phạn thiên vương, và hai mươi tám vị thiên vương khác; chúa tể Tu di sơn là Đế thích thiên vương, cùng bốn vị thiên vương hộ vệ thế giới loài người, cũng tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi tác bạch: Thưa đức Thế tôn, chúng con cũng nguyện hộ trì cho những người phụng trì kinh này, làm cho họ luôn luôn yên ổn, không thoái chuyển tâm chí.

Lại có đại lực quỉ vương tên Cát bàn trà, cùng với mười vạn quỉ vương, cũng tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi tác bạch: Thưa đức Thế tôn, chúng con cũng nguyện hộ trì những người phụng trì kinh này, sớm tối hầu hạ gìngiữ,làm cho những người ấy không thoái chí khuất phục. Những người ấy ở đâu thì trong chu vi một do tuần của chỗ ấy, nếu có quỉ thần độc ác xâm phạm, chúng con sẽ làm cho họ nát như vi trần.

Khi đức Thế tôn tuyên thuyết kinh này hoàn tất thì các vị bồ tát, tám bộ thiên long mà trong đó có Đế thích thiên vương và Đại phạn thiên vương, cùng tùy thuộc của họ, toàn thể đại hội nghe những điều tuyên thuyết của đức Thế tôn, ai cũng rất hoan hỷ, tín thọ và phụng hành.

HẾT
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14775)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11882)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12392)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12073)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12048)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7942)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8508)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9119)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10132)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.