Chương 32: Diệt Ái Dục, Ly Sinh Tử

18 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 15751)

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
TÌM HIỂU KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG
Thích Nhật Từ
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Chương 32: Diệt ái dục, ly sinh tử

 I. DỊCH NGHĨA

Đức Phật dạy rằng: Người từ ái dục sinh lo, từ lo sinh sợ. Xa lìa ái dục, chẳng có gì để lo, chẳng có gì để sợ!

II. LƯỢC GIẢI

1/ Xuất xứ của bài kinh này được tìm thấy trong Kinh Pháp Cú kệ số 212-216. Mỗi bài kệ trong năm kệ đều có nội dung tương tự: ái, ái luyến, hỷ ái, tham ái và dục ái: “Do ái sinh sầu ưu. Do ái sinh sợ hãi. Ai thoát khỏi tham ái. Không sầu, đâu sợ hãi.”[1] “Ái luyến sinh sầu ưu. Ái luyến sinh sợ hãi. Ai giải thoát ái luyến. Không sầu, đâu sợ hãi.”[2] “Tham ái sinh sầu ưu. Tham ái sinh sợ hãi. Ai thoát khỏi tham ái. Không sầu, đâu sợ hãi.”[3] “Dục ái sinh sầu ưu. Dục ái sinh sợ hãi. Ai giải thoát dục ái. Không sầu, đâu sợ hãi.”[4] Cả năm bài kệ đều khẳng định dục ái ở mọi mức độ nhiễm đắm của nó, đều dẫn khởi “sự sầu ưu” rồi “sợ hãi”. Sầu ưu là mức độ ban đầu của tác hại ái dục, mức độ sau là sợ hãi: sợ hãi ác nghiệp, quả dị thục hiện bày. Và cả năm bài đều nhấn mạnh tổ chức giải thoát ái dục là giải thoát mọi ưu sầu. Ưu sầu hết thì không còn gì là sợ hãi “không sầu, đâu sợ hãi”.

2/ Lời dạy của Đức Phật trong Kinh Pháp Cú được kinh văn 42 chương đúc kết thành một bài tổng hợp, còn nhằm khuyến giới, giáo dục hàng phạm hạnh tu sĩ hãy duy trì trọn vẹn phạm hạnh, đừng bị bể vụn, sứt mẻ, tỳ vết… vì phá vỡ phạm hạnh là chiêu vời sợ hãi, không thoát khỏi sinh tử. Do đó, để thực hiện mục đích ly tham, người tu sĩ phải xa lìa dục, chinh phục, chế ngự nó:

“Người bị dục buộc ràng

Vùng vẫy và hoảng sợ

Như thỏ bị sa lưới

Do vậy vị Tỳ kheo

Mong cầu mình ly tham

Nên nhiếp phục ái dục.”[5]

Song đối với các hành giả chuyên tâm định tĩnh, tu tập, trau dồi thiền định, Đức Phật cũng khuyến khích họ từ bỏ mãi mãi sự đắm say các dục hạ liệt, ví sánh nó như hòn sắt nóng cháy đỏ, ai đam mê tất phải bị chúng thiêu đốt.

“Tỳ kheo hãy tu thiền. Chớ buông lung phóng dật. Tâm chớ đắm say dục. Phóng dật, nuốt sắt nóng. Bị đốt chớ than khổ.”[6]

Giáo giới của Đức Phật đối với hàng phạm hạnh Tỳ kheo luôn là khuyên bỏ ái dục. Nếu như ái dục là mạng lưới trói buộc con người trong vòng sợ hãi thì hẳn rằng sống trong vòng ái triền phược, người ấy phải thọ khổ triền miên: “Người bị ái buộc ràng. Vùng vẫy và hoảng sợ. Như thỏ bị sa lưới. Chúng sinh, ái trói buộc. Chịu khổ đau dài dài.”[7]

3/ Thâm ý giáo dục của kinh văn còn nhằm xác quyết giá trị giải thoát, tu chứng của hành giả đã đoạn tận được dục lậu, phiền não. Sự đoạn tận ái dục chính là sự thành tựu quả Bồ đề, thanh tịnh, giải phóng mọi đau khổ:

“Ly ái, không nhiễm ô. Nhổ mũi tên sinh tử”.

Hay: “Ái diệt thắng mọi khổ”.

Hay: “Ái diệt tự giải thoát”.

Hay: “Ái lìa, không chấp thủ”.

Ở một bài kệ, Đức Phật xác quyết điều kiện trở thành bậc Bộc lưu (tức sơ quả) không gì hơn là đoạn tận ái dục: “Tỳ kheo vượt năm ái, xưng danh vượt bộc lưu”. Xa hơn nữa, Đức Phật còn dạy, con thuyền hướng đến Niết bàn phải là con thuyền đã tát cạn nước ái dục trong mạn thuyền: “Tỳ kheo tát thuyền này. Trừ tham diệt ái dục. Thuyền không, đi nhẹ đi mau. Tất chứng đạt Niết bàn”.

Khi định phẩm, phân vị giá trị đạo đức, nhân cách của một vị Bà la môn, theo quan điểm mới của Đức Phật (khác với quan niệm truyền thống của Veda) là vị ấy phải đoạn tận sức sống ái dục như nước không còn bám víu được trên lá sen, hay hạt cải không đứng được trên đầu cây kim nhọn:

“Như nước trên lá sen. Như hạt cải đầu kim. Người không nhiễm ái dục. Ta gọi Bà la môn.”[8]

Trong Kinh Pháp Cú, không chỉ có phẩm Hỷ ái (kệ 109-220), phẩm Tham ái (kệ 383-359) đề cập đến ái dục, mà ngay cả phẩm Bà la môn (kệ 383-423) cũng đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của ái dục. Sự xác quyết của Đức Phật về một Bà la môn theo quan điểm mới, trước sau vẫn là đoạn tận ái dục. Bà la môn mà đoạn tận được ái dục quả là một thành quả lớn lao, có giá trị: “Đối với Bà la môn. Đây không lợi ích nhỏ. Khi ý không ái dục. Tâm hại được chặn đứng. Chỉ khi ấy khổ diệt”.

Hình ảnh của Bà la môn còn được Đức Phật sánh với trăng tròn sáng, không cấu uế mây mù, khi ở nội tâm vị ấy đã hoàn toàn thanh tịnh, tịch tĩnh. Nghĩa là đã đoạn tận hữu ái:

“Như trăng sạch không uế. Sáng trong và tịnh lặng. Hữu ái được đoạn tận. Ta gọi Bà la môn”.

Một vị Bà la môn sau khi đoạn tận ái dục, sẽ giải phóng mọi lưới triền như nghi triền phược, chấp thủ, triền phược, vô sanh triền phược, luân hồi, đau khổ, trong tâm trí chỉ còn lại sự tịch tĩnh, tỉnh giác:

“Vượt đường hiểm nguy này. Nhiếp phục nẻo luân hồi. Đến bờ kia, thiền định. Không dục ái, không nghi. Không chấp trước, tịch tịnh. Ta gọi Bà la môn”.

Và một vị tăng sĩ, từ bỏ đời sống thế tục, sống đời tu sĩ, chỉ được gọi là Xuất gia, Sa môn khi vị ấy có quá trình tu tập, đoạn tận ái dục:

“Ai ở đời đoạn dục. Bỏ nhà sống xuất gia. Dục hữu được đoạn tận. Ta gọi Bà la môn”.

Bậc sa môn trên cơ bản như vậy, còn được gọi là bậc vô vi, theo ý nghĩa, không còn tạo tác hữu lậu nghiệp, sinh tử nghiệp… là cũng do tinh tấn đoạn trừ ái dục, đạt đến chánh tri kiến tuệ giác:

“Đời này Bà la môn. Hãy tinh tấn đoạn dòng. Từ bỏ ái dục lạc. Biết được hành đoạn diệt. Người là bậc vô vi”.

4/ Nhìn chung, nội dung kinh văn phản ánh khá sinh động tác hại của ái dục. Chính ái dục buộc trói con người trong cái lo âu, sợ hãi, lo sợ mất cái mình yêu thích, lo sợ cái ngã, ngã sở, ngã ái bị đánh mất và cũng chính vì vọng ái dục có vị đắng của đau khổ, sinh tử như yêu thích và bị phân ly, xa lìa là đau khổ (ái biệt ly khổ), do đó, sống ngoài vòng ái dục là sống ngoài vòng đau khổ, không còn ái dục là không còn đau khổ, như trong kinh văn, Đức Phật đã dạy:

“Xa lìa ái dục, chẳng có gì để lo, chẳng có gì để sợ!” vậy.

 

 


[1] Dhp.212.

[2] Dhp.214.

[3] Dhp.215.

[4] Dhp.216.

[5] Dhp.343.

[6] Dhp.371.

[7] Dhp.342.

[8] Dhp.401.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Ba 2015(Xem: 15298)
Như tựa đề sách, Thực Hành Con Đường Bồ Tát, phần giảng chú trọng vào sự thực hành hơn là giảng từng câu, và chú ý vào ý nghĩa để thực hành hơn là những khía cạnh khác như giáo lý và triết học. Hơn nữa, đối với một câu kinh, khó mà bình giảng cho trọn vẹn.
22 Tháng Hai 2015(Xem: 14935)
Pháp Hoa là kinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duy và suy luận của con người bình thường. Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Pháp Hoa bắt đầu được phát triển, truyền bá rất sớm và rất rộng rãi vào khoảng 700 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn.
09 Tháng Hai 2015(Xem: 11081)
Nội dung của bộ kinh này nói về những nền tảng căn bản nhất trong việc tu học Phật Pháp. Hay nói cách khác, tu học hết thảy Phật môn, đều lấy nội dung chính của “Thập Thiện Nghiệp Đạo” làm cơ sở.
13 Tháng Giêng 2015(Xem: 8701)
Chúng tôi biên soạn và chú giải bản Kinh Người Áo Trắng, để giúp cho người cư sĩ tại gia, trước nhất là có niềm tin chân chính đối với Tam bảo và phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức. Đây là bản kinh gối đầu nằm cho người cư sĩ tại gia, người Phật tử tại gia hãy nên tụng đọc, nghiền ngẫm và tu tập, sẽ thấm nhuần yếu chỉ của Kinh mà sống đời bình an, hạnh phúc trong từng phút giây.
08 Tháng Giêng 2015(Xem: 7584)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thân và Hóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na. Phật Tỳ Lô Giá Na là pháp thân của Đức Phật Thích Ca và tất cả chư Phật.
30 Tháng Mười 2014(Xem: 9800)
Bát-nhã tâm kinh là bài kinh nói về tâm, nhưng không phải là tâm suy nghĩ thường tình của người đời mà nói về cái tâm “đến bờ kia”. Nó là cái trí có thể soi thấu được cội nguồn của mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này. Với người tu Phật, bài kinh đó là ngọn đuốc dẫn đường giúp hành giả đến đích.
02 Tháng Mười 2014(Xem: 16146)
“Bát nhã ba la mật đa tâm kinh” là bộ kinh ngắn nhất của Đại thừa Phật giáo, vì chỉ có 260 chữ Hán, kể luôn bài kệ ở sau rốt. Nhưng đó là tinh yếu, là cốt tủy của bộ kinh “Đại Bát nhã”, dày 60 quyển. Nguyên văn bằng chữ Phạn (sanscrit), bộ kinh nhỏ này có tất cả sáu bản dịch ra Hán văn. Bản được lưu hành rộng xa nhất ở Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam
29 Tháng Tám 2014(Xem: 12538)
Bài Kinh này gián tiếp giới thiệu một cách khái quát giá trị tâm linh của người xuất gia, bắt đầu bằng một đời sống thanh cao, không màn đến sở hữu tài sản vật chất thế gian. Mục đích của người tu không phải để được làm trụ trì một ngôi chùa, được người đời cúng dường và cung kính, mà nhằm tầm cầu con đường tâm linh, hướng đến các giá trị nội tại. Các giá trị đó chỉ có thể đạt được bằng cách thực hành theo con đường trung đạo, khởi đi bằng cái nhìn đúng đắn (chánh kiến) và kết thúc bằng đời sống thiền định
24 Tháng Tám 2014(Xem: 7335)
Tâm quá khứ là tâm gì? Tức là tâm tưởng nhớ lại việc quá khứ. Phần nhiều chúng ta hiện nay sống với mấy tâm? Mình sống với ba thời: tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai. Những người đầu hơi hoa râm như tôi hoặc là bạc trắng hơn nữa thì sống với tâm nào? Tâm quá khứ, cứ nhớ thuở xưa, lúc đương thời làm những gì, nhớ những gì thuộc quá khứ như vậy là tâm quá khứ. Nhưng những tâm duyên về quá khứ có thật không? Nó là bóng dáng không thật nên quá khứ tâm bất khả đắc. Rồi tâm hiện tại là tâm gì?
14 Tháng Năm 2014(Xem: 14063)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới. Trong thời gian khá lâu, hướng dẫn cho nhiều lớp, tôi đã cố gắng Việt dịch – Biên soạn – Chú thích và tập thành đầu sách mang tựa đề.