Tác hại của rượu bia

22 Tháng Chín 201503:09(Xem: 5629)

 TÁC HẠI CỦA RƯỢU BIA 
Quảng Tánh

Beer-Hops-WheatMột số thống kê gần đây cho thấy người Việt mỗi năm tiêu thụ rượu bia xếp thứ hạng cao ngất ngưởng nhất nhì trong khu vực. Đây một thứ hạng đáng buồn! Cũng từ đó, những hệ lụy có nguồn gốc từ rượu bia dễ nhận thấy như bệnh tật, gây tai nạn giao thông, làm mất trật tự an ninh xã hội… xảy ra ngày càng nhiều. Quan trọng hơn và khó nhận thấy hơn đó là ảnh hưởng xấu của rượu bia đến đời sống tinh thần, nhẹ thì khiến tâm trí bạc nhược, dật dờ; nặng thì nghiện ngập khiến đầu óc u mê và thậm chí là si cuồng.

Chưa nói đến ma túy và các chất gây nghiện khác, chỉ riêng việc tiêu thụ rượu bia quá mức như hiện nay đã góp phần làm suy yếu thể chất và trì trệ tinh thần của không ít thế hệ trong cộng đồng. Đây là nạn, là giặc nội xâm mà người Việt cần chiến đấu và phải chiến thắng nếu muốn sống còn. Vì lẽ ấy, trong năm giới của người Phật tử, giới thứ năm Không say nghiện đã được Thế Tôn thiết lập từ xa xưa nhằm giúp con người tránh sa lạc vào đường ác.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ở trong chúng này, Ta không thấy một pháp nào đã thực hành, thực hành nhiều rồi chịu tội súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Nếu sanh trong loài Người thì cuồng, ngu si, hoặc, chẳng biết chân, ngụy như là uống rượu. Này các Tỳ-kheo, nếu có người tâm thích uống rượu, chỗ sanh ra không có trí tuệ, thường chịu ngu si. Như thế, này các Tỳ-kheo, cẩn thận chớ uống rượu. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

- Ở trong chúng này, Ta không thấy một pháp nào hơn pháp này: đã thực hành, thực hành nhiều rồi hưởng phước trong loài Người, hưởng phước trên Trời, chứng được Niết-bàn. Thế nào là một pháp? Đó là không uống rượu. Này các Tỳ-kheo, nếu có người chẳng uống rượu, sanh ra liền thông minh không có ngu dốt, biết rộng nhớ nhiều, ý không nhầm lẫn. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Ngũ giới,  

VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.190)

Thế Tôn đã khẳng định, say nghiện rượu bia là đầu mối của các tội lỗi, là tác nhân để đi đến ba đường ác “súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục”. Không đợi đến kiếp sau ta mới gặp ba ác đạo mà nó luôn ẩn hiện quanh đây. Quan sát hành vi của một người say xỉn thì chúng ta sẽ thấy rõ những biểu hiện mất hết trí khôn của phần “người”, chỉ còn lại phần “con” như tham lam, hung bạo, cuồng si, nói chung là hiện thân của ba đường ác.

Nếu ai còn chút may mắn thoát được ba đường ác thì hậu quả của say nghiện là tuy được làm người mà “không có trí tuệ, thường chịu ngu si”. Cho nên, rượu bia cũng như một loại thuốc độc, không trực tiếp sát hại nhưng giết lần mòn, khiến cho con người bạc nhược, u tối, ngu hèn. Chúng ta thử hình dung, nếu một cá nhân, một gia đình, một xã hội mà ngập ngụa trong bia rượu, sớm say chiều xỉn thì tương lai của họ sẽ về đâu?

Nên học theo lời dạy của Thế Tôn, nói không với rượu bia chính là cứu mình và cứu đời. Không uống rượu, không sản xuất (buôn bán) rượu, không ca ngợi người uống rượu chính là những đóng góp tích cực của người con Phật cho xã hội. Người đệ tử Phật nguyện giữ tâm trong sáng, luôn thức tỉnh trước mọi cám dỗ, tránh xa việc say nghiện là nếp sống lành mạnh, văn minh, lợi mình và ích người.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Bảy 2015(Xem: 5688)
Rõ ràng, trong thời hiện đại hiếm có người tu nào giữ được một, hai hay trọn hết các hạnh đầu-đà. Tuy vậy, công hạnh của bậc Thánh Đầu-đà đệ nhất nhắc nhở chúng ta về một đời sống giản dị, thanh bần, muốn ít và biết đủ. Làm sao để trong đời sống tu hành không bị vướng mắc nhiều quá vào ăn, mặc, ở hay ngũ dục, ngũ trần nói chung
06 Tháng Bảy 2015(Xem: 5081)
Nhân có sáu loại là năng tác nhân (kāraṇahetu), câu hữu nhân (sahabhūhetu), đồng loại nhân (sabhāgahetu), tương ưng nhân (saṃprayuktakahetu), biến hành nhân (sarvatragahetu), dị thục nhân (vipākahetu).
05 Tháng Bảy 2015(Xem: 5446)
Sẻ chia, cho đi một phần mình đang có, là hạnh tu phổ biến của hàng Phật tử. Nhờ cho đi, không cố nắm giữ mà thành tựu phước báo đủ đầy, an vui trong hiện tại và vị lai.
29 Tháng Sáu 2015(Xem: 6630)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên ái dục vốn sẵn trong thân tâm của mình. Ái dục nam nữ là nghiệp dĩ bình thường của chúng sanh. Trong đời sống thế tục, ái dục đem đến hạnh phúc khiến cho họ gắn kết không rời, có người không chỉ yêu thương nhau trong đời này mà còn nguyện ước gắn kết trong các đời sau.
22 Tháng Sáu 2015(Xem: 5828)
Lễ bái là một pháp tu phổ biến trong đạo Phật. Thường thì chúng ta lễ Phật, các vị Bồ-tát, chư vị Tổ sư để thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn, nguyện học tập theo công hạnh của các Ngài, nhất là để dẹp trừ bản ngã nhằm tiến tu đạo nghiệp.
15 Tháng Sáu 2015(Xem: 5156)
Hãy có tâm từ đối với đàn-việt; hằng lấy lòng từ hướng về đàn-việt; thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ, khiến cho vật bố thí của đàn-việt trọn không bị phí bỏ, được quả báo lớn, thành tựu phước đức lớn
07 Tháng Sáu 2015(Xem: 6167)
Say đắm lợi danh, rõ ràng là đi ngược với đạo giải thoát. Người tu mà vướng vào lợi danh càng nhiều thì tâm trí bị che phủ và u ám càng nặng, vì như Thế Tôn đã dạy, “bốn kết che đậy tâm người không khai mở được”. Từ xa xưa, Thế Tôn đã từng tha thiết: “Này các Tỳ-kheo, hãy cầu phương tiện diệt bốn kết này”.
28 Tháng Năm 2015(Xem: 6200)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
13 Tháng Năm 2015(Xem: 6023)
Ở đời có năm món hấp dẫn, khiến người ta đắm say, vui thích là tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ (ngũ dục). Cùng với ngũ dục là ngũ trần, năm khoái lạc của giác quan, mắt thích sắc đẹp, tai say tiếng hay, mũi mê hương thơm, lưỡi đắm vị ngon, thân ưa xúc chạm êm ái.
06 Tháng Năm 2015(Xem: 6173)
Thời Thế Tôn, nhiệm vụ trọng yếu của một Tỳ-kheo là tu học, khất thực và thuyết pháp. Cốt tủy của nội dung tu học là thiền định (tu) và nghe pháp (học). Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe pháp từ kim khẩu của Thế Tôn, nghe pháp từ chư vị Trưởng lão trong các hội chúng. Sau đó các Tỳ-kheo thường tụng đọc lại nội dung pháp thoại đã được nghe cho đến khi thuộc lòng.