Cốt Lõi Kinh Kim Cang Và Duy Thức

28 Tháng Mười Một 201811:03(Xem: 7031)

CỐT LÕI KINH KIM CANGDUY THỨC
Thích Minh Không


kinh kim cangRằm tháng 10 Mậu Tuất..

Kinh kim cangduy thức từ trên 2000 năm nay đã được bàn ngang bàn dọc rất nhiều do đó ngày hôm nay tôi chỉ đưa ra một cái nhìn cá nhân vào cốt lõi cúa 2 môn học thọat nhìn thì tương phản nhưng thật ra bổ túc và ôm ngoàm nhau như âm và dương, có và không. Trước khi đi vào chủ đề, tôi cũng nhấn mạnh và nhắc lại  tính chất bất định  và vô lượng nghĩa của phật pháp : nền tảng là giúp ta tiến triễn trên đường Đạo nhưng cái mà ta cho là chân lý có thể khác nhau tùy theo mỗi người, và ngay cả một con người cũng thay đối cái nhìn qua thời gian qua quá trình tu tập. Chúng ta chỉ là những người mù sờ voi cho đến khi nào mở mắt (giác ngộ) thì mới thấy Chân Lý toàn vẹn.

Cốt lõi của kinh kim cangtâm bình đẵng. Bình đẵng giữa con người với con người, bình đẵng giữa con ngườichúng sinh khác, bình đẵng giữa chúng sinh và chư Phật. Bình đẵng là vì đồng nhất về thể tánh dù rằng khác nhau về tướng trạng và nghiệp thức. Nhưng thực hiện được tâm bình đẵng là thể hiện được tánh không.Nhưng không thể nào hiểu tánh không nếu cứ bám víu vào những cái có ; bám vào những gì gọi là sở đắc dù là vật chất hay tâm linh. Khi nhìn về tánh không nào là tánh không duyên khởi hay chân không diệu hữu vv..thì cũng khó mà sống được tinh thần tánh không. Có thể giản dị hơn khi nói rằng tánh không nói lên cái không nắm bắt được, cái vô sở hữu của mọi pháp từ vật chất tới tâm linh, từ đó phát triễn tâm xả bỏ, thực hiện tinh thần ‘ưng vô sở trụ…Cốt lõi của kinh kim cang nằm ở sự hiểu tứ tướng (hay tứ kiến) : tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả.

Tướng ngã là tướng chấp ngã  ; do tướng chấp ngã nên sản sinh ra chấp nhân tức là người khác, sinh ra chấp chúng sinhtượng trưng cho những không gian ; bị ràng buộc vào một không gian nào đó ;  sinh ra chấp thọ giả là tượng trưng cho thời gian bị ràng buộc trong một thời hạn nhất định. Nói tóm lại vì cái nhân chấp ngã mà sinh ra các quả ; quả chấp ngãý thức phân biệt ta - người và nói rộng ra là ý thức nhị nguyên nhìn nhận những xấu tốt, thiện ác, lợi hại vv…, quả chúng sinhý thức biện biệt này cột chặc và giới hạn vào những không gian của lục đạo luân hồi (25 cảnh giới ), quả thọ giả là quả tượng trưng cho thời gian tức là cũng bị cột chặc vào thời gian mà không thoát được dù ngay cả sinh ra trong cõi trời đời sống có thể tới hàng vạn năm hoặc trong thoáng chốc như vài loài sinh vật…

Như vậy từ sự chấp ngãý thức phân biệt dẫn ta đi lòng vòng hết kiếp này tới kiếp khác, sinh tử tiếp nối.

Cốt lõi của duy thức nhằm ở sự khẵng định ở nơi 8 thức tâm vương ( và cũng có thể hiểu rộng ra là ở mọi tâm thức dù là tâm sở…) được cấu thành do 4 yếu tố : kiến phần, tướng phần, tự chứng phần, chứng tự chứng phần. Kiến phần hay gọi là chủ thể hay gọi là năng. Tướng phần hay gọi là đối tượng hay gọi là sở. Tự chứng phầnchứng tự chứng phầnnghiệp thức và chia ra biệt nghiệp ( cái nghiệp riêng) và cộng nghiệp ( cái nghiệp chung của loài đó hay của nhóm đó). Tám thức tâm vương là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt, thân , ý, mạt na thức, a lại da thức ( còn gọi là tàng thức).Thí dụ như nhãn thức hình thành qua căn mắt tiềp xúc với sắc trần nhưng vẫn nằm trong vòng kiềm toả của nghiệp chẵng hạn cộng nghiệp là nghiệp loài người ( nhãn thức hình thành giới hạnmột độ xa gần , sáng tối, hay đối tượng sắc của loài người…)  và biệt nghiệp là nghiệp riêng của người đó ( mỗi cá nhânnhãn thức khác nhau nhưng cũng không vượt qua được cái khả năng cuả cộng nghiệp) Trong kinh có diễn tả mắt con người thấy sông là nước trong khi loài ngạ quỷ thấy sông là lửa trong khi loài trời thấy sông là lưu ly, là ngọc quý…Cũng vậy nhĩ thức ở cộng nghiệp loài người, căn nhĩ sẽ chỉ nghe được những âm thanh ở những tần số và décibel nhất địnhbiệt nghiệp là những khả năng riêng cho cá nhân đó. Ở đây tôi cũng nhấn mạnh là nghiệp tác đông không phải chỉ đơn thuầnvật lý mà là toàn bộ tâm thức. Cũng vì vậy mà có người thích loài hoa này trong khi người khác thích loài hoa khác. Sự cảm nhận về chân, thiện, mỹ trong biêt nghiệp đưa đến những cái nhìn khác nhau, những quan niệm khác nhau.Và những thức tâm vương khác cũng như vậy.Đó là cái cộng nghiệp riêng của từng loài và biệt nghiệp riêng của từng cá nhân.               

Cũng cùng một cái nhìn như vậy, trong đại thừa khởi tín luận,ngài Mã Minh đã nói về tam tế : năng, sở, nghiệp…năng tương ưng với kiến phần, sở tương ưng với tướng phần, nghiệp tương ưng với chứng phầnchứng tự chứng phần. Nghiệp mà Mã Minh nói tới được  chia chẻ  thành biệt nghiệp và cộng nghiệp trong duy thức. Trong cái biệt nghiệp còn chia chẻ thành chánh báoy báo. Chánh báo chính là cái thân và tâm của chính mình còn y báo là cái môi trường mà mình sống trong đó. Cộng nghiệp thì cũng có thể nhìn qua nhiều mức độ chẵng hạn cộng nghiệp là loài người ; cộng nghiệp là người VN ; cộng nghiệp là dân chúng cùng sống ở một thành phố nào đó và từ đó tương ưng những biệt nghiệp khác nhau.                                                                                                        

    Khi nói về thập bát giới ; 6 căn ( nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với 6 trần ( sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp)  qua 6 thức ( nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) thì 6 thức này hình thành do cộng nghiệp và biệt nghiệp. Và rồi tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời này đều không ra khỏi ‘thập bát giới’ này. Nên hiểu chữ giới trong thập bát giới là cái giới hạn mà ta không thoát ra được khi chưa giác ngộ, khi chưa giải thoát                                                                                                                                                                                                                                                                              

Kinh kim cang là tiền đề để đi vào tánh không : gọi là tìền đề vì bước đầu kinh kim cang bắt đầu bằng thể hiện tánh huyễn ; cái vô thường thoáng chốc ( sát na vô thường) như trong câu : nhất thiết hữu vi pháp, như mộng,huyễn,bào, ảnh ; như lộ diệc như điện ; ưng tác như thị quán ( các pháp hữu vi như mộng,như huyễn,như bọt nước,như sương mai,như điện chớp ; cần phải quán như vậy.). Nhưng trong cái sát na vô thường đó thì luôn luôn có mặt cái thường hằng bất biến là chủ thể. Thường, lạc, ngã, tịnh trong kinh đại bát niết bàn nói lên những tính chất của tính chân như đó.  King kim cang cũng có nói nhiều về tính giả danh theo công thức như cái đó không phải là cái đó nên gọi là cái đó…núi không phải là núi nên gọi là núi vv... Đó là tiến trình : có-không-không-có.                                                                                                       Duy thức thể hiện tánh có, tùng tướng nhập tánh là theo cái tướng mà đi vào cái tánh. Duy thức phân tích những trạng thái của tâm, chỉ rõ những nguyên nhânđiều kiện của sự hình thành và tiêu diệt của từng trạng thái tâm thức. Kim cang hòa nhập với duy thức thể hiện tinh thần vừa là ‘tánh không duyên khởi ‘  vừa là ‘ chân không diệu hữu ‘ Cái diệu hữu cuả duy thức hình thành từ 94 tâm hữu vi đi tới  6  tâm pháp vô vi. Rồi thì nhờ sự tu tập bằng cách tác động trên những chủng tử để chuyển hoá thì từ từ  các thức tâm vương chuyển ra thuần tịnh và từ đó chuyển hoá thành trí. Tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức) chuyển ra ‘ thành sở tác trí’ . Ý thức chuyển thành ‘diệu quan sát trí. Mạt na thức chuyển thành ‘bình đẵng tánh trí (tâm chấp ngã trở thành vô ngã) A lại da thức chuyển thành ‘đại viên cảnh trí ‘ . Có thể nói tứ trí này là ‘diệu hữu ‘ cuả ‘không’.                                                                                                                                                                                           

Trên đây là vài cái nhìn riêng về cốt lõi của kinh kim cangduy thức. Mong rằng các đạo hữu tự đào sâu và soi rọi theo tinh thần ‘tự đốt đuốc lên mà đi ‘.           
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Chín 2014(Xem: 5724)
Ai cũng biết rằng, có thực mới vực được đạo. Dĩ nhiên, nếu thiếu thốn và khốn khó quá thì tu tập cũng bị trở ngại nhưng ngược lại đầy đủ và sung mãn quá đôi khi lại không phải là điều hay. Nhất là hành trình chứng đạt giải thoát thì luôn đi ngược với sự chấp thủ, cần phải xả ly và buông bỏ đến tận cùng. Nếu một hành giả chưa thành tựu A-la-hán, thiết nghĩ cũng rất cần tỉnh giác đối với cung kính và lợi dưỡng, vì đó thực sự là một chướng ngại.
31 Tháng Tám 2014(Xem: 6000)
Một trong những phẩm hạnh cao đẹp của người đệ tử Phật là biết ơn và đền ơn. Ơn nghĩa trong cuộc đời thật bao la rộng lớn, bao trùm khắp tất cả mọi chúng sanh và hết thảy sự vật. Giáo điển nhà Phật khái quát ơn nghĩa trong đời thành bốn ơn sâu nặng: Ơn cha mẹ sanh dưỡng, ơn chúng sanh vạn loại, ơn quốc gia xã hội, ơn Tam bảo thiêng liêng.
25 Tháng Tám 2014(Xem: 6086)
Đời người, nếu nói chung ai cũng ước chừng khoảng trên dưới “ba vạn sáu ngàn ngày”, ngót nghét cả trăm năm. Nhưng trong thực tế thì mỗi người có một tuổi thọ khác nhau, tùy nghiệp duyên của chính mình. Có người trường thọ, trăm tuổi còn dư. Có người cũng bước lên ngưỡng tuổi “bảy mươi xưa nay hiếm”. Tuy vậy, có không ít người ra đi lúc tuổi còn xanh hoặc vẫn còn thơ bé. Thậm chí, có người không có được cơ hội chào đời cũng phải chóng vánh kết thúc một đời.
23 Tháng Tám 2014(Xem: 6608)
Nhìn theo hướng lạc quan, hiện chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng phát triển và kiện toàn về nhiều phương diện. Bình tâm mà suy xét thì tuy có phát triển nhưng đời sống nhân loại lại luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và hiểm họa. Không ai có thể dám chắc bất cứ điều gì ở tương lai khi mà mâu thuẫn, xung đột, chiến tranh, thảm họa, dịch bệnh, thiên tai… cứ chực chờ, đoanh vây, hủy diệt sự sống con người.
14 Tháng Tám 2014(Xem: 6958)
Là Phật tử, chúng ta đều tin hiểu lời Phật mà thực hành hiếu đạo trong đời sống hàng ngày. Cha mẹ, hai đấng sanh thành có một địa vị quan trọng trong tâm thức của người con Phật, ngang bằng với Phật và các vị Đại Bồ-tát, nên “gặp thời không có Phật, khéo phụng thờ cha mẹ tức là phụng thờ Phật vậy”(Kinh Đại tập).
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 7095)
Nhằm hộ trì Chánh pháp cũng như để vun bồi phước báo cho mai hậu, pháp hành phổ biến nhất cho hàng Phật tử là bố thí và cúng dường. Dĩ nhiên có tài vật thì chúng ta có thể thực hành bố thí. Tuy vậy, nếu khéo léo hơn, thì cũng chừng ấy tài vật, nhưng việc bố thí của chúng ta sẽ gặt hái được nhiều lợi ích hơn.
14 Tháng Bảy 2014(Xem: 6365)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây. Thấy rõ như vậy để biết rằng những gì mà mình hay nhận lầm là ta và của ta, là vĩnh hằng bất biến, thực ra không có gì bền chắc cả.
06 Tháng Bảy 2014(Xem: 10051)
Niệm Phật là pháp môn tu khá phổ biến hiện nay. Pháp môn này được những người con Phật thực tập rất tinh chuyên từ thời Thế Tôn còn tại thế. Những cách tu niệm Phật như trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật… đã có từ thời Phật Thích Ca, do chính Ngài chỉ dạy.
02 Tháng Bảy 2014(Xem: 6080)
Mỗi người được sinh ra ở trên đời với một thân phận, hoàn cảnh khác nhau. Họ không có quyền chọn lựa cho mình nơi để sinh ra vì đó là nghiệp dĩ. Tuy nhiên, con người hoàn toàn có thể phấn đấu cải tạo nghiệp lực, chuyển hóa thân tâm và hoàn cảnh theo hướng tích cực, tốt đẹp hơn. Cuộc sống là một quá trình đấu tranh giữa cái thiện và cái ác.
30 Tháng Sáu 2014(Xem: 7012)
Là người con Phật, ai cũng nguyện trọn đời quy y Tăng và nhất quyết không quy y thầy tà, bạn xấu. Dĩ nhiên, với tâm từ, chúng ta không trách móc hay oán hận hoặc tẩy chay bất cứ vị thầy, bạn nào không xứng đáng nhưng quyết không thân cận, hợp tác với họ, vì Thế Tôn đã từng khuyến cáo “chớ cùng ác tri thức tùng sự”.