Ngày Thứ 5 PHÁP THOẠI 6

11 Tháng Mười Hai 201503:57(Xem: 7688)

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 
(Sīlaguṇa-Mahāthera)
NHẶT LÁ RỪNG XƯA 2
(Pháp Thoại An Cư 2015)

Nhà xuất bản Văn Học

Ngày Thứ Năm
PHÁP THOẠI 6 (Chiều ngày 20/6)

 

Hôm nay mọi người vẫn còn đau nhức tê ngứa, buồn ngủ, phóng tâm... Thầy biết các con đã rất cố gắng để “chiến thắng” bản thân. Điều ấy là tốt. Tuy nhiên, các con có để ý là khi làm vậy là ta đã khởi lên một ước muốn, một sức ép nào đó - gốc của tham dục - lại tạo nên một xung đột mới, xung đột với cái bình thường, cái như thường?

Thật khó để diễn đạt điều này nếu không sử dụng kiến thức Abhidhamma. Tại sao vậy! Có 2 năng lực các con ạ! Năng lực của tham, sân, si và năng lực của vô tham, vô sân, vô si. Khi muốn làm việc lành tốt là ta khởi vô tham, vô sân, vô si. Khi làm việc xấu ác là ta khởi tham sân si. Vô tham, vô sân, vô si là nhân của cõi người và cõi trời đầy đủ phước báu sang cả. Tham, sân, si là nhân của 4 đường đau khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la. Cái cách mà thầy nói để tâm rỗng không, không dính mắc hôm qua là ta đang không có 6 nhân ấy; nghĩa là chúng ta đang tập lìa bỏ toàn bộ cõi Dục giới (Sắc giới, Vô sắc giới cũng có 3 nhân vô tham, vô sân, vô si). Lìa toàn bộ cõi Dục giới để tập thiền, tương tự như câu kinh văn Phật thuyết ở trong Tương Ưng bộ: “Rời dục, rời các pháp bất thiện, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”.

Thấy chưa? Chỉ để tâm rỗng rang không mà nó kỳ diệu như vậy đấy! Tuy nhiên, vô lượng chủng tử phiền não ở trong vô thức sâu kín, trong dòng chảy hữu phần (bhavaṅga - dòng sống) nó có để yên cho ta rỗng không chăng? Không dễ đâu. Chúng trào vọt ra, chúng đòi hiện hữu khi duyên cảnh. Và chắc chắn chúng sẽ phá hoại, không để ta yên đâu. Và cụ thể, chúng ta sẽ dễ thấy nhất là 5 triền cái, 5 triền cái là thuộc hạ, là bộ tướng của vô minh đấy!

Vậy muốn đi vào sơ thiền (sơ thiền chánh pháp - ly dục - chứ không phải sơ thiền ngàn xưa của bà-la-môn giáo) thì phải đối trị 5 triền cái. Đối trị 5 triền cái chỉ phát huy tác dụng triệt để khi 5 thiền chi xuất hiện. Nó tuần tự có sự đối trị như sau:

- Tầm đối trị với hôn trầm, thuỵ miên

- Tứ đối trị với nghi

- Phỉ đối trị với sân

- Lạc đối trị với phóng tâm

- Nhất tâm đối trị với dục.

Tầm là tìm kiếm. Trong Abhidhamma có đưa hình ảnh con ong bay đi tìm kiếm đoá hoa – hàm chỉ cho tầm. Nó sẽ nhất hướng bay do khứu giác nhạy bén biết hướng ấy có hoa, có nhuỵ, có mật. Cũng vậy, con ong là cái tâm, đoá hoa là số đếm hay hơi thở, đối tượng thiền. Tìm số đếm, tìm hơi thở cũng nhất tâm, nhất hướng như vậy. Chính năng lực của tầm nó dựng đứng, nó làm cho tỉnh thức hôn trầm, thuỵ miên. Giả dụ như khi ta đang tìm kiếm cái gì, tìm kiếm cái chìa khoá để quên đâu đó, tìm kiếm cái đinh ghim vừa rơi xuống sàn chẳng hạn. Khi đang tìm kiếm ấy, chúng ta không thể nào dã dượi, lừ đừ, buồn ngủ được; nghĩa là, tầm có khả năng chấm dứt hôn trầm, thuỵ miên, có phải không? Có ai làm thử không? Và thầy muốn mỗi người phải tự chứng nghiệm, thực nghiệm điều ấy.

Đến thiền chi thứ 2 là tứ. Khi thiền chi thứ nhất đã thuần thục, tìm kiếm số đếm hay hơi thở đã thuần thục rồi thì sẽ phát sanh thiền chi thứ 2. Tứ là để ý, là theo dõi, là quan sát. Abhidhamma nói rằng, khi con ong thấy đoá hoa rồi, nó bay quanh để quan sát đoá hoa ấy. Khi các con đếm số hoặc theo dõi hơi thở, đã theo sát được số đếm, đã theo dõi được hơi thở; bây giờ sang giai đoạn quan sát nó, bám sát nó không rời. Đừng cho buông lơi dầu chỉ một chút xíu thì thiền chi thứ 3 nó tự động phát sanh; ấy là định luật tự nhiên.

Thiền chi thứ 3 phát sanh, nó là phỉ. Đây là khi con ong quan sát đoá hoa, nó thò vòi vào tim hoa để hút nhuỵ. Phỉ hay hỷ, gọi hỷ cũng được, là những hiện tượng dễ chịu xẩy ra nơi thân. Nó có 5 hiện tượng. Có người phát sanh 1 hoặc 2; có người phát sanh luôn cả 5:

- Tiểu hỷ: Mọc ốc cả người, nổi da gà, rần rần cả người rất dễ chịu...

- Khinh hỷ: Nhẹ lâng lâng, có cảm giác như rời khỏi mặt chiếu, bốc lên khỏi toạ cụ...

- Quang hỷ: Thấy ánh sáng. Có thể ánh sáng toả ra trong mắt, nơi da hay ánh sáng nhảy qua nhảy lại.

- Hải triều hỷ: Như cảm giác sóng chao, lắc lư qua lại rất dễ chịu...

- Sung mãn hỷ: Tẩm mát, no đầy cả người, mát rượi cả người.

Vậy, khi tứ thuần thục, dính khít đối tượng liên tục thì thân đã an. Do thân an nên thân sẽ phát sanh những hiện tượng trên. Và khi những hiện tượng này có mặt thì những cái gọi là đau nhức tê ngứa... nhân phát sanh tâm bực bội, khó chịu (sân) sẽ chấm dứt: Hỷ có mặt thì sân sẽ không có mặt!   

Vậy những ai thấy rõ điều này, chỉ cần chuyên nhất liên tục nơi số đếm, nơi hơi thở thì thiền chi hỷ sẽ phát sanh.

Tiếp theo, thiền chi thứ 4 là lạc, an lạc, đối trị với phóng tâm (gọi chung trạo cử, hối quá). Nếu hỷ là trạng thái dễ chịu ở nơi thân thì lạc là trạng thái dễ chịu, thích thú ở nơi tâm. Đây là khi con ong hút no nê mật rồi. Khi những hiện tượng hỷ phát sanh, cứ ghi nhận như thực, không thủ cũng không xả, cứ để nó đến đi tự nhiên thì lạc cũng sẽ tự nhiên phát sanh. Đây gọi là pháp lạc, đã có sự an lạc của pháp, nó thấm sâu trong nội tâm, xem như đã hoàn toàn được an trú, lúc này thì phóng tâm sẽ không còn nữa: Lạc đối trị phóng tâm.

Từ thiền chi thứ 4 là lạc, cứ an trú lạc tự nhiên thì ta sẽ dần dần đi vào nhất tâm. Nhất tâm có 2 giai đoạn là cận hành định và an chỉ định. Đây tương tự như con ong sau khi hút mật no nê rồi nó nằm ngủ luôn trên cánh hoa.

Cận hành định còn ở cõi Dục nhưng an chỉ định đã vào cõi Sắc. Cận hạnh định là gần gần định, có thể diễn ra trong thời gian 1,2 giờ đồng hồ ta trú trong vắng lặng, mọi tham cầu, hy cầu, tham dục sẽ yên lặng, tĩnh chỉ. Vào an chỉ định là sơ thiền, thiền thứ nhất, đúng như câu kinh văn đức Phật thuyết ở trên trong Tương Ưng bộ: “Rời dục, rời các pháp bất thiện, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”.

Thấy chưa? Hôm nay thầy nói hơi dài, cũng cốt ý cho mọi người nắm bắt toàn bộ sự đối trị. Thầy nói lại, là ai đó còn đau nhức tê ngứa, buồn ngủ, phóng tâm... hãy biết rằng, phải liên tục bám sát số đếm, bám sát hơi thở. Và khi những thiền chi xuất hiện thì nó sẽ tự đối trị với những triền cái như đã nói ở trên.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 7348)
Quyển sách rất nhỏ này gồm những trích chọn một số lời dạy riêng về sự thiền tập. Nó gồm những trích đoạn nói riêng về thiền tập được trích từ những cuộc nói chuyện (pháp thoại) dành cho các Phật tử xuất gia và tại gia.
14 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 13284)
Trong ba tháng An Cư năm 2015 tại chùa Huyền Không Sơn Thượng, tôi có hướng dẫn tập thiền cho đại chúng gồm Tăng Ni, chúng điệu cùng một số cư sĩ. Trước mỗi thời toạ thiền như thế, thường là 45 phút, tôi có một pháp thoại ngắn từ 15 đến 20 phút, đôi khi dài hơn một tí, chỉ để giúp cho “hành giả” đi từng bước sơ cơ vào thiền tập một cách vững chắc.
25 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9442)
Về Paritta: VTH dẫn một bài kệ (cả Pāḷi và Việt ngữ) có nguồn gốc Tích Lan rồi nhận xét: “Nội dung bài kệ cho thấy khắp thân thể và không gian xung quanh hành giả được bảo hộ bởi Phật, Pháp và Tăng. Do hình thức an vị giống như sự an vị các Tôn trong Mật tông Bắc truyền, một số học giả phương Tây xem đây như một thể loại “tantra” của Phật giáo Theravāda”. Sau đó hỏi tôi: “Người tu theo Pháp này có thực hành đúng theo tinh thần của Tứ Diệu Đế hay không?”
23 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9687)
Thưa thầy con thấy trong 37 trợ đạo phẩm có pháp tứ như ý túc, thầy có thể nói cho con về pháp Tứ Như Ý Túc được không ạ? Pháp này hành trì như thế nào ạ?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 8728)
Thưa thầy, lúc trước thầy có hứa sẽ viết một bài về cách niệm Phật cho tới cận hành định rồi qua thiền minh sát, con và các bạn muốn học Phật chân truyền đang chờ mong (Mà làm sao biết mình niệm đã “tới bến” tức là đạt cận hành định, thưa thầy?)
19 Tháng Mười Một 2015(Xem: 11780)
Chúng tôi nhận được một số câu hỏi liên quan đến việc thực hành thiền. Để trả lời chung, chúng tôi giới thiệu đến quý đạo hữu bài pháp hành của Hoà thượng Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) giảng trong khóa An cư năm 2015 tại chùa Huyền Không Sơn Thượng Thừa Thiên Huế và bài hướng dẫn thiền tập của Thiền sư Thanissaro Bhikkhu (bản dịch của Cư sĩ Nguyên Giác):
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 10259)
“- Cầu nguyện là một nhu cầu tâm linh rất phổ biến của loài người. Vì thế tất cả các tôn giáo như Ki tô giáo, Ấn giáo, Hồi giáo và luôn cả Phật giáo Tịnh độ tông ... đều cầu nguyện và cầu xin. Họ cầu nguyện và cầu xin vì họ tin là có Thần quyền thiêng liêng có quyền năng phò trì, cứu khổ, cứu nạn. Xin thầy vui lòng chỉ dạy cho con Phật tử Theavāda không tin có tha lực lực siêu phàm và như vậy khi họ bị tại ương, tật ách thì họ cầu nguyện ai???
15 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6267)
Tôi xin được trình bày đến quý vị về kinh nghiệm của ba tháng thiền quán Vipassana, cũng như nêu lên một số vấn đề cho những bạn nào thích tìm hiểu, nghiên cứu về thiền quán.Thường thì mỗi khóa tu ba tháng như vậy có khoảng chừng một trăm người tham dự. Tất cả cùng phát nguyện giữ thinh lặng trong vòng ba tháng – chỉ được phép nói chuyện với vị thầy mỗi ngày khoảng 10 – 15 phút trong giờ trình pháp.
14 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9637)
Sau ba tháng an cư, tôi có 32 pháp thoại hướng dẫn cho Đại chúng HKST tập thiền với những kiến thức và những dụng công cần thiết về định cũng như về tuệ. Thư Viện Hoa Sen đã liên tiếp đăng được 25 pháp thoại cùng 4 bài trả lời những câu hỏi của độc giả.
29 Tháng Mười 2015(Xem: 16264)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân. Những câu hỏi của người mới bắt đầu hành thiền là: “Tôi phải ngồi như thế nào?” “Làm sao để không bị đau khi ngồi?”