Ngày Thứ 46 PHÁP THOẠI 28

14 Tháng Mười Hai 201503:16(Xem: 7704)

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 
(Sīlaguṇa-Mahāthera)
NHẶT LÁ RỪNG XƯA 2
(Pháp Thoại An Cư 2015)

Nhà xuất bản Văn Học

Ngày Thứ Bốn Mươi Sáu
PHÁP THOẠI 28 (Tối ngày 02/8 ÂL)

 

Chúng ta bị gián đoạn trong một thời gian dài. Nghĩ cũng lạ! Pháp quả thật là thường xẩy ra “bất như ý”. Khi chúng ta “lập trình” cái gì theo “tư ý” thì pháp nó xen vào nó phá. Tư ý là ý kiến riêng tư, chủ quan, phù hợp với tình cảm và nhận thức của mình. Và đấy là có sự hiện diện của bản ngã, nói đúng hơn là do bản ngã điều động. Đây là bài học thứ nhất để giác ngộ: Cái gì muốn làm theo ý mình, theo bản ngã thì “bất như ý, bất toại nguyện” sẽ phát sanh, dù là thiện pháp.

Sống ở đời, ai cũng muốn theo ý mình, cái gì hợp với sở thích của mình, mình mới ưa. Chúng ta thích ăn ngon, không thích ăn dở. Chúng ta muốn cái tốt, không muốn cái xấu. Ví dụ vậy. Ngon nhưng mà ngon theo kiểu của mình chứ không phải ngon theo kiểu của người khác, dở cũng vậy. Tốt là tốt theo quan điểm của mình và xấu cũng vậy. Nói rộng chút nữa là “tám ngọn gió đời” như đã nói hôm trước: Chỉ thích được lợi, không thích mất lợi; chỉ thích được danh thơm, nhưng tiếng xấu thì không chịu nổi; chỉ thích được tán dương, khen ngợi, nhưng khi bị chỉ trích, chê bai thì ỉu xìu mặt ra; chỉ muốn hạnh phúc và không chịu đựng được đau khổ. Và khái quát toàn bộ thế gian: Chỉ muốn thăng không muốn trầm, muốn tụ không muốn tan, muốn thành không muốn hoại, muốn hợp không muốn ly...

Thực tại là lưỡng nguyên, cuộc đời luôn có hai mặt. Dĩ nhiên ai cũng thích mặt tốt không thích mặt xấu. Khi lựa chọn cũng vậy, chúng ta làm điều lành tốt thì quả báu sẽ hạnh phúc, an vui. Điều ấy là dĩ nhiên. Tuy nhiên khi bàn về giác ngộ thì ta phải giác ngộ cả hai mặt. Phải giác ngộ cả hai mặt mới nói đến giải thoát; nếu không, dù ta làm việc lành tốt cao thượng thế nào, phước báu sang cả thế nào thì đau khổ vẫn còn nguyên đấy!

Chuyện dễ hiểu thôi!

- Có người làm ăn thuận lợi, hanh thông, thành đạt, ông ta thoả nguyện, sung sướng, hạnh phúc. Nhưng đùng một cái, công việc làm ăn không còn thuận lợi nữa, bị cản trở, chướng ngại và coi chừng vỡ nợ tới nơi. Thế là ông ta đau khổ, than trời, trách đất.

Đây là trường hợp quen được lợi, quen hanh thông, quen thành đạt... nhưng chưa học được mặt kia: Mất lợi, bế tắc, thất bại.

- Gia đình người kia đang đầm ấm, an vui; tuy nhiên sau cuộc cãi vã giữa chồng và vợ; sau đó là ly dị; gia đình lìa tan, con cái bơ vơ... và rồi ai cũng đau khổ, thống khổ cả.

Đây là trường hợp quen an vui, sum họp... mà chưa học được mặt trái lại: Không còn an vui, ly tan, chia lìa...

- Người kia thông minh tài trí, làm việc gì cũng thành công, mọi người thường tán thán, khen ngợi, và luôn được mọi người tán thán, ca ngợi. Hôm kia, có người lại chỉ trích, chê bai! Chắc chắn lỗ tai của ông ta quen với những lời khen tặng, bây giờ bị chê bai chắc anh ta sẽ nổi cáu, nổi khùng, đau khổ.

Đây là trường hợp chưa học bài bị chỉ trích, chê bai.

Khái quát như vậy, để biết rằng, chúng ta phải học cả mặt xấu, giác ngộ cả mặt xấu, giải thoát, rỗng rang cả mặt xấu khi ấy mới nói đến chuyện giải thoát đau khổ được. Có thể có 3 trường hợp:

- Tu tập định giác chi - để tự tại, vô ngại trước những thăng trầm, được mất, khen chê của cuộc đời.

-  Có thể tu tập tâm nhẫn, tâm xả hay tâm từ. Trường hợp đức Phật là nhẫn nại: “ Như thớt voi giữa trận tiền. Giữa bao hòn đạn, lằn tên sá gì. Như Lai chịu đựng ác tri. Nhẫn nại ác giới, mê si lòng người”.

- Tu tập tuệ minh sát, lắng nghe như thực cả tham sân, cả không tham, không sân, cả thiện, cả ác... để thấy bản chất của chúng là vô thường, vô ngã.

Đến đây thầy chợt nhớ đến mấy câu chuyện:

1- Chuyện ngài Hộ Nhẫn, tăng trưởng giáo hội PGNT Việt Nam. Ngài đang đi trì bình khất thực thì bị chiếc xe Honda của chàng thanh niên tông, ngài té xuống mặt đường, đầu bị va đập trúng sọ não. Máu chảy lênh láng. Tuy nhiên, ngài đã nói nhanh với chàng thanh niên: “Đi đi con! Con đi đi! Không có chi mô!” Ý của ngài là muốn chàng thanh niên tránh đi, kẻo chư tăng và Phật tử sẽ đến “hỏi tội”. Chuyện sau đó, ngài nằm nghiêng theo thế đức Phật Niết-bàn, mỉm cười rồi ra đi một cách nhẹ nhàng, thư thái.

Trường hợp của ngài có thể có tuệ minh sát, lắng nghe cơn đau. Sau đó, khởi tâm từ đến chàng thanh niên, không một hạt bụi đau khổ, bất bình len được vào tâm ngài.

Trước đó nữa, ngài đang trì bình thì bị chiếc xe xích lô tông rồi té ngửa giữa mặt đường. Ngài cũng đủ tỉnh trí vài ba giây, bảo ông xích lô đi đi, sau đó bất tỉnh. Ngài tỉnh lại trong bệnh viện, một số bác sĩ đang săn sóc ngài. Đầu bị quấn băng và họ đang chuẩn bị tiêm thuốc, nhưng ngài ngồi dậy, mỉm cười lấy bát và ôm bát lên chùa. Các bác sĩ can ngăn, nói áp huyết của ngài đang tụt xuống 7, nguy hiểm lắm, nhưng ngài nói: “Không can chi mô, tôi đi bộ lên chùa được”. Thế là ngài đi, không ai cản nổi. Sáng hôm sau lại thấy ngài trì bình khất thực bình thường trên các ngã đường!

2- Chuyện ngài Hộ Tông, Tăng thống giáo hội Tăng-già NTVN.

Cuối năm 1939 ông Giảng (tên ngài thuở ngài còn là cư sĩ) do đau nặng phải vào nằm bệnh viện trung ương ở Phnôm-Pênh để cho bác sĩ khám xét toàn bộ cơ thể. Cô Diệu (con gái của ngài) nuôi bệnh, thường hay lo lắng hỏi han, ba đau ở chỗ nào, đau ở chỗ nào...

Ông Giảng mỉm cười:

- Thú vị lắm con ạ!

Cô Diệu “xì” một tiếng:

- Đau mà ba bảo là thú vị!

- Chớ sao! Ông nheo nheo mắt. Mỗi lần trái tim nó giật, nó thốn thốn, nó nhức nhức... ba nhìn nó rồi ba bảo với nó: À, này ông bạn! Ông bạn làm cái gì mà thốn thốn, nhức nhức hoài dzậy? Thôi, ở đó chút rồi ra ngoài kia mà chơi, tui không mời ngồi, đón tiếp trà nước đâu nghen!

Cô Diệu chợt reo lên:

- Hay! Và rồi thế là cái thốn, cái nhức ấy nó đi chỗ khác chơi hả ba?

- Ban đầu thì nó cứng đầu, cứ muốn ở lì mãi đó; sau, ba phải nói kiểu khác. Ba nói: Thôi, thế này nhé! Đau nhức gì đó là việc của ông bạn, còn tôi, tôi còn có việc của tôi! Việc của tôi là đọc kinh sách, hành thiền - xin đừng làm rộn nhau nghen!

Cô Diệu cười:

- Con biết! Con biết ba hành minh sát tuệ mà ba nói nhẹ nhàng, têu tếu rất vui!

- Con khá lắm! Ông Giảng bèn khen - Người có thường trực tuệ quán, họ còn giỏi hơn ba ở chỗ, “họ có thể tách rời cái đau nhức ra ngoài như không liên hệ gì với họ hết”. Ba đang tập như vậy đó con!

Cô Diệu mở tròn mắt:

- Cái đau nhức ấy không liên hệ?

- Phải! Không liên hệ gì hết! Ông Giảng gật đầu - Cảm thọ ấy là vô thường, vô ngã; tự chúng là vô thường, vô ngã chớ có “cái ta, cái tôi” nào ở đấy đâu con!

- Dzậy con hiểu rồi!

- Nếu “hiểu” thì chưa tới!

- Dzậy thì sao mới “tới” hả ba?

- Phải “thấy” mới tới! Cái thấy của tuệ giác mới ngon lành! Hãy chiêm nghiệm như dzậy!

Hai cha con thật là tâm đầu ý hợp, họ nói chuyện với nhau rất vui, chẳng thấy đau yếu, bệnh tật gì cả.

Chính bác sĩ và y tá lui tới, vào ra, họ vô cùng ngạc nhiên vì thấy sắc mặt bệnh nhân của mình khi nào cũng trầm tĩnh, thư thái, không đọc kinh sách, viết cái gì đó thì hành thiền. Một không khí mát mẻ, bình yên như phủ trùm cả không gian.

Ông thân và bạn bè lui tới thăm viếng cũng đều cảm nhận tương tợ. Một vài người nói nhỏ với nhau, nếu không đắc quả thánh thì A-cha Giảng cũng thọ hưởng sự an lạc của định thiền thâm sâu mới được như vậy.

Để kết luận, thầy muốn nói rằng, chỉ có tuệ minh sát, thấy rõ như thực tánh của tâm và pháp, chúng vốn vô thường vô ngã mới chấm dứt trọn vẹn tham sân phiền não và khổ đau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 7339)
Quyển sách rất nhỏ này gồm những trích chọn một số lời dạy riêng về sự thiền tập. Nó gồm những trích đoạn nói riêng về thiền tập được trích từ những cuộc nói chuyện (pháp thoại) dành cho các Phật tử xuất gia và tại gia.
14 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 13267)
Trong ba tháng An Cư năm 2015 tại chùa Huyền Không Sơn Thượng, tôi có hướng dẫn tập thiền cho đại chúng gồm Tăng Ni, chúng điệu cùng một số cư sĩ. Trước mỗi thời toạ thiền như thế, thường là 45 phút, tôi có một pháp thoại ngắn từ 15 đến 20 phút, đôi khi dài hơn một tí, chỉ để giúp cho “hành giả” đi từng bước sơ cơ vào thiền tập một cách vững chắc.
25 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9435)
Về Paritta: VTH dẫn một bài kệ (cả Pāḷi và Việt ngữ) có nguồn gốc Tích Lan rồi nhận xét: “Nội dung bài kệ cho thấy khắp thân thể và không gian xung quanh hành giả được bảo hộ bởi Phật, Pháp và Tăng. Do hình thức an vị giống như sự an vị các Tôn trong Mật tông Bắc truyền, một số học giả phương Tây xem đây như một thể loại “tantra” của Phật giáo Theravāda”. Sau đó hỏi tôi: “Người tu theo Pháp này có thực hành đúng theo tinh thần của Tứ Diệu Đế hay không?”
23 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9671)
Thưa thầy con thấy trong 37 trợ đạo phẩm có pháp tứ như ý túc, thầy có thể nói cho con về pháp Tứ Như Ý Túc được không ạ? Pháp này hành trì như thế nào ạ?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 8716)
Thưa thầy, lúc trước thầy có hứa sẽ viết một bài về cách niệm Phật cho tới cận hành định rồi qua thiền minh sát, con và các bạn muốn học Phật chân truyền đang chờ mong (Mà làm sao biết mình niệm đã “tới bến” tức là đạt cận hành định, thưa thầy?)
19 Tháng Mười Một 2015(Xem: 11770)
Chúng tôi nhận được một số câu hỏi liên quan đến việc thực hành thiền. Để trả lời chung, chúng tôi giới thiệu đến quý đạo hữu bài pháp hành của Hoà thượng Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) giảng trong khóa An cư năm 2015 tại chùa Huyền Không Sơn Thượng Thừa Thiên Huế và bài hướng dẫn thiền tập của Thiền sư Thanissaro Bhikkhu (bản dịch của Cư sĩ Nguyên Giác):
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 10246)
“- Cầu nguyện là một nhu cầu tâm linh rất phổ biến của loài người. Vì thế tất cả các tôn giáo như Ki tô giáo, Ấn giáo, Hồi giáo và luôn cả Phật giáo Tịnh độ tông ... đều cầu nguyện và cầu xin. Họ cầu nguyện và cầu xin vì họ tin là có Thần quyền thiêng liêng có quyền năng phò trì, cứu khổ, cứu nạn. Xin thầy vui lòng chỉ dạy cho con Phật tử Theavāda không tin có tha lực lực siêu phàm và như vậy khi họ bị tại ương, tật ách thì họ cầu nguyện ai???
15 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6256)
Tôi xin được trình bày đến quý vị về kinh nghiệm của ba tháng thiền quán Vipassana, cũng như nêu lên một số vấn đề cho những bạn nào thích tìm hiểu, nghiên cứu về thiền quán.Thường thì mỗi khóa tu ba tháng như vậy có khoảng chừng một trăm người tham dự. Tất cả cùng phát nguyện giữ thinh lặng trong vòng ba tháng – chỉ được phép nói chuyện với vị thầy mỗi ngày khoảng 10 – 15 phút trong giờ trình pháp.
14 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9633)
Sau ba tháng an cư, tôi có 32 pháp thoại hướng dẫn cho Đại chúng HKST tập thiền với những kiến thức và những dụng công cần thiết về định cũng như về tuệ. Thư Viện Hoa Sen đã liên tiếp đăng được 25 pháp thoại cùng 4 bài trả lời những câu hỏi của độc giả.
29 Tháng Mười 2015(Xem: 16262)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân. Những câu hỏi của người mới bắt đầu hành thiền là: “Tôi phải ngồi như thế nào?” “Làm sao để không bị đau khi ngồi?”