Ngày Thứ 8 PHÁP THOẠI 12

13 Tháng Mười Hai 201503:30(Xem: 7934)

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 
(Sīlaguṇa-Mahāthera)
NHẶT LÁ RỪNG XƯA 2
(Pháp Thoại An Cư 2015)

Nhà xuất bản Văn Học

Ngày Thứ  Tám
PHÁP THOẠI 12 (Chiều ngày 23/6 ÂL)

 

Hôm qua, thầy nói chuyện với chư sư, chư ni, về 5 quyền, 5 lực mà nói chưa hết. 5 quyền, 5 lực trong khi tu tập định tuệ nó khác với trong sinh hoạt thường nhật.

5 quyền có thể tu tập riêng lẻ.

Có ba loại bồ-tát: Bồ-tát đức tin, Bồ-tát tinh tấn và Bồ-tát trí tuệ. Bồ-tát trí tuệ thành tựu quả vị Phật sớm nhất, sau đó là Bồ-tát đức tin, sau rốt nữa là Bồ-tát tinh tấn. Bồ-tát tinh tấn, tức là hạnh nguyện phục vụ chúng sanh với thời gian lâu xa nhất mới thành Phật, như Bồ-tát Mettaya (Di Lặc).

Về Tín: Có người đức tin có sẵn từ truyền thống gia đình. Có người có đức tin sau khi đọc kinh sách, nghiên cứu giáo pháp. Có người sau khi đi Ấn Độ thăm bốn chỗ động tâm, đọc bia ký vua A Dục, thăm các nước đất Phật như Thái, Miến, Tích Lan... thì đức tin mới vững chắc. Có người thờ xá-lợi Phật, thấy xá-lợi sanh thêm một ngôi, hai ngôi thì đức tin mới được củng cố... Có người chứng kiến việc nhân quả trả vay ở đời, thấy chuyện luân hồi tái sanh là có thật... nên phát sanh thâm tín Tam Bảo.

Ngược lại, tuy có người có đức tin từ truyền thống gia đình nhưng lớn lên chạy theo danh lợi, địa vị, quyền lực, mù quáng theo con đường bất chánh nên tối ám lương tri – thì đức tin bị diệt mất. Có người do ỷ y mình thông minh, tài giỏi chỉ tin vào kiến thức, lý trí khôn ngoan của mình thôi; loại người này đức tin rất yếu. Có người học khoa học tự nhiên, giỏi về toán, lý, hoá nên chỉ tin vào cái gì chứng minh được, giải thích được; loại người này dễ không có đức tin.  Nhưng đạo Phật không chỉ dừng lại ở lý trí khoa học; nó còn có những lãnh vực mà không bao giờ tu duy lý tính hoặc khoa học với tới được.

Nói tóm lại, về đức tin, có người ít, người nhiều, có người bị sụt giảm rồi mất, có người được trưởng dưỡng thêm.

Về Tấn: Bồ-tát tinh tấn, tức là có hạnh nguyện chuyên làm lành lánh dữ, làm các thiện sự, các công ích phục vụ chúng sanh, xã hội. Ai chuyên bỏ ác làm lành, làm các công đức, phục vụ Tam Bảo, phục vụ chúng sanh, xã hội không mệt mỏi thì Tấn này (hạnh phục vụ) sẽ lớn mạnh, tăng trưởng.

Về Niệm: Trong công việc, làm việc gì ghi nhớ việc ấy; làm việc gì, chú tâm vào việc ấy không xao lãng. Người có niệm đi không bước vấp, đi không hấp tấp, vội vã, không dễ gì té ngã do bất cẩn được. Sâu hơn chút nữa, ý nghĩ khởi gì là biết cái ấy. Cái gì phát sanh nơi thân, nơi cảm giác, nơi trạng thái tâm, nơi ý thức, tư tưởng, nhận thức - người có niệm, nói rõ hơn là có tu tập Tứ Niệm Xứ - đều ghi nhận rõ ràng. Ở đây sẽ có ba giai đoạn ghi nhận: Một, nó khỏi sanh một hồi mới ghi nhận; hai, nó đang khởi sanh liền ghi nhận; ba, vừa mới khởi sanh là ghi nhận liền.

Những khi suy nghĩ vẩn vơ, nhiều chuyện buồn đau chi phối, hay nghĩ đến quá khứ, vị lai, nhiều vọng tưởng hoặc nhiều phóng tâm... thường bị thất niệm. Vậy, có người niệm được củng cố, tăng trưởng; có người bị sụt giảm, mất niệm.

Ở đây cần một một lưu ý: Cái gì đi qua tai, mắt mũi lưỡi thân ý – ghi nhận được nó là chức năng của Chánh Niệm, thấy rõ nó là chức năng của Chánh Kiến; biết rõ nó là thiện ác, tốt xấu, đàn ông, đàn bà là chức năng của Chánh Tư Duy.

Về Định: Bất cứ đối tượng nào, nếu ta chú tâm lâu thì phát sanh định. Khi nào ta giữ tâm ổn định, quân bình, bình tĩnh thì khi ấy ta có định – đây là định trong đời sống thường nhật. Trên đời, làm bất cứ công việc gì, dù thiện, dù ác, đều có định nầy, do vậy có tà định, có chánh định. Tà định hướng tới điều ác, việc ác. Chánh định hướng tới điều lành, việc lành. Tà định khởi tâm dục mà tâp thiền. Chánh định ly dục mà tập thiền.

Muốn định trong đời sống thường nhật được tăng trưởng thì phải thường xuyên có chú tâm, có niệm, vì niệm sanh định. Tốt hơn và hiệu quả hơn thì phải tu tập thiền định.

Về Tuệ: Tuệ có 2 loại là tuệ tục đế và tuệ chân đế. Tuệ tục đế là tuệ thấy rõ nhân quả, tội phước, đúng sai, phải trái, thiện ác, chuyện đáng làm và chuyện không nên làm. Tuệ chân đế là tuệ thấy rõ cái thực, cái như chân như thực, thấy rõ bản chất như thật của tâm và pháp. Ví dụ thấy rõ tâm vô thường, vô ngã; pháp vô thường, vô ngã. Chẳng có gì nắm bắt được, lưu giữ được, nó luôn trôi chảy, dịch chuyển, cả tâm và pháp, 2 sát-na không giống nhau, 2 giọt nước không giống nhau, một tư, một tưởng, một tế bào sắc chất cũng thế. Chẳng có cái ngã tính nào, thực tính nào trong sự dịch chuyển muôn đời ấy. Đó là cái thực, là sự thực. Thấy được cái ấy là ta có tuệ giác, từ cạn vào sâu. Giác ngộ điều ấy thì tâm ta vô ưu, vô não, giải thoát thênh thang, tự do thênh thang trước sự dịch chuyển vô thường vô ngã của tâm và pháp. Ta buông xả hết, tự nhiên buông xả hết tham sân phiền não chứ chẳng có ý buông xả tham sân, phiền não trước những được thua, thành bại, đúng sai, phải trái, bờ này, bờ kia... nữa. Niết-bàn là vậy, chứ không phải thế gian pháp là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh rồi nói Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh như đâu đó hiểu lầm. Cái ấy là nhị nguyên, là hai bờ của thế gian pháp. Bỏ bên này chụp bên kia. Bỏ cái này, được cái nọ. Phải siêu xuất cả hai bờ như câu kinh Pháp cú sau đây:

“- Bên này sông, bên kia sông

Cả hai không có, cũng không bờ nào

Thoát ly phiền não buộc rào

Là sa-môn gọi, đúng sao danh người!”

Không được cái gì cả mới tự do, mới giải thoát. Được cái gì đó là sở đắc, là bản ngã. Coi chừng đó!

Trở lại với sự tu tập cụ thể, như minh sát nói, thấy đau biết đau, thấy tham biết tham... là tập ghi nhận như thực đó. Đếm số hơi thở thì thấy rõ đếm số hơi thở, như thực đó. Theo dõi hơi thở thấy rõ đang theo dõi hơi thở, như thực đó. Nếu đếm số và theo dõi hơi thở mà nhất tâm thì đi vào định, nó cũng là như thực, vì đấy là sự vận hành tự nhiên của tâm và pháp. Từ định sang tuệ mà nhìn ngắm thân, thọ, tâm và pháp cũng tương tự vậy, đều là thấy tự nhiên như nhiên như chúng đang là cả.

Tóm lại, sự tu tập của chúng ta dù định hay tuệ cũng phải từ cái như thực đang là mà đi, không bao giờ sai lầm cả, không bao giờ sợ lạc vào tà ma ngoại đạo cả. Hãy cố lên. Phải đầy đủ Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà lên đường, mà tập thiền nhé! 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 7340)
Quyển sách rất nhỏ này gồm những trích chọn một số lời dạy riêng về sự thiền tập. Nó gồm những trích đoạn nói riêng về thiền tập được trích từ những cuộc nói chuyện (pháp thoại) dành cho các Phật tử xuất gia và tại gia.
14 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 13272)
Trong ba tháng An Cư năm 2015 tại chùa Huyền Không Sơn Thượng, tôi có hướng dẫn tập thiền cho đại chúng gồm Tăng Ni, chúng điệu cùng một số cư sĩ. Trước mỗi thời toạ thiền như thế, thường là 45 phút, tôi có một pháp thoại ngắn từ 15 đến 20 phút, đôi khi dài hơn một tí, chỉ để giúp cho “hành giả” đi từng bước sơ cơ vào thiền tập một cách vững chắc.
25 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9436)
Về Paritta: VTH dẫn một bài kệ (cả Pāḷi và Việt ngữ) có nguồn gốc Tích Lan rồi nhận xét: “Nội dung bài kệ cho thấy khắp thân thể và không gian xung quanh hành giả được bảo hộ bởi Phật, Pháp và Tăng. Do hình thức an vị giống như sự an vị các Tôn trong Mật tông Bắc truyền, một số học giả phương Tây xem đây như một thể loại “tantra” của Phật giáo Theravāda”. Sau đó hỏi tôi: “Người tu theo Pháp này có thực hành đúng theo tinh thần của Tứ Diệu Đế hay không?”
23 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9671)
Thưa thầy con thấy trong 37 trợ đạo phẩm có pháp tứ như ý túc, thầy có thể nói cho con về pháp Tứ Như Ý Túc được không ạ? Pháp này hành trì như thế nào ạ?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 8717)
Thưa thầy, lúc trước thầy có hứa sẽ viết một bài về cách niệm Phật cho tới cận hành định rồi qua thiền minh sát, con và các bạn muốn học Phật chân truyền đang chờ mong (Mà làm sao biết mình niệm đã “tới bến” tức là đạt cận hành định, thưa thầy?)
19 Tháng Mười Một 2015(Xem: 11772)
Chúng tôi nhận được một số câu hỏi liên quan đến việc thực hành thiền. Để trả lời chung, chúng tôi giới thiệu đến quý đạo hữu bài pháp hành của Hoà thượng Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) giảng trong khóa An cư năm 2015 tại chùa Huyền Không Sơn Thượng Thừa Thiên Huế và bài hướng dẫn thiền tập của Thiền sư Thanissaro Bhikkhu (bản dịch của Cư sĩ Nguyên Giác):
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 10247)
“- Cầu nguyện là một nhu cầu tâm linh rất phổ biến của loài người. Vì thế tất cả các tôn giáo như Ki tô giáo, Ấn giáo, Hồi giáo và luôn cả Phật giáo Tịnh độ tông ... đều cầu nguyện và cầu xin. Họ cầu nguyện và cầu xin vì họ tin là có Thần quyền thiêng liêng có quyền năng phò trì, cứu khổ, cứu nạn. Xin thầy vui lòng chỉ dạy cho con Phật tử Theavāda không tin có tha lực lực siêu phàm và như vậy khi họ bị tại ương, tật ách thì họ cầu nguyện ai???
15 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6256)
Tôi xin được trình bày đến quý vị về kinh nghiệm của ba tháng thiền quán Vipassana, cũng như nêu lên một số vấn đề cho những bạn nào thích tìm hiểu, nghiên cứu về thiền quán.Thường thì mỗi khóa tu ba tháng như vậy có khoảng chừng một trăm người tham dự. Tất cả cùng phát nguyện giữ thinh lặng trong vòng ba tháng – chỉ được phép nói chuyện với vị thầy mỗi ngày khoảng 10 – 15 phút trong giờ trình pháp.
14 Tháng Mười Một 2015(Xem: 9634)
Sau ba tháng an cư, tôi có 32 pháp thoại hướng dẫn cho Đại chúng HKST tập thiền với những kiến thức và những dụng công cần thiết về định cũng như về tuệ. Thư Viện Hoa Sen đã liên tiếp đăng được 25 pháp thoại cùng 4 bài trả lời những câu hỏi của độc giả.
29 Tháng Mười 2015(Xem: 16262)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân. Những câu hỏi của người mới bắt đầu hành thiền là: “Tôi phải ngồi như thế nào?” “Làm sao để không bị đau khi ngồi?”