Pháp quán tưởng đơn giản về bài cầu nguyện bảy dòng

12 Tháng Chín 201621:00(Xem: 4577)

PHÁP QUÁN TƯỞNG ĐƠN GIẢN VỀ
BÀI CẦU NGUYỆN BẢY DÒNG
Dodrupchen Rinpoche Jigme Tenpai Nyima[1] soạn 
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 

blankKính lễ Đạo sư!

Đây là một pháp quán tưởng vô cùng ngắn gọn và đơn giản để trì tụng Bài Cầu Nguyện Bảy Dòng tới Đạo Sư Tôn Quý Xứ Oddiyana.

Hãy sắp xếp bất kỳ vật phẩm cúng dường nào mà con có trước một bức tượng của Guru Rinpoche hay các vật đại diện khác của ba kiểu[2]. Tiếp đó, hướng về phía Tây Nam, hãy nhất tâm trì tụng lời cầu nguyện một cách du dương, như những dòng sau đây trong Lời Nguyện Bảy Chương:

Với giai điệu thiết tha, mong mỏi như đứa con gọi cha mẹ, Bằng âm thanh dịu ngọt như tiếng đàn ghi-ta hay tiếng sáo – Hãy cầu nguyện như vậy sáu lần trong suốt ngày đêm!

Bây giờ, hãy cùng xem xét từng từ trong Bài Cầu Nguyện Bảy Dòng và giải thích chúng một cách đơn giản:

HUM ở đây là lời mở đầu, một tiếng thỉnh cầu.

Lời cầu nguyện tiếp tục như sau:

Ở phía Tây Bắc xứ Oddiyana, trên hòn đảo ở giữa hồ Dhanakosa rộng lớn, ngài sinh ra một cách diệu kỳ ở giữa bông sen vĩ đại. Lúc ngài chào đời, vô số sự kiện vi diệu xuất hiện chẳng hạn chư Phật ban quán đỉnh, chư Không Hành Nữ dâng tặng những phẩm vật và lời tán thán. Bởi ngài là Vô Lượng Quang Phật về tinh túy, trong quá khứ ngài đã làm chủ sự thành tựu tối thắng, nhưng khi hóa hiện trong Ứng Hóa thân thuộc Liên Hoa Bộ để điều phục học trò trên khắp cõi Nam Thiệm Bộ Châu này và bởi ngài sinh ra từ một bông sen, ngài nổi tiếng ở khắp cõi giới của chư Không Hành Nam và Nữ là ‘Liên Hoa Sinh’. Ban đầu, ở Ấn Độ, ngài làm lợi lạc vô số đệ tử, bao gồm những vị vua như Indrabodhi, các hành giả du già [Yogi] như Đấng Dampa Sangye cùng những tín nữ cao quý như Công chúa Mandarava. Kế đó, ở Tây Tạng, ngài thiết lập giáo lý của Đức Phật một cách trọn vẹn, đưa vô số môn đồ nhân và phi nhân đến sự chín muồi và giải thoát. Để xoa dịu rủi ro của thời suy đồi, ngài chôn giấu hàng triệu kho tàng – nhiều vô số kể. Cuối cùng, ở Dravira, nhờ thần thông diệu kỳ và những chỉ dẫn, ngài trói buộc tramen bằng lời thề và nỗ lực vì hạnh phúc của loài người, trước khi xuất hiện ở cõi Tịnh Độ phi thường trên Núi Huy Hoàng Màu Đồng, giữa hồ nước lớn ở trung tâm Camara, hòn đảo của loài La-sát. Ở đó, trong cung điện Liên Hoa Quang tráng lệ, vây quanh bởi nhiều Không Hành trí tuệ và thế gian – cả nam và nữ – ngài an trụ cho tới ngày nay trong thân kim cương vượt sinh tử và chẳng hề suy giảm.

Quán chiếu những phẩm tính tuyệt hảo này một cách chi tiết, tâm thức chúng ta chắc chắn sẽ tràn ngập niềm tin và lòng sùng mộ.

Sau đó, lời cầu nguyện tiếp tục:

Con sẽ nương theo dấu chân ngài, hỡi Guru Rinpoche và thậm chí nếu con chẳng thể thực hành con đường cao cấp của giai đoạn phát triển và hoàn thiện, con vẫn nhất tâm cầu nguyện với lòng sùng mộ chí thành. Mặc dù thân ngài ở cõi La-sát, lòng bi mẫn của ngài chẳng bị ngăn che và trí tuệ của ngài thì không chướng cản, vì thế xin hãy đến đây, ngay lúc này, nhờ sức thần thông vi diệu nhanh như ý niệm. Hãy ban phước gia trì để ở đây và ngay bây giờ, chính giây phút này, mọi loại bệnh tật, sức mạnh ngăn cản, các hành động nguy hại và che chướng, thứ ảnh hưởng đến thân, khẩu và ý của chúng con, và mọi thứ ngăn cách chúng con với các cõi giới cao đầy vẻ nguy nga và sự tốt lành tối thượng, đều được an dịu và chúng con tự nhiên đạt được mọi thuận duyên, trường thọ, công đức, thịnh vượng và mọi phẩm tính của sự trao truyền kinh văn và chứng ngộ.

Hãy thành kính cầu nguyện, khẩn cầu lòng bi mẫn của bậc thầy và thỉnh mời ngài đến hoàn thành mong ước của con.

Điều tiếp theo giống như một sự tóm tắt lại lời cầu nguyện. Bởi ngài sở hữu vô số phẩm tính vô song, ‘Guru’ được nhắc đến ở đây là vị có những phẩm tính đặc biệt của một bậc thầy. Như một dấu hiệu cho thấy ngài thuộc về Liên Hoa Bộ và sinh ra từ hoa sen, chúng ta cất tiếng ‘Padma’ và cầu nguyện: ‘Xin ngài ban cho con mọi Siddhi [thành tựu] thông thường và siêu việt, HUM!’. Con có thể trì tụng thần chú này hàng nghìn lần trong mỗi thời công phu, một cách thanh tịnh và rõ ràng, không trộn lẫn với những lời nói bình phàm.

Bởi thậm chí hiện nay, Orgyen Rinpoche vẫn ngự trên Núi Huy Hoàng Màu Đồng, khi chúng ta xem ngài là ruộng phước đức, chẳng cần phải kết thúc thời khóa bằng việc hóa tán quán tưởng. Lúc kết thúc, hãy trì tụng Lời Cầu Nguyện Mong Ước Nhanh Chóng Thành Tựu (sampa nyurdrup) và hồi hướng công đức.

Những lợi lạc từ việc hành trì như vậy được miêu tả trong chính bản văn kho tàng:

Học trò nào của Ta cầu nguyện như vậy,

Chẳng nghi ngờ gì, họ sẽ được Ta bảo vệ,

Bởi họ là những thiện nam, tín nữ của chư Phật ba đời.

Chúng ta có thể tin tưởng về điều này bởi Đại Sư chẳng bao giờ lừa dối và điều quan trọng là thực hành với không mảy may nghi ngờ trong tâm.

Matibhadra đã viết lại những lời của Đức Tenpe Nyima như một sự nhắc nhở cho Sonam Palden.

Adam Pearcey chuyển dịch Anh ngữ.

Nguyên tác: A Simple Visualization for the Seven Line Prayer by Dodrupchen Jigme Tenpai Nyima.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

Mọi sai sót là lỗi của người dịch, xin thành tâm sám hối trước Tam Bảo, Tam Gốc.

Mọi công đức có được xin hồi hướng hết thảy hữu tình chúng sinh, nguyện đồng thành Phật đạo.



[1] Dodrupchen Rinpoche Jigme Tenpai Nyima (1865-1926) là vị Dodrupchen thứ 3, một trong những đạo sư Tây Tạng xuất sắc nhất thời đó và là thầy của rất nhiều vị Lama vĩ đại, bao gồm cả Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài được Đức Dalai Lama vô cùng kính trọng, người thường gọi Ngài là “học giả vĩ đại và Yogi xuất chúng”. Các trước tác của Ngài là một trong những nguồn chính yếu mà Đức Dalai Lama sử dụng trong việc nghiên cứu Đại Viên Mãn và Đức Dalai Lama thường rất hay trích dẫn giáo lý của Dodrupchen Rinpoche.

[2] Những đại diện của thân, khẩu và ý giác ngộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 5782)
Sau khi an tọa trên bảo tòa, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dạy rằng, Tám Đại Luận Mật thừa không giành cho tất cả mọi người. “Đây là những Tantra tối thượng và chỉ giới hạn cho những ai phát nguyện thực hành nghiêm cẩn.
15 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 5559)
Ngày nay, thế giới đang tăng trưởng mạnh mẽ về vật chất. Nhưng Tây Tạng vẫn còn trong tình trạng hỗn loạn. Phần lớn chúng ta đang phải sống ở nước ngoài, nhưng chúng ta không chỉ duy trì được đời sống mà vẫn có thể trì giữ truyền thống của mình.
03 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 5177)
Tác giả của bộ luận này là Tôn giả Zhamar Pandita, Gendun Tenzin Gyatso sinh năm 1852, tám tuổi xuất gia, học đạo với nhiều bậc Thầy lỗi lạc. Ở tuổi 20, Ngài tinh thông ngũ minh và được xưng tụng là Đại Pandita. Sau đó vâng lời Thầy, Ngài vân du đó đây giảng pháp. Ngài ẩn cư tu hành.
10 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5756)
Học Bồ tát hạnh, tu Bồ tát đạo là niềm khoắc khoải thiết tha của những Phật tử mong muốn tìm cầu sự an lạc giải thoát cho chính mình, và cho tất cả chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ.
02 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6315)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng. Truyền thống này đóng một vai trò quan trọng trong sự trì giữ và phát triển giai đoạn tân Tantra vào thế kỷ thứ 11.Truyền thống Sakya được trì giữ và hoằng dương rộng lớn, sản sinh nhiều bậc thánh tăng, Thành tựu giả và học giả vĩ đại.
25 Tháng Mười 2015(Xem: 5901)
Theo tư tưởng Mật Tông, trong năm vị Phật thiền, Đức Phật A-di-đà vị trí ở phía tây, bộ chủ bộ Liên hoa, biểu hiện phương tiện trí của Phật, nhân cách của trí diệu quán sát, trong năm đại là nhân cách của gió theo truyền thừa của Bất Không, hay của nước theo truyền thừa của Thiện Vô Úy.
20 Tháng Mười 2015(Xem: 8649)
Karmapa có nghĩa là "bậc thực hành Phật hạnh” hay "hiện thân tất thảy Phật hạnh”. Các đời Karmapa đã tái sinh trong hình tướng Hóa thân tới nay 17 đời, và tất cả đều đóng một sứ mệnh quan trọng nhất trong việc trì giữ và hoằng dương giáo pháp của đức Phật nơi vùng xứ Tuyết.
20 Tháng Mười 2015(Xem: 6844)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo. Một trong những lý do chủ yếu Phật giáo Kim cương thừa phát triển ở miền đất Tuyết chính là người thực hành có tri kiến thanh tịnh đối với bậc Thầy. Kim cương thượng sư là Bậc Thầy trong Phật giáo Kim cương thừa
05 Tháng Mười 2015(Xem: 7312)
Một ngày nọ, khi Milarepa đang ở trong hang động một mình thì hai vị khách tìm đến hỏi han. - Ông ở một mình à? Ông không thấy cô đơn sao? - Tôi luôn luôn sống với một người nào đó, không bao giờ đơn độc. Ngài trả lời. - Nhưng ông sống với ai? Người trẻ tuổi hơn trong hai người hỏi ngài.