15 Ngài Khải Hoàn

28 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13269)

ĐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH
Võ Đình Cường
(In lần thứ ba, năm 2000 TP. Hồ Chí Minh)

NGÀY KHẢI HOÀN

Từ đây, con đường về của Ngài Huyền Trang như có trải nhung lụa. Mỗi đoạn đường là có người đón tiếp hoan nghênh, phục dịch. Qua rồi những cảnh tượng hãi hùng của biển cát mênh mông, của đèo cao hố hiểm, của mưa tuyết gió băng, của sông sâu sóng cả! Qua rồi những ngày dài đói khát, những đêm đen lạnh lùng, những thú dữ rừng thiêng, những cướp rừng cướp biển!

Đến Đôn Hoàng, Ngài dừng lại nghỉ ngơi một thời gian và dâng thêm một tờ biểu nữa để báo tin mình sắp về Tràng An. Bấy giờ vua Đường Thái Tông (không có mặt ở Tràng An, mà là ở thành Lạc Dương) tiếp tờ biểu, biết Ngài Huyền Trang sắp về tới, liền sai quan Hữu Bộc Xạ là Phòng Huyền Linh, Hữu Vệ Hầu, Đại tướng quân là Hầu Thực, quan Tư mã Ung châu là Lý Thúc Thận và Huyện lệnh Tràng An là Lý Kiều Hựu sửa soạn nghênh tiếp Ngài.

Tin Ngài Huyền Trang ở Ấn Độ trở về lan khắp Trung Quốc một cách mau chóng. Khi Ngài ra đi, tin tức được giữ kín bao nhiêu, thì ngày nay, khi Ngài về, tin tức lại loan truyền rộng rãi bấy nhiêu. Dân chúng vừa ngạc nhiên, vừa khâm phục, vừa hiếu kỳ trước một cuộc đi vô cùng mạo hiểm mà họ chưa bao giờ tưởng tượng được, nên đã tề tựu về Trang An, đổ xô ra các ngõ đường để được chiêm ngưỡng dung nhan của một bậc vĩ nhân đã làm vẻ vang cho nước nhà và cho nền Đạo Pháp. Tràng An hôm ấy được trang hoàng như một ngày đại hội hiếm có. Dân chúng đứng đông đặc ở các đường phố, làm nghẹn tất cả lối đi, đến nỗi khi Ngài Huyền Trang xuống thuyền sang sông rồi, không làm thể nào để lên bờ vào thành được. Đêm ấy, Ngài nghỉ lại ở trên sông. Sáng hôm sau, rút kinh nghiệm ở hôm trước, cuộc tiếp rước Ngài đã được tổ chức một cách vô cùng rực rỡ và chu đáo.

Tất cả các vị Tăng, Ni các chùa ở Tràng An đều tề tựu đông đảo tại đường phố Chu Tước để rước Ngài về chùa Hồng Phúc. Mọi người đều nô nức mang theo nào hương án, tàng lọng, tràng phan, bảo cái, hương hoa. Đám rước diễn hành từ đầu đường Chu Tước cho đến chùa Hồng Phúc, kéo dài trên mấy dặm đường. Các vị Tăng, Ni đều mặc lễ phục, vừa đi vừa tán tụng, theo điệu nhạc thiền. Những kinh điển, Phật tượng, xe dù, hoa phan và các sản vật đem từ Ấn Độ về được sắp đặt rải rác trong đám rước để dân chúng được chiêm ngưỡng tận mắt.

Hai bên đường, các nhân sĩ, quan khách và dân chúng đứng chật ních, nhìn đám rước đi qua với một dáng điệu vô cùng cảm phục. Người và xe ngựa nhiều quá đến nỗi các người có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, để tránh những tai nạn xảy ra, bắt buộc ai đứng chỗ nào thì ở yên chỗ ấy mà đốt hương trầm hay tung hoa, chứ không được đi theo, đám rước chỉ dành riêng cho giới Tăng ni.

Có lẽ đây là lần đầu tiên, Tràng An được thấy một cuộc đón tiếp trang nghiêm và đồ sộ như thế.

Hôm ấy là ngày 24 tháng Giêng năm 645 (Năm Trinh Quán thứ 19 đời Đường). Sau 17 năm xa cách, dưới quyền thống trị của vị vua anh dũng và sáng suốt Đường Thái Tông, Tràng An đối với Ngài chắc có nhiều sự thay đổi; nhưng Ngài, đối với Tràng An sau một cuộc viễn du vĩ đại, lại còn có nhiều sự thay đổi hơn: về thể chất Ngài đã là một ông già 50 tuổi, nhưng về tinh thần, Ngài đã thu nhập được bao nhiêu kinh nghiệm về đủ mọi địa hạt, bao nhiêu tinh ba của nhân loại, bao nhiêu suối sáng của Aùnh Đạo Vàng.

Về Tràng An được mấy hôm, nghe tin Đường Thái Tông sắp đi đánh Liêu Đông, Ngài Huyền Trang lật đật lên đường đến Lạc Dương, kinh đô thứ hai của vua Đường, để kịp yết kiến Đường Thái Tông.

Đây là lần thứ nhất, Ngài Huyền Trang được yết kiến Đường Thái Tông. Mặc dù mới gặp nhau lần đầu, câu chuyện giữa một vị cao tăng đại đức với một vị anh hùng cái thế, xem chừng đã tương đắc. Sau khi đón tiếp và ủy lạo rất hậu Ngài Huyền Trang, Đường Thái Tông mới gợi đến chuyện xưa:

–Khi Pháp sư ra đi, sao không báo cho Trẫm biết?

Ngài kính cẩn trả lời:

–Trước khi Huyền Trang ra đi, đã hai ba lần tâu xin, chỉ vì lòng thành nhỏ mọn không đạt tới, nên không được chuẩn y. song với lòng mộ đạo khôn xiết, mới tự lẻn đi, cái tội tự chuyện ấy, bần tăng rất lấy làm sợ hãi".

–Không, Trẫm đâu có trách. Nhà sư đã bỏ tục mà xuất gia, thế mà còn liều mình đi cầu Pháp để mong làm lợi dân sinh, thì thật đáng khen. Trẫm rất lấy làm ngạc nhiên là non sông cách trở, xa xôi như thế kia, mỗi phương phong tục mỗi khác, thế mà sao nhà sư lại đạt tới được cả?"

Trước lời ngợi khen ấy, Ngài Huyền Trang đã đáp lễ bằng một câu rất khéo:

–Từ ngày Bệ hạ lên ngôi cửu ngũ, bốn phương được phẳng lặng, oai đức của Bệ hạ lan xa đến bên kia Thống Lĩnh. Vua tôi các rợ chư hầu mỗi khi thấy một con hồng nhạn cưỡi mây bay từ phương Đông lại, cũng thành kính đón chào. Huyền Trang được đi về vô sự, cũng nhờ ở cả thiên uy". [Ý nói: uy danh của vua Thái Tông]

Vua đáp một cách khiêm tốn:

–Lời bậc trưởng thượng nói như vậy, Trẫm đâu dám nhận.

Vua lại hỏi tình hình ở ngoài cõi Tây vức , từ Tuyết Lĩnh trở về phía Tây cho đến các xứ Ấn Độ.

Ngài Huyền Trang tâu gởi một cách thông suốt, rõ ràng, như vẽ ra trước mắt vị vua thông minh và hiếu học ấy. Đường Thái Tông rất lấy làm vừa ý đẹp lòng trước sự uyên bác, lịch thiệp của Pháp sư nên khuyên Ngài hoàn tục để ra tham chính giúp vua. Ngài Huyền Trang một mực từ tạ với những lý lẽ rất xác đáng.

–Huyền Trang này, từ nhỏ đã theo dòng Chi Môn, học về Phật đạo, chuyên tập Huyền Môn, chưa từng nghe Khổng giáo. Nay Bệ hạ bắt hoàn tục thì chẳng khác gì con thuyền đang thuận dòng, mà bắt phải bỏ nước lên cạn, chẳng những là vô ích mà còn thêm hủ bại mà thôi. Xin Bệ hạ cho Huyền Trang này được toại nguyện suốt đời hành đạo để báo quốc ân.

Biết không thể lay chuyển được một người đã có dư can đảm và nghị lực để làm theo ý nguyện tìm đạo của mình, vua không nài ép Ngài hoàn tục nữa, nhưng lại đề nghị một chuyện khác: Đường Thái Tông sắp đi chinh phạt Liêu Đông, muốn mời Ngài Huyền Trang đi theo để sớm hôm trò chuyện.

Trước lời mời này, Ngài cũng đã từ chối một cách khéo léo, mà còn ngụ ý không tán thành sự chinh chiến của nhà vua:

–Bệ hạ đi Đông chinh đã có đại quân hộ vệ, đánh dẹp loạn quân trừ kẻ tặc thần, thế nào cũng có cái công chiến thắng như trận Mục Dã, cái tin báo tiếp như trận Côn Dương. Huyền Trang tự lượng thực không thể hỗ trợ cho công việc trận mạc được, chỉ thêm thẹn là làm tổn thêm tiền lộ phí mà thôi. Vả lại việc binh nhung, chiến đấu, luật nhà chùa cấm không được dự, không được xem. Đức Phật tổ đã có lời dạy cấm sát. Vậy cúi xin thánh thượng mở lòng thương xót miễn cho".

Một lần nữa, Đường Thái Tông, một vị đế vương uy quyền lẫm liệt, chưa từng bị ai làm trái ý, đã hoan hỷ nhượng bộ Ngài Huyền Trang, và để Ngài trở về Tràng An lo việc phiên dịch 657 bộ kinh điển mới đem từ Ấn Độ về.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Sáu 2015(Xem: 7317)
Đây là bài nhận định tổng hợp của giáo sư Heinz Bechert, tóm tắt 21 bài viết đăng trong tuyển tập When Did the Buddha Live? được chính giáo sư làm tổng biên tập. Bài tóm tắt vô cùng công phu này đã đặt lại các vấn đề biên niên sử Tích Lan, Ấn Độ và các nước Phật giáo có liên hệ về cách tính niên đại của đức Phật.
07 Tháng Sáu 2015(Xem: 7157)
Mặc dù đã 2500 năm trôi qua, nhờ có Đức Phật, chúng ta đã hưởng được nhiều phước lợi qua sự cao cả, cùng sự vĩ đại của ngài về lòng từ bi, sự trí tuệ, và lòng trong sạch. Chúng ta còn đợi chờ thêm điều gì nữa?
01 Tháng Sáu 2015(Xem: 6787)
Bất cứ một tư tưởng triết học nào cũng đều chịu ảnh hưởng của bối cảnh xã hội, của nền văn hoá và của những tư tưởng triết học khác. Từ đó, tư tưởng của một triết gia có khi chịu ảnh hưởng của những người đi trước hoặc đương thời mà phát triển và quảng diễn thêm, nhưng cũng có khi phản kháng lại, hoặc phê bình để đi đến chỗ toàn thiện, hoặc để bênh vực cho tư tưởng của mình.
26 Tháng Năm 2015(Xem: 5432)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia. Mỗi cá nhân trong tập thể đó không thể tự sống riêng mà cũng không thể có tự do hoàn toàn để muốn làm gì thì làm. Cá nhân trong tập thể phải tuân theo một số qui luật mà tập thể đưa ra để lấy nó làm tiêu chuẩn hướng dẩn đời sống của mình, và chính những tiêu chuẩn sống này sẽ giúp cá nhân hòa hợp được giữa cá nhân mình với người khác sống trong cùng một xã hội.
22 Tháng Năm 2015(Xem: 8317)
Có nhiều bằng chứng cho thấy Phật giáo được du nhập một cách hài hoà vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai ngả giao thương với các nhà buôn Ấn Độ bằng đường thủy và giao lưu văn hoá với Trung Hoa bằng đường bộ.
01 Tháng Giêng 2015(Xem: 6804)
Sự khởi nguyên của Phật giáo Đại Thừa (Mahāyāna Buddhism) bị bao phủ trong bức màng quá khứ xa xôi, mãi ẩn khuất trong những tài liệu khảo cổ và những áng văn chương đã bị thất lạc. Nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo vẫn duy trì quan điểm rằng Phật giáo Đại Thừa bắt nguồn từ Đại Chúng Bộ (Mahāsāṁghika School).
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14416)
Biểu đồ I.1: Thiền tông Ấn Độ Biểu đồ I.2: Thiền Ấn Độ Đến Trung Quốc Biểu đồ I.3: Thiền Trung Quốc – Huệ Năng và Môn Đệ Biểu đồ II.1: Dòng Mã Tổ Biểu đồ II.2: Dòng Mã Tổ Biểu đồ III.1: Tông Tào Động Biểu đồ IV.1: Tông Lâm Tế Biểu đồ IV.3: Dòng Lâm Tế – Viên Ngộ Biểu đồ V: Tông Vân Môn & Pháp Nhãn