Vi. Tạp Sự

19 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 10193)

Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
LUẬT HỌC TINH YẾU

Hồ Thượng Thích Phước Sơn
Nhà xuất bản Phương Đơng 2006 – PL 2550

Chương 2
CÁC PHÁP YẾT-MA

VI. TẠP SỰ

1. Y Ca-thi-na

1.1. Nguyên nhân Phật chế Y Ca-thi-na.

Sau 3 tháng An cư, một số Tỳ-kheo từ các nơi về Xá vệ thăm viếng đức Thế Tơn. Trên đường đi, họ gặp phải những cơn mưa dầm, đường sá lầy lội, ba y bị ướt sũng, nên khi đến nơi, tất cả đều ẩm ướt và mệt mỏi. Sau khi trao đổi những lời thăm hỏi, đức Phật biết rõ tình cảnh vất vả của họ, Ngài bèn chế định, từ nay trở đi các Tỳ-kheọ được phép thọ y Ca-thi-na sau ngày Tự tứ. Các bộ luật đều nhất trí điểm này, riêng luật Ngũ phần cịn nĩi rõ trường hợp Trưởng lão A-na-luật, vì tuổi già sức yếu, mang ba y đi đường xa, gặp trời mưa ướt nên càng mệt nhọc, do đĩ mà Phật cho phép các Tỳ-kheo được thọ y Ca-thi-na. Vì thọ y Ca-thi-na sẽ hưởng được một số quyền lợi đặc biệt.

1.2. Định nghĩa Y Ca-thi-na.

Ca-thi-na hay Ca-hi-na là phiên âm từ chữ Phạn Kathina, dịch nghĩa Cơng đức y hay Thưởng thiện y, tức chiếc y chứa nhiều cơng đức, chiếc y tưởng thưởng những việc thiện. Ýù nĩi trải qua ba tháng An cư, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đã nỗ lực tu học, gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp, nên xứng đáng được tưởng thưởng một số quyền lợi nhất định. Về hình thức, luật cho phép dùng y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng hay An-đà-hội để làm y Ca-thi-na đều được cả.

1.3. Lợi ích của Y Ca-thi-na

Trong thời gian thọ trì y Ca-thi-na, các Tỳ-kheo được hưởng năm quyền lợi như sau:

1- Súc trường y: được cất giữ vải, y dư, quá 10 ngày mà khơng phạm tội.

2- Ly y túc: được rời y ngủ một chỗ khác (ngày thường Phật chế Tỳ-kheo phải đem theo ba y và bát bên mình như chim cĩ đơi cánh, khơng được lìa y ngủ một nơi khác).

3- Biệt chúng thực: được ăn riêng chúng (bình thường Phật khơng cho phép các Tỳ-kheo từ bốn người trở lên tách ra khỏi chúng, đi khất thực về ăn riêng).

4- Triển chuyển thực: được phép thọ trai nhiều lần, tại nhiều chỗ trước giờ ngọ.

5- Trước hoặc sau bữa ăn tách riêng đi vào xĩm mà khơng cần báo cho các Tỳ-kheo khác biết. (từ lúc bình minh đến khi ăn là trước bữa ăn, từ khi ăn xong đến bình minh hơm sau là sau bữa ăn. Phật chế định trước giờ ăn các Tỳ-kheo khơng được đi vào làng mà khơng báo cho những người khác biết).

1.4. Thời gian hiệu lực của Y Ca-thi-na.

a. Thời gian tác pháp Yết-ma để thọ trì:

Thời gian này kể từ 16 tháng 7 âm lịch đến 15 tháng 8 âm lịch. Nếu y định làm Ca-thi-na đã cĩ sẵn, chúng Tăng nên tác pháp thọ trì ngay trong ngày 16 tháng 7. Nếu chưa cĩ, Tăng chúng cĩ thể chờ đợi thí chủ cúng dường cho đến hạn chĩt 15 tháng 8. Trong khoảng thời gian này, ngày nào nhận được y thì tác pháp thọ trì vào ngày ấy.

b. Thời gian hiệu lực của y:

Theo luật Tứ phần hiệu lực của y Ca-thi-na kể từ ngày 16 tháng 7 đến 15 tháng 12 âm lịch, tức thời gian năm tháng. Nhưng theo luật Ngũ phần, hiệu lực ấy chỉ cĩ 4 tháng, tức đến 15 tháng 11 âm lịch là hạn chĩt.

c. Thời gian may y.

Nếu khơng cĩ y mà cĩ vải định làm y Ca-hi-na thì vải ấy phải may xong và thọ trì trong một ngày. Nếu một người may khơng kịp thì Tăng sai nhiều người hợp sức cùng may.

Ở đây cũng cần nĩi thêm, luật định mỗi năm vào tháng Ca-đề tức từ 16/7 âl đến 15/8 âl, các Tỳ-kheo được quyền sắm thêm y mà khơng phạïm luật. Nhưng, nếu cĩ thọ trì y Ca-thi-na thì thời gian pháp định này kéo dài đến năm tháng, tức từ 16/7 đến 15/12 âl. Ngồi thời gian ấy, Tỳ-kheo cĩ đủ 3 y khơng được sắm thêm y khác, nếu thí chủ cĩ cúng dường y mới thì trong vịng 10 ngày phải đem tịnh thí (đem cho người khác tượng trưng, tức hợp thức hố quyền sở hữu của mình).

1.5. Người giữ y Ca-thi-na cần cĩ 5 đức tính.

Về giá trị tinh thần của y thì mọi Tỳ-kheo đều được quyền bình đẳng hưởng thụ như nhau, nhưng việc bảo quản chỉ giao cho một Tỳ-kheo cĩ đủ 5 đức tính như sau:

1- Khơng thiên vị (khơng yêu riêng ai)

2- Khơng giận dữ.

3- Khơng si mê.

4- Khơng sợ hãi.

5- Biết thể thức thọ Ca-thi-na.

Năm đức tính này tương tự như năm đức tính của người thọ Tự tứ, chỉ hơi khác ở điểm thứ năm là người thọ Tự tứ thì biết ai Tự tứ rồi, ai chưa Tự tứ.

Sau khi Tăng Yết-ma sai một Tỳ-kheo cĩ năm đức tính kể trên giữ y cơng đức, vị này cĩ bổn phận đem y cất ở một chỗ cao ráo, rắc hoa lên trên cúng dường và bảo quản cẩn thận cho đến 15/12. Đến ngày cuối, hoặc Tăng tác pháp tuyên bố chấm dứt hiệu lực của y, hoặc khơng tác pháp tuyên bố thì đương nhiên y cũng hết hiệu lực. Theo tinh thần chung của các bộ luật thì sau khi y hết hiệu lực, thầy Tỳ-kheo lâu nay cĩ trách nhiệm bảo quản mặc nhiên được sử dụng y ấy. Nhưng, theo luật Thiện Kiến, sau khi y hết hiệu lực, Tăng sẽ đem cho Tỳ-kheo nào mặc y rách. Nếu nhiều Tỳ-kheo mặc y rách thì cho Tỳ-kheo già nhất. Nếu khơng cĩ người già thì cho người nhiều tuổi hạ chứ khơng được cho người thiếu phẩm chất.

1.6. Những người khơng được hưởng quyền lợi của y Ca-thi-na.

a. Năm trường hợp theo luật Thập tụng:

1- Người khơng cĩ tuổi hạ (vì khi nhập hạ, vị ấy là Sa-di, đến giữa mùa hạ mới thọ giới Cụ túc, nên chưa đủ tuổi hạ).

2- Người phá An cư (An cư khơng đúng quy định).

3- Người hậu An cư (theo truyền thống Bắc truyền thọ An cư từ ngày 17/4 đến 16/5 Âl là hậu an cư. Theo truyền thống Nam tơng thọ An cư từ ngày 17/6 đến 16/7 Âl là hậu An cư).

4- Người bị tẫn (vì phạm giới luật nên Tăng Yết-ma kết tội. Tẫn cĩ ba thứ: 1. Diệt tẫn: vĩnh viễn cho ra khỏi Tăng đồn; 2. Khu tẫn: mời ra khỏi Tăng đồn một khoảng thời gian nhất định; 3. Mặc tẫn: Tăng chúng khơng giao thiệp với người phạm tội).

5- Người biệt trú (do phạm giới; chư Tăng cho ở riêng tại một chỗ).

b. Mười một trường hợp theo Hành Sự Sao Tư Trì Ký (Đ.40, tr. 252a):

 1-Người vắng mặt lúc Yết-ma thọ trì y Ca-thi-na.

2- Người cĩ nạn, tức bị chính quyền hay giặc bắt đi.

3- Người khơng cĩ đại y, tức khơng cĩ y Tăng-già-lê.

4- Người thuộc trú xứ khác.

5- Người trung và hậu an cư.

6- Ngườiù phá hạ (phá An cư).

7- Người khơng đồng kiết giới, tức Tỳ-kheo thuộc trú xứ khác cùng sinh hoạt thuyết giới chung mà khơng cùng chia sẻ quyền lợi, nên khơng được hưởng các quyền lợi về y vật.

8- Người phạm tội Tăng tàn.

9- Người đang hành biệt trú.

10- Người học hối, tức Tỳ-kheo phạm Ba-la-di (tội nặng) mà thành thật phát lồ, khẩn thiết xin được tiếp tục tu học thì Tăng khơng diệt tẫn mà cho thọ trì 35 pháp để sám hối suốt đời.

11- Người bị tẫn.

Tĩm lại, Luật Tứ Phần và Thập Tụng khơng chấp nhận người hậu An cư hưởng quyền lợi của y Ca-thi-na, nhưng luật Ma-ha-tăng-kỳ thì chấp nhận việc này. Luật này nĩi: Nếu cả chúng đều hậu An cư, thì đến ngày 16 tháng 8 vẫn được thọ y cơng đức, nhưng thời bạn chĩt hết hiệu lực cũng vẫn là 15 tháng 12.

1.7. Y Ca-thi-na mất hiệu lực trong các trường hợp.

a. Chín trường hợp theo luật Nam tơng:

(Gồm chung cả trường hợp y hết hiệu lực và trường hợp người khơng được hưởng quyền lợi của y):

 1- Cho người khác.

 2- Bị trộm cướp lấy mất

 3- Bạn thân lấy đi.

 4- Bị thối hĩa, phạm giới tội.

 5- Hồn tục.

 6- Viên tịch.

 7- Biến đổi giới tính.

8- Hịa hợp cùng xả (Yết-ma tuyên bố chấm dứt hiệu lực của y)

 9- Bị hư rách.

 b. Tám trường hợp theo luật Ngũ phần (Đ:22, tr. 153c):

 1- Thời cánh: thời gian hiệu lực của y chấm dứt, tức 15/11 âl.

2- Thất y: y bị mất.

3- Văn thất: khi ra ngồi đại giới mà nghe tin y đã bị mất.

4- Viễn khứ: rời khỏi cương giới di chuyển đến 1 nơi khác.

5- Vọng đoạn: rời khỏi cương giới tìm y, nhưng đến đĩ khơng cĩ y.

6- Y xuất giới: vì 1 lý do nào đĩ mà phải đem y ra ngồi cương giới.

7- Nhân xuất giới: đang ở ngồi cương giới mà hay tin Tăng đã tuyên bố chấm dứt hiệu lực của y.

8- Bạch nhị Yết-ma xả: Tăng tác Yết-ma tuyên bố chấm dứt hiệu lực của y.

1.8. Trường hợp khơng biết cách thọ y Ca-thi-na.

Nếu tại 1 trú xứ cĩ từ 5 Tỳ-kheo trở lên mà khơng một ai biết tác pháp thọ y cơng đức thì các Tỳ-kheo này cĩ thể đi đến một trú xứ khác thỉnh một Tỳ-kheo thơng luật về tác pháp Yết-ma để thọ trì. Vị Tỳ-kheo khách này tuy được quyền tác pháp Yết-ma, nhưng khơng cĩ quyền hưởng lợi ích của y cơng đức ấy. Quyền lợi này hồn tồn thuộc về các Tỳ-kheo tại trú xứ đĩ mà thơi.

Tĩm lại, trên đây đã trình bày về nguyên nhân, ý nghĩa, giá trị hiệu lực... và những gì liên quan đến y Ca-thi-na theo cả hai truyền thống Bắc và Nam tơng. Nhưng ngày nay Nam tơng vẫn cịn giữ được truyền thống thọ trì y Ca-thi-na này một cách tốt đẹp, mà Bắc phương thì hầu như rất ít để ý đến, hoặc đã thất truyền từ lâu. (theo Pháp sư Thánh Nghiêm).

Ghi chú: Các chi tiết và thể thức thọ trì y Ca-thi-na xin xem Yết-ma Yếu Chỉ.

2. Phân vật

2.1. Phân loại Tăng vật.

Những vật sở hữu của Tăng chúng nĩi chung, thơng thường chia làm bốn loại:

1/ Thường trú thường trú: vật thường trú của Tăng chúng thường trú, tức là bất động sản của Tăng chúng thường trú (hay Tăng chúng tại trú xứ).

2/ Thập phương thường trú: vật thường trú của Tăng chúng thập phương (hay bốn phương), tức là bất động sản của Tăng chúng thập phương.

3/ Hiện tiền hiện tiền: vật hiện tiền của Tăng chúng hiện tiền, tức là động sản của Tăng chúng hiện tiền.

4/ Thập phương hiện tiền: vật hiện tiền của Tăng chúng thập phương, tức là động sản của Tăng chúng thập phương.

Bất động sản là những tài sản cố định, hoặc khơng thuận tiện di chuyển đi nơi khác. Động sản là những vật nhẹ cĩ thể đem đi nơi khác dễ dàng, tức là những vật thường dùng hằng ngày của chư Tăng.

Trên đây là vật sở hữu của Tăng chúng nĩi chung, cịn vật sở hữu của Tăng chúng thập phương thì đại khái luật chia làm năm loại: 1. Ruộng đất; 2. Phịng ốc; 3. Vật thiết dụng; 4. Cây cối; 5. Hoa quả.

2.2. Nguồn gốc của Tăng vật.

Những tài sản của Tăng chúng sở hữu là do hai nguồn gốc:

1/ Vật do 7 chúng cúng dường.

Bảy chúng tức là chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Tùy theo nguyện vọng của người cúng dường mà xử lý như sau:

(l) Nếu họ cúng dường cho Tam bảo động sản hay bất động sản thì tài sản ấy chia làm ba phần, Tăng được một phần.

(2). Nếu họ cúng dường cho hai bộ Tăng (Tăng bộ và Ni bộ), thì tài sản ấy chia là hai phần, khơng kể nhân số (ví dụ Tăng chúng cĩ 50 người, Ni chúng chỉ cĩ 1 Sa-di-ni thì cũng chia làm 2 phần bằng nhau, Ni chúng nhận một phần. Hoặc trái lại cũng thế).

(3). Nếu họ cúng dường cho Tăng chúng thập phương, thì tài sản ấy thuộc Tăng chúng thập phương.

(4). Nếu họ cúng dường cho Tăng chúng hiện tiền, thì tài sản ấy thuộc Tăng chúng hiện tiền.

(5). Nếu họ cúng dường cho từng cá nhân, thì tài sản ấy thuộc về cá nhân.

Các vật được cúng dường cho Tăng, Tăng phải đem chia đều cho các Tỳ-kheo. Người đang bị Tăng tác Yêát-ma trị phạt vẫn được hưởng một phần. Phần này nên để dưới đất, họ tự đến lấy hoặc sai tịnh nhân đem cho. Nếu Tăng hịa hợp thì cĩ thể chia đều cho cả Sa-di và tịnh nhân; hoặc cho Sa-di ½, tịnh nhân 1/3 hay ¼. Trái lại, nếu Tăng khơng đồng ý thì khơng được cho. (Quan điểm của các bộ Luật khơng nhất trí trong vấn đề này; đo đĩ, cĩ thể tùy nghi xử lý).

2/ Vật do năm chúng xuất gia qua đời để lại.

Cách xử lý như sau:

(l) Nếu người qua đời là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thì tài sản để lại do Tăng chúng xử lý.

(2) Nếu người qua đời là Sa-di, Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na thì tài sản để lại do bổn sư xử lý. Trường hợp khơng cĩ bổn sư thì Tăng chúng xử lý.

(3). Nếu người qua đời là người mà Tăng đã Yết-ma diệt tẫn (cho ra khỏi Tăng đồn), thì tài sản để lại thuộc về thân quyến, khơng thuộc của Tăng.

­ THỂ THỨC PHÂN CHIA.

Những tài sản của người quá cố để lại trước khi Tăng đem phân chia nên trích một ít cho những người được ưu tiên sau đây:

(1)- Người nuơi bệnh: (Nếu người nuơi bệnh cĩ 5 đức tính sau đây: 1. Cho bệnh nhân ăn uống đúng lúc; 2. Chùi rửa, dọn dẹp những vật bất tịnh của người bệnh một cách vui vẻ; 3. Nuơi bệnh vì tình thương, khơng cĩ ý vụ lợi; 4. Biết phương pháp chăm sĩc để bệnh nhân chĩng khỏi; 5. Cĩ thể thuyết pháp làm cho bệnh nhân sinh tâm hoan hỷ).

(2)- Bổn sư (Thầy của người quá cố).

(3)- Người đầu tiên phát giác người chết. (trong trường hợp người chết đột ngột, hoặc ở nơi khơng người, nếu hai người cùng thấy một lúc thì mặt người chết quay về phía người nào, người ấy sẽ được ưu tiên).

(4)- Người thiếu những vật dụng tương tự như vật dụng mà người chết để lại.

Sau khi tưởng thưởng cho những người được quyền ưu tiên, các vật cịn lại sẽ đem chia đều cho chúng Tăng. Nếu khách Tăng từ nơi khác đến gặp lúc đang Yết-ma phân vật vẫn được hưởng một phần, nhưng đến sau lúc Yết-ma thì khơng cĩ.

Ngồi ra, cịn nhiều quan điểm khác cũng cần lưu ý:

(l). Người chết tại trú xứ A mà tài sản để trú xứ B, ký thác cho một Tỳ-kheo ở trú xứ C, thì tài sản ấy thuộc quyền sở hữu của Tăng trú xứ C.

(2). Nếu người chết di chúc rằng thầy đã cho ai mượn vật gì đĩ, thì Tăng phải địi về, hoặc là thầy đã mắc nợ ai, thì phải bán những di vật của thầy để trả nợ. Nếu lúc sinh tiền thầy đã hứa cho ai vật gì thì nên đem vật ấy cho họ. Nhưng nếu thầy di chúc rằng: “Sau khi tơi chết, đem vật này cho người này, vật nọ cho người kia...”, thì lời di chúc ấy xem như khơng cĩ giá trị, Tăng được trọn quyền xử lý các tài sản ấy.

Một số chi tiết trong các vấn đề trên đây cĩ lẽ ngày nay khơng cịn thích hợp nữa, do đĩ, khi thực hiện cần uyển chuyển áp dụng cho phù hợp với thực tế và những phong tục của từng địa phương.

Ghi chú: Các chi tiết và thể thức thực hiện sự phân vật, xin xem Yết-ma Yếu Chỉ.



 - Nếu tiền An cư được thọ y Ca-thi-na từ ngày 16/7 ® 15/11 thì xả.

 - Nếu hậu An cư thì thọ y Ca-thi-na ngày 16/8 và xả 15/12 (Luật ngũ phần. Đ.22, tr. 153c)

 _Luật Ngũ phần cũng chấp nhận người hậu An cư được hưởng công đức của y Ca-thi-na, nhưng chỉ có 4 tháng. (Đ.22, tr.153c)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Ba 2016(Xem: 6592)
Trong bảy chúng, Tỳ kheo là bậc nhất. Trong ba tụ giới, Cụ Túc là đứng đầu. Người học Phật lấy giới luật làm nền tảng căn bản, là thềm thang đầu tiên để hướng chí đến quả vị giải thoát. Nếu không nghiêm trì Tịnh giới cho chuyên cẩn, thì cũng giống như đứng ở ngoài cửa mà chưa bước vào trong nhà Phật pháp. Giới luật không chỉ ngăn ngừa các điều ác chưa phát sanh, mà còn làm tăng trưởng thiện căn nơi hành giả. Vì thế, Tuyển Phật Trường là nơi chọn ra được những vị Sa di có bình cam lồ thật sạch để ngày mai đây tiếp nhận dòng nước giới pháp mà giới sư truyền trao.
08 Tháng Giêng 2016(Xem: 7223)
Từng nghe sanh tử là việc lớn, vô thường lại chóng mau, thật không đợi chờ người. Nếu không quyết tâm ngay đời này giải thoát thì làm sao thắng nỏi con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi niệm và giải quyết cho xong việc lớn sanh tử?
30 Tháng Bảy 2015(Xem: 11435)
Chúng ta đang thảo luận về tâm giác ngộ và một vị Bồ tát có nghĩa là gì, và chúng ta đã thấy rằng chỗ nào để thọ giới Bồ tát có trong sự tiến bộ của việc phát triển tâm giác ngộ, và những giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ.
29 Tháng Bảy 2015(Xem: 6503)
Giới tử phải thọ luật nghi Cận trú từ người khác chứ không thể tự thọ. Nếu sau này gặp phải các duyên khiến cho giới tử phạm phải việc ác (phạm giới duyên) thì nhờ sinh tâm hổ thẹn đối với thầy truyền giới mà có thể sẽ không phạm các giới đã thọ. Nếu không làm đúng theo các điều trên đây thì người thọ giới có thể có được hành động tốt (diệu hạnh) nhưng không thể đắc giới. Nếu làm đúng theo các điều trên thì luật nghi Cận trú sẽ có tác dụng rất lợi ích ngay cả đối với những người phạm phải ác giới thuộc về một ngày một đêm (như giết hại, trộm cắp, v.v.)[
20 Tháng Bảy 2015(Xem: 6632)
“Loại luật nghi này có tên là Cận trú (upavāsa) bởi vì, nhờ biểu hiện được lối sống phù hợp với lối sống của các A-la-hán (tadanuśikṣaṇāt), cho nên luật nghi này được đặt gần (upa) với A-la-hán. Có ý kiến khác cho rằng sở dĩ có tên Cận trú là vì nằm gần với loại luật nghi thọ trì suốt đời...... .
04 Tháng Bảy 2015(Xem: 6494)
Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh: “Nhược nhất thiết chúng sinh sơ nhập tam bảo hải dĩ tín vi bản, trụ tại phật gia dĩ giới vi bản”[1]: Hết thảy chúng sanh khi mới bắt đầu vào biển Tam bảo lấy tín làm gốc; khi sống trong ngôi nhà của Phật, thì lấy giới làm gốc. Học giới khởi sinh từ nơi tư tâm sở hay từ nơi ước muốn và thệ nguyện của một người tha thiết khất cầu pháp học giới để sống đời thanh tịnh....
02 Tháng Bảy 2015(Xem: 10897)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại, mỗi nhóm, liên hệ đến việc rèn luyện của chúng ta trong sáu ba la mật và với việc làm lợi ích cho người khác của chúng ta.
02 Tháng Năm 2015(Xem: 11348)
Giới là một hình thức vi tế không thấy trong sự tương tục tinh thần, là thứ hình thành thái độ. Một cách đặc biệt, nó là một sự kềm chế khỏi "một hành vi lỗi lầm", hoặc là một thứ tiêu cực một cách tự nhiên hay một việc mà Đức Phật ngăn cấm cho những cá nhân đặc thù đang tu tập để đạt đến những mục tiêu đặc biệt.