Chương 11: Quán Bổn Tế

03 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 16129)

LONG THỌ BỒ TÁT Nāgārjuna
TRUNG LUẬN Mādhyamaka-Sāstra

Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt dịch THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003

CHƯƠNG XI: QUÁN BỔN TẾ

Hỏi: Trong kinh “Vô bổn tế” có nói: “Chúng sanh qua lại sanh tử, nhưng không thể tìm thấy bổn tế.” Trong ấy kinh nói có chúng sanh, có sanh tử, vì nhơn duyên gì mà nói lời ấy?

Đáp: 

136)Đức Đại Thánh dạy rằng:

Bổn tế không thể có,

Sanh tử không có đầu,

Cũng lại chẳng có cuối. [1] 

Thánh nhân có ba hạng: 1) Ngoại đạo chứng ngũ thần thông. 2) A-la- hán, Bích-chi Phật. 3) Đại bồ tát được thần thông. Đức Phật đối trong ba hạng ấy là hơn hết, nên nói là Đại Thánh. Những lời Phật dạy không điều nào là không chân thật. Nói “Sanh tử không có khởi đầu” là vì sao? Tìm trước và sau của sanh tử không thể được, thế nên không có đầu. Ông nói trước và sau không có, thì lẽ ra có khoảng giữa. Cũng không đúng. Tại sao?

137)Nếu không có đầu cuối,

Làm gì có trung gian.

Thế nên ở trong đây,

Không vừa trước vừa sau.[1] [2] 

 Nhơn giữa và sau nên có đầu, nhơn đầu và giữa nên có sau. Nếu không đầu, không sau; làm thế nào có giữa? Trong sanh tử, không có đầu, giữa và sau. Thế nên nói trước sau cùng lúc là không thể được.

138)Giả sử trước có sanh,

Rồi sau có lão tử.

Không lão tử có sanh,

Không sanh có lão tử.[2] [3] 

139)Nếu trước có lão tử,

Rồi sau mới có sanh.

Thế là không có nhân;

Không sanh, có lão tử. [4]

Chúng sanh sanh tử; nếu trước sanh ra, dần dần già yếu, rồi sau mới chết. Như thế sự sanh mà không có sự già chết. Theo lẽ sanh phải có già chết, già chết phải có sanh; không già chết mà có sanh là không đúng. Lại nữa, nhân sanh mà có già chết. Nếu già chết có trước, sanh có sau; thì già chết không có nhơn, vì sanh ở sau già chết. Lại, không sanh làm thế nào có già chết? Nếu nói, sanh, già và chết không thể trước sau, nhưng đồng thời tựu thành, thì cũng có lỗi, vì sao?

140)Sanh đối với già chết,

Không thể cùng một lúc.

Vì khi sanh là chết,

Thì cả hai không nhân. [5] 

Nếu sanh, già và chết đồng thời thì không đúng. Tại sao? Vì khi sanh tức là có chết. Theo lẽ khi sanh là hiện hữu, lúc chết là không còn. Nếu khi sanh có chết, điều ấy không đúng. Nếu đồng thời sanh thì không hỗ tương quan hệ. Như cặp sừng con trâu cùng lúc xuất hiện, cho nên không hỗ tương quan hệ.

Thế nên:

142)Giả sử trước sau chung,

Ấy đều là không đúng.

Tại sao mà hí luận,

Nói có sanh, già, chết. [6] 

 

Vì suy nghĩ cả ba trường hợp sanh, lão, tử đều có lỗi; cho nên không sanh, rốt ráo không. Nhưng nay vì sao đắm chấp hí luận, nói quyết định có sanh, lão, tử ?

Lại nữa:

142)Những gì thuộc nhơn quả,

Pháp năng tướng, sở tướng,

Thọ, thọ giả vân vân,

Kể tất cả các pháp. [7] 

143)Chẳng những chỉ sanh tử,

Bổn tế không thể được.

Như thế tất cả pháp,

Thảy đều không bổn tế. [8]

Tất cả pháp là nhân quả, năng tướng sở tướng, thọ và thọ giả v.v… đều không bổn tế, chứ không phải chỉ nói sanh tử không có bổn tế. Bởi vì khai thị tóm tắt, nên chỉ nói sanh tử không bổn tế.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Bản tế là chỉ tánh nguyên thỉ, chân như thật thể bản tánh bất diệt. Các pháp nhân duyên sanh, chúng sanh xưa nay sanh tử, sanh tử triền miên, khoảng đầu không cuối…. Cho nên không thể nói rằng trước do có cái bản tế. Thỉ (đầu) không có, chung (cuối) Không có, thì trung gian cũng không. Không thể nói rằng, giữa cái thỉ và cái chung gọi đó là trung.

[2] Chấp sanh có trước rồi sau có lão tử, hay lão tử có trước rồi sau có sanh, hoặc sanh lão tử đồng thời có đều là vọng chấp. Vì sanh tử không có thể tánh, lấy bản tế làm thể, mà bổn tế, vô thỉ, vô chung, do đó, không thể nói, cái này có trước cái kia có sau… Do vì bất giác vọng động mà có sanh tử vọng tưởng…

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Sáu 2015(Xem: 5484)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ” tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp. Theo đó, dharma là danh từ phái sinh của động từ căn dhṛ: duy trì, gìn giữ. Nếu là thắng nghĩa Pháp, hay Pháp siêu việt, thì Pháp ấy duy chỉ là Niết-bàn. Còn nếu là Pháp tướng Pháp hay Pháp thuộc hiện tượng dùng để chỉ các tính chất của các pháp; trong trường hợp ở đây thì pháp đó chỉ chung cho tất cả bốn Thánh đế.
17 Tháng Sáu 2015(Xem: 6006)
Định và nguyện vô lậu tư trợ nghiệp hữu lậu khiến cho quả thành tựu tiếp nối lâu dài, càng lúc càng phát triển thành vi tế thù thắng. Theo ý nghĩa đó mà nói một cách ước lệ là chiêu cảm. Khi có sự chiêu cảm như vậy, là do sở tri chướng làm duyên trợ lực,...
06 Tháng Sáu 2015(Xem: 9564)
Sự gieo hạt giống, sự tăng trưởng của cây và sự cho quả là ba giai đoạn khác nhau. Trong đạo cũng giống như thế, thân tương tục nhập đạo, trở nên thuần thục và được giải thoát theo một tiến trình tiến lên từ từ: Trong đời sống thứ nhất là gieo trồng các thiện căn có tên giải thoát phần; trong đời sống thứ hai là sinh khởi các quyết trạch phần; và đời sống thứ ba là sinh khởi thánh đạo. Giải thoát phần được thành tựu từ văn và tư chứ không phải định...
15 Tháng Chín 2014(Xem: 8480)
Tiếp theo phần A Tỳ Đàm nơi Tập 26 (ĐTK/ĐCTT, Tập 26, từ N0 1536 đến N0 1544) toàn bộ Tập 27 là nêu dẫn Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma – mahavibhàsà – sàstra). Đây là Bộ Luận đồ sộ nhất hiện có trong Hán tạng. Tác giả của Luận là 500 vị A La Hán. Nói rõ hơn: Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa là một Bộ Luận Thích. 500 vị A La Hán, dưới sự chỉ đạo của Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra),
03 Tháng Chín 2014(Xem: 8986)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộ là bộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ, căn bản và đồ sộ nhất mà nay vẫn còn giữ lại được phần lớn. Cũng như trường hợp của Thượng Toạ Bộ, A Tỳ Đàm Tạng của Hữu Bộ được xem là một đề tài bàn cải lớn giữa các nhà học Phật xưa nay.
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6275)
Như một viên đá trong một công trình hoằng dương Phật Pháp, như một thể hiện khiêm nhường trong tinh thần nối truyền huệ mạng của Chư Phật ba đời, ngưỡng mong công đức phiên dịch bản kinh này hãy là một động lực nâng bước chúng tôi - người dịch - tiến bộ nhanh hơn nửa trên hành trình tìn tới sự chiến thắng chính mình và mong sao, trong một hậu thân xa xôi nào đó đối với chúng tôi - Người dịch - Phật vức sẽ không là một đích điểm bất khả đạt...!
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 13408)
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 14207)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li, vi tế những vận hành, diễn tiến của tâm. Không thực tế vì nó bàn đến những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết bình thường của con người; ở ngoài chuyện áo cơm, tiền bạc, thế sự và thế tình...