Chương 12: Quán Khổ

03 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 16624)

LONG THỌ BỒ TÁT Nāgārjuna
TRUNG LUẬN Mādhyamaka-Sāstra

Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt dịch THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003

CHƯƠNG XII: QUÁN KHỔ

Có thuyết nói rằng:

144)Tự tác và tha tác,

Cộng tác, vô nhân tác.

Nói các khổ như thế,

Khổ quả không phải vậy.[1] [1]

Có người nói, khổ do mình tự tạo, hoặc nói người khác tạo, hoặc nói vừa tự tạo, vừa do người khác tạo, hay nói không do nguyên nhân nào. Xét như là quả,như thế không đúng. Khổ quả không phải vậy, là vì chúng sanh do các duyên đưa đến sự khổ, rồi nhân khổ muốn tìm về tịch diệt. Nhưng không biết nhân duyên đích thật của khổ não, do đó có bốn thứ sai lầm thế nên nói, “Khổ quả không phải vậy.”

Vì sao?

145)Khổ nếu là tự tác,

Thì chẳng từ duyên sanh.

Do vì có ấm này,

Mà có ấm kia sanh. [2]

Khổ, nếu tự tác thì không từ các duyên sanh. Tự, là từ nói tự tánh phát sanh; điều này không đúng. Vì sao? Nhơn năm ấm trước mà có năm ấm sau. Thế nên, khổ không thể tự nó tạo ra nó.

Hỏi: Nếu nói năm ấm này tạo ra năm ấm kia thì nó do cái khác tạo?

Đáp: Điều ấy không đúng, Vì sao?

146)Nếu nói năm ấm này,

Khác với năm ấm kia.

Như thế thì nên nòi,

Từ cái khác tạo khổ. [3]

Nếu năm ấm này dị biệt năm ấm kia, và năm ấm kia dị biệt năm ấm này, thế mới có thể khổ từ cái khác tạo. Như chỉ sợi và vải khác nhau thì sẽ lìa chỉ mà có vải. Nếu lìa chỉ, không có vải, thì vải không khác với chỉ. Cũng thế, năm ấm kia khác với năm ấm này, thế thì có thể lìa năm ấm này có năm ấm kia. Nếu lìa năm ấm này mà không có năm ấm kia; thế thì, năm ấm này không khác năm ấm kia. Thế nên không thể nói khổ từ cái khác tạo.

Hỏi: Tự tác nghĩa là mỗi con người tự tạo cái khổ cho mình và tự mình thọ khổ.

Đáp: 

147)Nếu người tự tạo khổ;

Lìa khổ đâu có người,

Mà nói do người kia,

Có thể tự tạo khổ. [4] 

Nếu nói con người tự tạo khổ, thì lìa cái khổ của năm ấm ra, đâu có con người riêng biệt để có thể tự tạo khổ? Phải nói rằng, chính con người đó, còn không thể nói. Thế nên, khổ không phải con người tự tạo. Nếu nói con người không tự tạo khổ, nhưng người khác tạo khổ rồi mang đến cho người này, cũng không đúng. Vì sao?

148)Nếu khổ người khác tạo,

Rồi mang cho người này.

Nhưng nếu lìa cái khổ,

Đâu có người này thọ. [5]

Nếu người khác tạo khổ rồi mang đến cho người này; thì lìa năm ấm, không có con người thọ này.

Lại nữa:

149)Nếu khổ người kia tạo,

Mang đến cho người này.

Lìa khổ nào có người,

Mà trao cho người này? [6]

Nếu bảo người kia tạo khổ rồi trao cho người nà thì lìa sự khổ của năm ấm ra đâu có con người kia tạo khổ mang đến cho con người này. Nếu có, thì phải nêu rõ tướng trạng của nó.

Lại nữa:

150)Khổ tự tạo không thành,

Làm sao kia tạo khổ.

Nếu người kia tạo khổ,

Tức cũng gọi tự tạo. [7]

Bằng mọi nhân duyên để xét, thì con người kia tự tạo khổ bất thành, mà nói rằng do người khác tạo khổ, cũng không đúng. Tại sao? Vì đây và kia đối đãi nhau. Nếu người kia tạo khổ thì đối với người kia, đó cũng gọi tự tạo khổ. Tự tạo các khổ, trước đã phá. Vì chủ trương tự tạo khổ của ông không thành, cho nên người khác tạo cũng không thành.

Lại nữa:

151)Khổ không gọi tự tạo;

Pháp không tự tạo pháp.

Cái khác không tự thế,

Sao có kia tạo khổ. [8]

Tự tạo khổ, không đúng. Vì sao? Như con dao không thể tự cắt nó. Cũng thế, pháp không thể tự tạo ra pháp. Thế nên, không thể tự tạo. Người khác tạo cũng không đúng. Vì sao? Ngoài khổ, không có tự tánh của người kia. Nếu lìa khổ có tự tánh của người kia, thì mới có thể nói con người kia tạo khổ. Nhưng con người kia cũng chính là khổ, làm sao khổ tự tạo khổ?

Hỏi: Nếu tự tạo; tha tạo đều không đúng. vậy có thể có chung cùng nhau tạo?

Đáp:

152)Khổ kia, đây nếu thành,

Mới có chung tạo khổ.

Đây, kia còn không tạo,

Huống là vô nhơn tạo. [9]

Tự tạo, tha tạo còn có lỗi huống là vô nhân tạo. Nhân tạo có nhiều lỗi, như đã phá trong chương "Tác và Tác giả".

Lại nữa:

153)Không những nói cái khổ,

Bốn trường hợp bất thành.

Mọi vạn vật ngoại giới,

Bốn trường hợp cũng không. [10]

Trong Phật Pháp tuy nói năm thọ ấm là khổ, vì có ngoại đạo nói, khổ thọ là khổ, thế nên nói chẳng những nói đối với khổ, bốn trường hợp đều không thành; mà vạn vật bên ngoài như đất, nước, núi, cây v.v.. tất cả pháp đều không thành.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Quán các pháp khổ do từ đâu có, nó do tự mình làm nên khổ, hay sử người khác, hoặc do bên ngoài tạo khổ. Khổ không thể tự nó tạo ra khổ, vì như thế thành vô nhân, không nhân khổ thành quả khổ, cũng bất thành. Nếu cho rằng vì có thân ngũ ấm này nên có khổ. Như vậy thân ngũ ấm tạo ra khổ, hay do tạo khổ mà có thân ngũ ấm. Thân ngũ ấm này và thân ngũ ấm khác, trước sau như thế nào? Là đồng hay khác? Đây cũng giống như các chương trước, bài bác đồng, dị, tự tác, tha tác v.v…

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Sáu 2015(Xem: 5466)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ” tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp. Theo đó, dharma là danh từ phái sinh của động từ căn dhṛ: duy trì, gìn giữ. Nếu là thắng nghĩa Pháp, hay Pháp siêu việt, thì Pháp ấy duy chỉ là Niết-bàn. Còn nếu là Pháp tướng Pháp hay Pháp thuộc hiện tượng dùng để chỉ các tính chất của các pháp; trong trường hợp ở đây thì pháp đó chỉ chung cho tất cả bốn Thánh đế.
17 Tháng Sáu 2015(Xem: 5993)
Định và nguyện vô lậu tư trợ nghiệp hữu lậu khiến cho quả thành tựu tiếp nối lâu dài, càng lúc càng phát triển thành vi tế thù thắng. Theo ý nghĩa đó mà nói một cách ước lệ là chiêu cảm. Khi có sự chiêu cảm như vậy, là do sở tri chướng làm duyên trợ lực,...
06 Tháng Sáu 2015(Xem: 9543)
Sự gieo hạt giống, sự tăng trưởng của cây và sự cho quả là ba giai đoạn khác nhau. Trong đạo cũng giống như thế, thân tương tục nhập đạo, trở nên thuần thục và được giải thoát theo một tiến trình tiến lên từ từ: Trong đời sống thứ nhất là gieo trồng các thiện căn có tên giải thoát phần; trong đời sống thứ hai là sinh khởi các quyết trạch phần; và đời sống thứ ba là sinh khởi thánh đạo. Giải thoát phần được thành tựu từ văn và tư chứ không phải định...
15 Tháng Chín 2014(Xem: 8461)
Tiếp theo phần A Tỳ Đàm nơi Tập 26 (ĐTK/ĐCTT, Tập 26, từ N0 1536 đến N0 1544) toàn bộ Tập 27 là nêu dẫn Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma – mahavibhàsà – sàstra). Đây là Bộ Luận đồ sộ nhất hiện có trong Hán tạng. Tác giả của Luận là 500 vị A La Hán. Nói rõ hơn: Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa là một Bộ Luận Thích. 500 vị A La Hán, dưới sự chỉ đạo của Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra),
03 Tháng Chín 2014(Xem: 8972)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộ là bộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ, căn bản và đồ sộ nhất mà nay vẫn còn giữ lại được phần lớn. Cũng như trường hợp của Thượng Toạ Bộ, A Tỳ Đàm Tạng của Hữu Bộ được xem là một đề tài bàn cải lớn giữa các nhà học Phật xưa nay.
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6256)
Như một viên đá trong một công trình hoằng dương Phật Pháp, như một thể hiện khiêm nhường trong tinh thần nối truyền huệ mạng của Chư Phật ba đời, ngưỡng mong công đức phiên dịch bản kinh này hãy là một động lực nâng bước chúng tôi - người dịch - tiến bộ nhanh hơn nửa trên hành trình tìn tới sự chiến thắng chính mình và mong sao, trong một hậu thân xa xôi nào đó đối với chúng tôi - Người dịch - Phật vức sẽ không là một đích điểm bất khả đạt...!
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 13391)
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 14177)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li, vi tế những vận hành, diễn tiến của tâm. Không thực tế vì nó bàn đến những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết bình thường của con người; ở ngoài chuyện áo cơm, tiền bạc, thế sự và thế tình...