Chương 19: Quán Thời

03 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 16000)

LONG THỌ BỒ TÁT Nāgārjuna
TRUNG LUẬN Mādhyamaka-Sāstra

Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt dịch THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003

CHƯƠNG XIX: QUÁN THỜI

Hỏi: Nên có thời gian, vì nhơn đối đãi nhau mà tựu thành. Nhơn có thời quá khứ thì có thời vị lai và hiện tại. Nhơn thời hiện tại có thời quá khứ vị lai. Nhơn có thời vị lai nên có thời quá khứ, hiện tại. Các pháp thượng, trung, hạ, đồng nhất, dị biệt v.v… cũng do bởi tương đãi mà tựu thành.

Đáp:

Nếu nhơn thời quá khứ,

Có vị lai, hiện tại.

Vị lai và hiện tại,

Phải thuộc thời quá khứ.[1] [1] 

Nếu nhơn thời quá khứ có vị lai và hiện tại thì trong thời quá khứ phải có vị lai và hiện tại. Vì sao? Pháp thành tựu do bắt nguồn từ đâu thì ở đó phải có pháp đó. Như nhơn ngọn đèn, thành có ánh sáng, tùy chỗ nào có đèn thì có ánh sáng chỗ đó. Như thế, nhơn thời quá khứ mà thành thời vị lai, hiện tại; thì trong thời quá khứ nên có hiện tại, vị lai. Nếu trong thời quá khứ, có thời vị lai, hiện tại; thì ba thời đều gọi là thời quá khứ. Tại sao? Vì thời vị lai, hiện tại ở trong thời quá khứ. Nếu tất cả thời đều quá khứ thì không có thời vị lai và hiện tại, vì đều là quá khứ. Nếu không có hai thời vị lai, hiện tại thì cũng nên không có thời quá khứ. Tại sao? Vì nhơn hai thời vị lai hiện tại nên gọi thời quá khứ. Cũng như nhơn thời quá khứ mà thành thời vị lai và hiện tại; cũng như thế phải nhơn thời vị lai, hiện tại mà thành thời quá khứ. Nay không có thời vị lại, hiện tại nên thời quá khứ cũng phải là không có. Thế nên, ở trên nói nhơn thời quá khứ thành thời vị lai, hiện tại; điều ấy không đúng. Nếu trong thời quá khứ không có hai thời vị lai, hiện tại mà nhơn thời quá khứ thành thời vị lai, hiện tại cũng không đúng. Vì sao?

Nếu trong thời quá khứ,

Không vị lai hiện tại.

Thời vị lai hiện tại,

Làm sao nhơn quá khứ? [2] 

Nếu thời vị lai, hiện tại không ở trong thời quá khứ, làm thế nào nhơn thời quá khứ mà thành thời vị lai, hiện tại? Vì sao? Nếu ba thời đều có tướng dị biệt, không thể tương đãi mà thành. Như chiếc bình, chiếc áo v.v… muôn vật, mỗi cái tự riêng thành không nhơn đối đãi. Nhưng nay không nhơn thời quá khứ thì thời vị lai và hiện tại không thành; không nhơn thời hiện tại, thời quá khứ, vị lai cũng không thành; không nhơn thời vị lai, thời quá khứ, hiện tại cũng không thành. Trước ông nói, trong thời quá khứ, tuy không thời vị lai, hiện tại mà nhơn thời quá khứ được thành thời vị lai, hiện tại điều ấy không đúng.

Hỏi: Nếu không nhơn thời quá khứ, thành thời vị lai và hiện tại, có lỗi gì?

Đáp:

Không nhơn thời quá khứ,

Thì không thời vị lai.

Cũng không thời hiện tại,

Thế nên không hai thời. [3] 

Không nhơn thời quá khứ, chẳng tựu thành hai thời vị lai, hiện tại. Vì sao? Nếu không nhơn thời quá khứ để có thời hiện tại, thì căn cứ chỗ nào mà có thời hiện tại? Vị lai cũng thế, ở chỗ nào có thời vị lai? Thế nên không nhơn thời quá khứ thì không có hai thời vị lai, hiện tại. Như thế, do đối đãi mà có, sự thật không có thời gian.

Vì do nghĩa như thế,

Thì biết hai thời khác;

Thượng, trung, hạ, nhất, dị…

Các pháp ấy đều không. [4] 

Vì ý nghĩa như thế, nên biết; ngoài ra, vị lai, hiện tại, cũng nên không; và: Trên, giữa, dứới, một, khác v.v.. các pháp cũng đều không thật. Như nhơn trên có giữa, dưới; lìa trên không có giữa và dưới. Nếu lìa trên có giữa và dưới thì không nên làm nhơn đối đãi nhau. Nhơn một nên có khác, nhơn khác nên có một. Nếu một thật có, không nên nhơn khác mà có; nếu khác thật có, không nên nhơn một mà có. Các pháp như vậy cũng nên như thế mà phá.

Hỏi: Như có những sự sai biệt của năm, tháng, ngày, khoảnh khắc , nên biết có thời gian.

Đáp:

Thời gian dừng không thể,

Thời gian đi cũng không.

Thời nếu không thế được,

Làm sao nói tướng thời. [5] 

Nhơn vật nên có thời,

Ngoài vật đâu có thời.

Vật còn không thể có,

Huống là có thời gian. [6] 

Thời gian nếu không dừng lại, thì không thể nắm bắt được nó. Thời gian dừng lại cũng không. Nếu thời gian không thể có, làm thế nào nói tướng thời gian? Nếu không thời gian thì không có thời gian. Nhơn sự vật phát sanh nên quyết chắc có thời gian, nếu lìa sự vật không có thời gian. Từ trước đến nay dùng mọi cách phá hủy các pháp không thực, làm gì có thời gian.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] ý nghĩa chương thời gian không khác gì với chương khứ lai. Thời gian có quá khứ hiện tại và vị lai. Quá khứ đã qua vị lai chưa đến, hiện tại liên lỉ không an trụ, cho nên tất cả đều không thật có. Có thời gian hay không chỉ là do tâm thức phân biệt của con người qua sự vật biến đổi….

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Sáu 2015(Xem: 5488)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ” tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp. Theo đó, dharma là danh từ phái sinh của động từ căn dhṛ: duy trì, gìn giữ. Nếu là thắng nghĩa Pháp, hay Pháp siêu việt, thì Pháp ấy duy chỉ là Niết-bàn. Còn nếu là Pháp tướng Pháp hay Pháp thuộc hiện tượng dùng để chỉ các tính chất của các pháp; trong trường hợp ở đây thì pháp đó chỉ chung cho tất cả bốn Thánh đế.
17 Tháng Sáu 2015(Xem: 6018)
Định và nguyện vô lậu tư trợ nghiệp hữu lậu khiến cho quả thành tựu tiếp nối lâu dài, càng lúc càng phát triển thành vi tế thù thắng. Theo ý nghĩa đó mà nói một cách ước lệ là chiêu cảm. Khi có sự chiêu cảm như vậy, là do sở tri chướng làm duyên trợ lực,...
06 Tháng Sáu 2015(Xem: 9578)
Sự gieo hạt giống, sự tăng trưởng của cây và sự cho quả là ba giai đoạn khác nhau. Trong đạo cũng giống như thế, thân tương tục nhập đạo, trở nên thuần thục và được giải thoát theo một tiến trình tiến lên từ từ: Trong đời sống thứ nhất là gieo trồng các thiện căn có tên giải thoát phần; trong đời sống thứ hai là sinh khởi các quyết trạch phần; và đời sống thứ ba là sinh khởi thánh đạo. Giải thoát phần được thành tựu từ văn và tư chứ không phải định...
15 Tháng Chín 2014(Xem: 8492)
Tiếp theo phần A Tỳ Đàm nơi Tập 26 (ĐTK/ĐCTT, Tập 26, từ N0 1536 đến N0 1544) toàn bộ Tập 27 là nêu dẫn Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma – mahavibhàsà – sàstra). Đây là Bộ Luận đồ sộ nhất hiện có trong Hán tạng. Tác giả của Luận là 500 vị A La Hán. Nói rõ hơn: Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa là một Bộ Luận Thích. 500 vị A La Hán, dưới sự chỉ đạo của Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra),
03 Tháng Chín 2014(Xem: 8991)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộ là bộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ, căn bản và đồ sộ nhất mà nay vẫn còn giữ lại được phần lớn. Cũng như trường hợp của Thượng Toạ Bộ, A Tỳ Đàm Tạng của Hữu Bộ được xem là một đề tài bàn cải lớn giữa các nhà học Phật xưa nay.
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6285)
Như một viên đá trong một công trình hoằng dương Phật Pháp, như một thể hiện khiêm nhường trong tinh thần nối truyền huệ mạng của Chư Phật ba đời, ngưỡng mong công đức phiên dịch bản kinh này hãy là một động lực nâng bước chúng tôi - người dịch - tiến bộ nhanh hơn nửa trên hành trình tìn tới sự chiến thắng chính mình và mong sao, trong một hậu thân xa xôi nào đó đối với chúng tôi - Người dịch - Phật vức sẽ không là một đích điểm bất khả đạt...!
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 13422)
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 14224)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li, vi tế những vận hành, diễn tiến của tâm. Không thực tế vì nó bàn đến những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết bình thường của con người; ở ngoài chuyện áo cơm, tiền bạc, thế sự và thế tình...