Chương 15: Quán Hữu Vô

03 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 16400)

LONG THỌ BỒ TÁT Nāgārjuna
TRUNG LUẬN Mādhyamaka-Sāstra

Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt dịch THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003

CHƯƠNG XV: QUÁN HỮU VÔ[1]

Hỏi: Các Pháp thảy đều có tự tánh vì có lực dụng. Như chiếc bình có tự tánh của bình, vải cũng có tự tánh của vải. Khi nào các duyên hòa hiệp, tánh ấy xuất hiện phải không?

Đáp:

171)Trong các duyên có tánh,

Điều ấy thì không đúng.

Tánh xuất hiện từ duyên,

Phải là pháp tạo tác.[2] [1] 

Nếu các pháp có tự tánh, không thể xuất hiện từ các duyên. Vì sao? Nếu xuất hiện từ các duyên thì đó là pháp tạo tác, không có tự tánh cố định.

Hỏi: Nếu tự tánh của các pháp được tác thành từ các duyên, thì sai lầm ở chỗ nào?

Đáp:

172)Nếu tánh do tạo tác,

Làm sao có nghĩa này.

Tánh không do tạo tác,

Không lệ thuộc pháp khác. [2] 

Như vàng lẫn lộn đồng thì chẳng phải vàng ròng. Cũng thế, nếu có tự tánh thì không cần đến các duyên. Nếu từ các duyên mà xuất hiện nên biết chẳng phải là thật tánh. Lại nữa, tánh nếu cố định thì không cần phải lệ thuộc cái khác mới có thể xuất hiện. Không phải như dài và ngắn, cái này và cái kia. Vì chúng không có tự tánh quyết định, nên phải lệ thuộc cái khác mới có.

Hỏi: Các pháp nếu không có tự tánh, vậy chúng có thể có tha tánh?

Đáp:

173)Pháp nếu không tự tánh,

Làm gì có tha tánh.

Tự tánh đối tha tánh,

Cũng gọi là tha tánh. [3] 

Vì do các duyên tạo ra, và cũng vì do đối đãi mà thành cho nên các pháp vốn không có tự tánh. Nếu thế, tha tánh đối với tha tánh cũng là tự tánh, bởi từ các duyên mà sinh. Do nương nhau nên cũng là không, không làm thế nào nói các pháp từ tha tánh phát sanh vì tha tánh cũng là tự tánh.

Hỏi: Nếu lìa tự tánh và tha tánh mà có các pháp thì có lỗi gì?

Đáp: 

174)Lìa tự tánh, tha tánh,

Làm sao có các pháp.

Nếu có tự, tha tánh,

Các pháp mới được thành. [4] 

Ông nói lìa tự tánh và tha tánh mà có các pháp; điều này không đúng. Nếu lìa tự, tha tánh, không có các pháp. Vì sao? Có tự tánh, tha tánh thì pháp mới có thể tựu thành. Thí dụ như chiếc bình là tự tánh thì y phục các thứ là tha tánh.

Hỏi: Nếu lấy tự tánh, tha tánh để phá cái có thì ở đây có thể có cái không?

Đáp:

175)Hữu nên không thành tựu,

Vô làm sao được thành.

Vì nhơn có pháp hữu,

Hữu hoại gọi là vô. [5] 

Nếu ông đã chấp nhận cái hữu không thành, thì cũng nên chấp nhận cái vô cũng không. Vì sao? Pháp hữu bị hoại diệt, nên gọi là vô. Vô, nghĩa là cái hữu bị hoại diệt mà thành vô.

176)Nếu người chấp hữu vô,

Chấp tự tánh, tha tánh;

Như thế tất không thấy,

Nghĩa chân thật Phật pháp. [6] 

Nếu người đắm chấp các pháp, tất tìm cầu cái kiến chấp về hữu. Nếu phá tự tánh thì có kiến chấp về tha tánh. Nếu phá tha tánh thì có kiến chấp hữu. Phá hữu lại kiến chấp vô. Nếu phá vô thì mê hoặc! Nếu hàng lợi căn ít tâm chấp trước, biết rằng hủy diệt những kiến chấp, tất được an ổn, sẽ không còn sanh khởi bốn thứ hí luận: có, không, chẳng phải có, chẳng phải không; cũng có, cũng không; người ấy, quyết định thấy nghĩa chân thật của Phật Pháp. Thế nên nói bài tụng trên.

Lại nữa:

177)Phật hay diệt hữu vô,

Như được nói trong kinh

Giáo giới Ca-chiên-diên,

Lìa Hữu cũng lìa vô. [7] 

Trong kinh “San-đà Ca-chiên-diên”, Đức Thế Tôn giảng cho Ca-chiên- diên về ý nghĩa chánh kiến, lìa có, không. Nếu trong các pháp có một chút gì là thực hữu; đức Phật không bao giờ có thể hủy phá có không. Nếu phá có thì người ta cho là không. Phật thông đạt tướng của chư pháp nên nói cả hai đều không. Thế nên ông phải bỏ kiến chấp có không.

Lại nữa:

178)Nếu pháp thật có tánh,

Sau không thể biến dị.

Tánh nếu có tướng dị,

Điều ấy không hề đúng. [8] 

Nếu các pháp đều quyết định có tánh thì không bao giờ có thể biến dị. Vì sao? Nếu quyết định có tự tánh, không thể có tướng dị biệt như ví dụ vàng thật ở trên. Vì nay hiện thấy các pháp tương dị biệt, nên biết không có tướng cố định.

Lại nữa:

179)Nếu pháp thật có tánh,

Sao có thể biến dị?

Pháp nếu thật không tánh,

Sao có thể biến dị? [9] 

Nếu pháp quyết định có tánh, làm thế nào có thể biến đổi? Nếu không tự tánh, chẳng có tự thể, làm sao có thể biến đổi?

Lại nữa:

180)Thật có là chấp thường,

Thật không là chấp đoạn.

Thế nên người có trí,

Chẳng nên chấp có không. [10] 

Nếu pháp quyết định có tướng hữu thì không bao giờ có tướng vô; ấy tức là thường. Vì sao? Như nói ba đời. Trong đời vị lai có tướng của pháp; pháp ấy đi đến hiện tại rồi chuyển sang quá khứ mà không mất bổn tướng của nó, tức là thường. Lại nói, trong nhân trước có quả; cũng là thường. Nếu nói quyết định có cái vô; cái vô ấy, tất trước có nay không, thế là đoạn diệt; đoạn diệt là không có sự tương tục. Do vì hai kiến chấp mà xa lìa Phật Pháp.

Hỏi: Vì sao nhơn chấp có mà sanh thường kiến; nhơn chấp không phát sanh đoạn kiến?

Đáp: 

181)Nếu pháp có định tánh,

Phi vô tức là tường.

Trước có mà nay không.

Ấy tức là đoạn diệt. [11] 

Nếu pháp tánh quyết định có; thì đó là tướng có chứ không phải là tướng không, và không bao giờ có thể trở thành không. Nếu không, thì không phải là có, tức là pháp vô. Ở trên đã nói đến sự sai lầm này. Theo đó, nó sẽ rơi vào thường kiến. Nếu pháp trước có, hoại diệt mà thành không thì gọi là đoạn diệt. Tại sao? Vì cái có chẳng thể là cái không. Vì ông nói có và không đều có tướng cố định. Nếu có kiến chấp đoạn, thường thì không có tội, phước v.v.. là hủy phá sự thực thế gian, thế nên phải xả.


--------------------------------------------------------------------------------

[1] Đề chương theo bản Phạn hiện tại là “Svabhàva-parìkwà”, phê phán khái niệm svabhàva, thường dịch là tự thể, hay tự tánh. Đây là một trong các từ khóa của Trung luận. Từ này cùng ngữ tộc với các từ hữu (bhava), không (abhava), thể (bhàva), vô thể (abhàva), là những từ phái xuất của động từ căn BHÙ: là, hay trở thành; và thông thường cũng dịch là hiện hữu hay tồn tại. Do đó, làm rõ ý nghĩa hữu (bhava) và vô (abhava) cũng là để làm rõ ý nghĩa svabhàva. Đó là luận điểm chính của chương nầy. TS

[2] Quán hữu vô là quán tất cả các pháp hữu vi, vô vi, các tự tánh hay không tự tánh. Các pháp nếu thật có tự tánh riêng biệt thì nó không bị thay đổi biến dịch. Còn nếu nó không tự tánh, thì tha tánh cũng không. Ngoài tha tánh và tự tánh tìm không thấy có tánh nào khác. Chấp các pháp có định tánh thì mắc phải lỗi chấp thường (thường kiến). Chấp các pháp không có định tánh thì bị lỗi chấp đoạn (đoạn kiến). Người có trí tuệ sáng suốt, không nên chấp thường, đoạn, hữu, vô v.v… không một pháp nào có tánh quyết định, vì tất cả đều do nhân duyên hòa hiệp, hình thành luôn luôn thay đổi, không pháp tướng nào nhất định mãi mãi…

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Sáu 2015(Xem: 5488)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ” tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp. Theo đó, dharma là danh từ phái sinh của động từ căn dhṛ: duy trì, gìn giữ. Nếu là thắng nghĩa Pháp, hay Pháp siêu việt, thì Pháp ấy duy chỉ là Niết-bàn. Còn nếu là Pháp tướng Pháp hay Pháp thuộc hiện tượng dùng để chỉ các tính chất của các pháp; trong trường hợp ở đây thì pháp đó chỉ chung cho tất cả bốn Thánh đế.
17 Tháng Sáu 2015(Xem: 6019)
Định và nguyện vô lậu tư trợ nghiệp hữu lậu khiến cho quả thành tựu tiếp nối lâu dài, càng lúc càng phát triển thành vi tế thù thắng. Theo ý nghĩa đó mà nói một cách ước lệ là chiêu cảm. Khi có sự chiêu cảm như vậy, là do sở tri chướng làm duyên trợ lực,...
06 Tháng Sáu 2015(Xem: 9580)
Sự gieo hạt giống, sự tăng trưởng của cây và sự cho quả là ba giai đoạn khác nhau. Trong đạo cũng giống như thế, thân tương tục nhập đạo, trở nên thuần thục và được giải thoát theo một tiến trình tiến lên từ từ: Trong đời sống thứ nhất là gieo trồng các thiện căn có tên giải thoát phần; trong đời sống thứ hai là sinh khởi các quyết trạch phần; và đời sống thứ ba là sinh khởi thánh đạo. Giải thoát phần được thành tựu từ văn và tư chứ không phải định...
15 Tháng Chín 2014(Xem: 8494)
Tiếp theo phần A Tỳ Đàm nơi Tập 26 (ĐTK/ĐCTT, Tập 26, từ N0 1536 đến N0 1544) toàn bộ Tập 27 là nêu dẫn Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma – mahavibhàsà – sàstra). Đây là Bộ Luận đồ sộ nhất hiện có trong Hán tạng. Tác giả của Luận là 500 vị A La Hán. Nói rõ hơn: Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa là một Bộ Luận Thích. 500 vị A La Hán, dưới sự chỉ đạo của Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra),
03 Tháng Chín 2014(Xem: 8991)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộ là bộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ, căn bản và đồ sộ nhất mà nay vẫn còn giữ lại được phần lớn. Cũng như trường hợp của Thượng Toạ Bộ, A Tỳ Đàm Tạng của Hữu Bộ được xem là một đề tài bàn cải lớn giữa các nhà học Phật xưa nay.
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6286)
Như một viên đá trong một công trình hoằng dương Phật Pháp, như một thể hiện khiêm nhường trong tinh thần nối truyền huệ mạng của Chư Phật ba đời, ngưỡng mong công đức phiên dịch bản kinh này hãy là một động lực nâng bước chúng tôi - người dịch - tiến bộ nhanh hơn nửa trên hành trình tìn tới sự chiến thắng chính mình và mong sao, trong một hậu thân xa xôi nào đó đối với chúng tôi - Người dịch - Phật vức sẽ không là một đích điểm bất khả đạt...!
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 13423)
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 14224)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li, vi tế những vận hành, diễn tiến của tâm. Không thực tế vì nó bàn đến những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết bình thường của con người; ở ngoài chuyện áo cơm, tiền bạc, thế sự và thế tình...