Phương Pháp Để Giải Quyết Các Điều Nghi

20 Tháng Mười 201000:00(Xem: 14562)


LUẬN HOA NGHIÊM NIỆM PHẬT TAM MUỘI

Định Huệ
Nhà xuất bản Tôn Giáo 2006

Phương pháp để giải quyết các điều nghi

  1. Hỏi: Năm môn kể trên, nên từ một môn mà vào hay vào cả năm môn?

 Đáp: Bậc thượng căn trí huệ bén nhạy, liễu ngộ được tự tánh Di-đà, toàn hiển duy tâm Tịnh độ, nói pháp thân là bao gồm hết tất cả. Nhưng lý thì liền ngộ mà sự thì phải trừ khử dần dần. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói, hàng Thập trụ sơ tâm liền đồng với chư Phật. Nhưng năm giai vị tiến tu, không giai vị nào không hướng đến Bồ-đề mà chưa đến Diệu giác. Thứ bậc các giai vị rõ ràng, cuối cùng đến Thập địa, nhờ sức đại nguyện ở trong một niệm thấy hàng trăm đức Phật, hàng nghìn đức Phật cho đến hàng trăm nghìn Na-do-tha đức Phật. Theo từng giai vị mà thấy đức Phật có sai khác.

 Người tu hành ở cõi Ta-bà này, dẫu cho có khả năng hàng phục được hoặc nghiệp, phát ngộ, nhưng chưa chứng vô sinh cũng đâu thoát khỏi phải thọ thân đời sau. Nếu chẳng nương nhờ sức Phật thì công hạnh khó vẹn toàn, mà cần phải đợi hồi hướng Lạc bang, được Phật thọ ký, gột sạch hết các tập khí tàn dư, thành tựu viên mãn nguyện vương. Đây là môn vượt thoát, là con đường diệu trang nghiêm.

 Nếu như chưa sáng tỏ việc hướng thượng, chưa phá vỡ nghi tình thì rất cần phải chuyên trì danh hiệu đức Phật A-di-đà, cung kính siêng năng phát nguyện như con nhớ mẹ, lấy cái chết làm kỳ hạn. Thêm vào đó, huân tu giáo quán giúp cho sự phát triển trí huệ thù thắng, cảm ứng đạo giao thì công tu mới không uổng phí. Điều này hoàn toàn trông cậy vào một niệm bao gồm hết các môn. Điều quý báu của môn này là rất có lợi việc liễu ngộ cái bản nguyên, nhưng kị nhất là quay đầu trở lại.

 2. Hỏi: Ông muốn hoằng dương pháp môn niệm Phật, sao chẳng lấy các kinh Tịnh độ làm chủ đạo mà lại cực lực tôn sùng kinh Hoa Nghiêm. Nếu luận theo nhân quả, e rằng không hợp?

 Đáp: Ông không có đọc kinh Vô Lượng Thọ sao! Trong phần tựa của kinh ấy, đầu tiên thuật lại hạnh nguyện Phổ Hiền, khuyến tấn người tu hành với ba bậc vãng sinh, đều có nhắc đến phát tâm Bồ-đề. Cuối cùng, vì chẳng liễu ngộ Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xứng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí thì dù cho có tu các công đức vẫn bị đọa vào loài sinh bằng bào thai. Vậy thì, nếu thật sự muốn ngồi tòa sen báu, lên ngôi Bất thoái ắt phải nhờ vào trí Văn-thù, lập nguyện Phổ Hiền để hồi hướng vãng sinh. Nay, kinh Hoa Nghiêm này, chủ yếu nói về giáo lý đó. Đến phần Thượng phẩm thượng sinh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng dạy đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng. Nói đến kinh Đại thừa Phương đẳng thì không có kinh nào bằng kinh Hoa Nghiêm. Kinh này là kinh cao quý bậc nhất. Nhân quả không sai, vậy đâu có gì không hợp!

 3. Hỏi: Ý nghĩa của pháp giới Hoa Nghiêm sâu kín trùng trùng, lấy vô lượng kinh điển làm quyến thuộc. Vì sao chỉ một môn niệm Phật mà có thể bao gồm hết thảy? 

 Đáp: Đúng như lời ông nói. Ý nghĩa kinh Hoa Nghiêm tuy sâu rộng, nhưng người mới phát tâm vào đạo cũng tự có phương tiện đặc biệt tiến vào. Đó là một môn niệm Phật này, nó có thể thông suốt hết vô biên pháp giới. Thế nên, đồng tử Thiện Tài ở trong một lỗ chân lông của Phổ Hiền đi qua bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới nhiều như số bụi nhỏ trong cõi nước Phật tận kiếp vị lai. Mỗi niệm đi đến khắp vô biên cõi nước. Người niệm Phật ở đây cũng vậy, vì một niệm vốn vô lượng.

 Trong Pháp giới quán, ngài Đỗ Thuận thiết lập ba môn:

 01. Môn chân không: Loại bỏ vọng tình để hiển lý, tức là niệm pháp thân Phật.
 02. Môn lý sự vô ngại: Dung thông lý sự để hiển bày lực dụng, tức là niệm công đức Phật.
 03. Môn chu biến hàm dung: Thu nhiếp sự sự để hiển bày chỗ đứng đầu, tức là niệm danh tự Phật.

 Thanh Lương Sớ chia ra bốn pháp giới:

 01. Nhất tâm niệm Phật, chẳng tu xen các hạnh khác, tức là nhập vào Sự pháp giới.
 02. Tâm và Phật cả hai đều bặt, nhất chân độc thoát, tức là nhập vào Lý pháp giới.
 03. Tức tâm tức Phật, đại dụng cùng hiện bày, tức là nhập vào Lý sự vô ngại.
 04. Phi Phật phi tâm, thần diệu không lường, tức là nhập vào Sự sự vô ngại pháp giới.

 Thế nên biết, một môn niệm Phật gồm thu tất cả pháp. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm lấy Tỳ-lô làm dẫn đạo, lấy Cực Lạc làm chỗ quy hướng. Đã được thân cận Di-đà thì chẳng rời Hoa Tạng; của báu nhà mình đầy đủ thì lực dụng vô biên. Nếu chẳng nhập vào môn niệm Phật này thì rốt cuộc chẳng phải là cứu cánh.

 4. Hỏi: Trong Hoa Nghiêm Hợp Luận, ngài Phương Sơn (Lý Thông Huyền) cho rằng: Tịnh độ ở phương khác là quyền, chẳng phải thật, còn nay theo lập luận của Ngài thì làm sao hội thông?

 Đáp: Trong giáo lý Tịnh độ, có chia cõi nước thành bốn cõi:
 01. Cõi Thường Tịch Quang là chỗ ở của quả Phật.
 02. Cõi Thật Báo là chỗ ở của bậc Pháp thân Đại sĩ.
 03. Cõi Hữu Dư là chỗ ở của hàng Nhị thừa.
 04. Cõi Đồng Cư là chỗ của phàm thánh ở chung.
 Bốn cõi kể trên hoặc uế hoặc tịnh.

 Nếu người ở cõi Ta-bà này nhờ sức chuyên niệm Phật, tu các công đức hồi hướng Tây phương nhưng hoặc nghiệp chưa dứt hết thì được sinh vào cõi Đồng Cư.

 Nếu người có lòng ưa thích Cực Lạc, nhàm chán Ta-bà một cách thống thiết, đoạn trừ dần dần các hoặc thô lậu, nghe pháp thăng tấn trí huệ thì được sinh vào cõi Hữu Dư.

 Nếu người lấy pháp tu viên giáo làm nhân, ngộ sâu thật tướng, dùng hạnh nguyện Phổ Hiền hồi hướng vãng sinh thì cảm được cõi Thật Báo, được Phật thọ ký, phần chứng tịch quang.

 Vì thế, người trụ quyền thừa thì mọi thứ đều quyền như hóa thành trong kinh Pháp Hoa, vì chẳng ngoài tự tâm. Người tỏ ngộ thật tướng thì tất cả đều thật như Cực Lạc trong kinh này, vì hoàn toàn đầy đủ Hoa Tạng.

 Lúc ngài Phương Sơn tạo luận, quyển cuối là phẩm Hạnh Nguyện chưa được truyền đến Trung Hoa, cho nên Ngài có sự phân biệt đối với một môn Tịnh độ, đó là điều trái với văn kinh. Vì vậy, cần phải biết từ chân khởi huyễn, ngay nơi huyễn toàn chân, sinh diệt đều lìa, tự tha bất nhị. Một niệm viên dung đến khắp pháp giới mới là pháp liễu nghĩa trung đạo nhất thừa. Điều ngài Phương Sơn đề xướng, chỉ ở chỗ Thập trụ sơ tâm tức thành Chánh giác. Y cứ vào giáo lý để phán đoán thật ra không phải là dễ. Sao vậy? Vì trong giai vị Thập tín của Viên giáo thì kiến hoặc, tư hoặc đều dứt hết, đồng thời đoạn trần sa hoặc, tiến vào giai vị Thập trụ của Viên giáo, phá tan vô minh chứng vô sinh nhẫn. Giai vị này ngang với bậc Sơ địa của Biệt giáo.

 Nếu chỉ cậy vào sức mình thì như người dân thường mà mong được ngôi vua, cho rằng: Xưa nay vốn là Phật, không rơi vào giai vị, nhưng cũng phải nhờ phương tiện khéo léo mới có thể chứng đắc. Chi bằng theo lời dạy của phẩm Hạnh Nguyện, đem lòng tin sâu trì tụng mười đại nguyện vương, trong một Sát-na vãng sinh Cực Lạc, trụ bất thoái chuyển. Từ hạng phàm phu vượt ngang xông thẳng, rất viên rất đốn, không pháp môn nào có thể sánh bằng. May mắn gặp được kinh Hoa Nghiêm đủ bộ là nhân duyên chẳng phải tầm thường. Hạt châu trong vạt áo vẫn còn đó mà cứ mãi nhọc công tìm, nay kính khuyên mọi người hãy đồng lòng tin nhận. 

 5. Hỏi: Đời Tùy, có vị Tăng tên Linh Cán, tu quán Hoa Tạng. Lúc lâm chung, thấy hoa sen to như bánh xe trong ao nước đầy và Ngài được ngồi trên đó. Vậy, chỉ cần đến thẳng Hoa Tạng, đâu cần phải thân cận Di-đà?

 Đáp:Thế giới Hoa Tạng có biển hương thủy, nhiều như số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết cõi nước Phật, có mười bất khả thuyết chủng loại thế giới nhiều như số bụi nhỏ an trụ, mỗi chủng loại thế giới lại có các thế giới nhiều như số bụi nhỏ của bất khả thuyết cõi nước Phật. Thế giới Cực Lạc phương Tây cũng ở trong số đó.

 Kinh Thủ-lăng-nghiêm ghi: “Nếu trong tâm tưởng niệm Phật, tu thêm phước huệ và nguyện sinh về Tịnh độ thì tự nhiên tâm thấy các đức Phật ở mười phương và tất cả các Tịnh độ, rồi tùy nguyện vãng sinh”.

 Trường hợp ngài Linh Cán sinh về Tịnh độ Cực Lạc hay Tịnh độ nào khác chưa thể biết được! Vậy thì, chỉ cần thân cận Di-đà tức là vào thẳng Hoa Tạng. Trước có Thiện Tài, sau có Long Thụ, đường lối như thế, chư Thánh cùng đi. Nếu chẳng tuân theo lời Phật dạy, tự chuốc lấy khốn khổ vì lạc vào nhiều lối tẻ. Hạng người này thật đáng thương xót, chúng ta phải gần gũi họ để chỉ cho họ thấy điều đó.

 Đời Tống, ngài Thảo Am Đạo Nhân tu giáo quán viên đốn. Về già, trụ trì chùa Diên Khánh. Đến ngày 17 tháng 04 niên hiệu Càn Đạo thứ 03 (1167), Ngài nói lời từ biệt đại chúng: “Thế giới Hoa Nghiêm rỗng rang lặng lẽ sáng rỡ, rất hợp ý tôi, hôm nay tôi sắp đi”. Rồi Ngài nói kệ ngợi khen Phật A-di-đà:

Vô biên cõi nước là biển không
Biển không toàn là cung hoa sen
Cung sen đầy khắp cả biển không
Biển không độc lộ Phật Di-đà.
Đức Phật Di-đà không sinh diệt
Khó tìm, khó nắm trăng đáy nước
Tuyệt phi, ly cú, thân như vậy
Cảm thông như thế, nói như thế.
Tôi với Di-đà vốn không hai 
Vọng giác thầm sinh, bỗng thành khác
Từ nay quét sạch hết trần lao
Cha con thiên nhiên gặp lại nhau
Thệ tu ba phước, hành sáu niệm
Nghiệp thân, miệng, ý không lầm lỗi
Nay tôi phát tâm niệm Di-đà
Không thấy Di-đà, không thôi nghỉ”.

 Sau đó, Ngài cùng đại chúng xướng niệm trăm câu danh hiệu Phật, phúng tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ đến câu thượng phẩm thượng sinh thì thu thần nhập diệt. Cực Lạc và Hoa Nghiêm là đồng hay là khác, những người có trí hãy mau mau để mắt!

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Ba 2016(Xem: 13312)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế giới quan và Phật đà quan hoàn toàn không bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Niềm tin trọn vẹn về một bậc thầy giác ngộ viên mãn, đầy đủ oai lực từ bi và trí tuệ. Năng lực của Phật có từ trường rất mạnh đối với tâm thức người quán niệm. Người tu Tịnh Độ, cũng có niềm tin rằng bên ngoài có Phật A Di Đà, bên trong tâm mình có tánh Phật A Di Đà. Khi chưa giác ngộ thì còn bị phiền não che lấp tánh Di Đà, nay niệm Phật là phương tiện tuyệt vời để khôi phục tâm tánh ấy.
04 Tháng Mười Một 2015(Xem: 16984)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ. Từ này khá xa lạ đối với nhiều tín đồ theo truyền thống Phật giáo Nam Truyền Theravāda. Theo quan niệm thông thường của truyền thống Theravāda thì ngoài những Đức Phật quá khứ đã nhập diệt và những Đức Phật tương lai chưa ra đời, thì trong thời điểm hiện tại không tồn tại một Đức Phật nào khác.
30 Tháng Mười 2015(Xem: 14803)
"A-di-đà kinh khắc trên đá ở Tương dương là do Trần Nhân Lăng đời Tùy viết, nét chữ thanh đẹp nên nhiều người hâm mộ. Đoạn từ câu 'nhất tâm bất loạn' trở xuống có thêm: Chuyên trì danh hiệu, dĩ xưng danh, cố chư tội tiêu diệt, tức thị đa thiện căn phước đức nhân duyên. Truyền bản ngày nay đã thoát mất hai mốt chữ này"
19 Tháng Mười 2015(Xem: 19295)
Trong thời gian qua, trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen đã xảy ra nhiều tranh luận khá gay gắt về vấn đề đức Phật A-di-đà, nay thầy Phước Nguyên gửi cho ban biên tập cuốn tiểu luận nghiên cứu từ Tạng Kinh Sanskrit và Tây Tạng để phổ biến đến quý độc giả quan tâm.
11 Tháng Mười 2015(Xem: 10838)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cõi Tịnh độ hay Cực lạc (Phạn ngữ Sukhavatì) được mô tả là cảnh giới tuyệt vời với tất cả những sự thù thắng, trang nghiêm.
11 Tháng Mười 2015(Xem: 29364)
Hiện tại pháp môn niệm Phật đang rất phổ biến tại Việt Nam cũng như Trung Quốc và Đài Loan. Thượng tọa cũng đã giải thích, để được về Tây phương thì phải loại trừ tham, sân, si, còn đối với một người xuất gia muốn đạt được đến sự giải thoát chắc chắn phải tu tập giới-định-tuệ. Kinh A-di-đà có nói đến cảnh giới Tây phương cực lạc. Con muốn hỏi: Đức Phật A-di-đà có hay không, và khi niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà thì có được sanh về thế giới Tây phương hay không?
23 Tháng Chín 2015(Xem: 11951)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác.
13 Tháng Bảy 2015(Xem: 9381)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác.
27 Tháng Sáu 2015(Xem: 8643)
Bốn mươi sáu đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà; đó cũng chính là tông dụng của Kinh Duy Ma Cật: “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh”.
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 10898)
Khi thảo luận về nhu cầu tinh thần của người sắp chết dưới cái nhìn Phật giáo, trước hết chúng ta cần phải xem xét một số điểm quan trọng, thí dụ như: