Định Nghĩa Tên Sách

08 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 17817)


VÔ NIỆM VIÊN THÔNG YẾU QUYẾT

Thích Minh Thiền
Phật Lịch 2536 - 1992

ĐỊNH NGHĨA TÊN SÁCH

Có người bắt một con qụa rừng cho vào lồng khóa lại, trong đó có để thức ăn và đem xuống mũi một chiếc thuyền biển đậu trong bờ, con quạ vẫn không bằng lòng, cảm thấy tù túng bực dọc muốn phá vỡ lồng không chịu ăn uống. Rồi người chủ thuyền quay mũi nhắm ra biển khơi trương buồm thẳn lèo mà lướt sóng. Khi ra tận ngoài khơi không còn thấy bờ nữa, ông mở cửa lồng thả con qụa ra để tự do cho nó tha hồ bay nhảy. Quạ tung cách bay lên không, lượn mấy vòng quanh thuyền, rồi lại đáp xuống chui vào lồng đứng ăn, và rỉa lông một cách thoải mái.

Một tay cờ thế lão thành, với một ngôi tư trang trệt trong một khu vườn, trước sân có thạch bàn thường trực bày một bàn cờ thế, bên cạnh có tiền, có trà, có rượu, có bánh kẹo một cách khiêu khích, kiêu kỳ. Đã bao nhiêu khách vào đây để trút túi … Bên cạnh tư trang là một ngôi nhà lầu 2 tầng có một em bé độ 15 tuổi, thường đứng trên trông xuống dòm hành theo dõi từng ván cờ.

Một hôm bỗng dưng bảo mẹ: Mẹ cho con mượn 3000 đồng. Mẹ gắt: Mượn để làm gì? Ậy cứ cho con mượn, lát nữa con sẽ đem tiền chợ về cho mẹ. Bà lại gắt: mà làm cái gì chứ? Con sang đánh cờ. Bà mẹ trố mắt: Trời Phật ơi, bộ mầy muốn tự tử hả? Ậy me cứ cho con mượn! Cứ thế giằng co, rút cuộc bà chiều con, móc tiền đưa, được tiên cậu bé như lên mây, chạy tuốt sang tư trang. Hai đàng nhập cuộc.

Ván đầu đặt 100 đồng, loay hoay chủ cho cậu ta ăn ván thứ nhất, lại ván thứ hai mỗi bên: đặt 200 dồng, chủ cũng nhường khách ăn luôn, ván thứ ba đặt 300 đồng, chủ lại nhường khách luôn ván nữa. Ăn xong chuẩn bị sắp ra bàn khác bỗng cậu bé dạ một tiếng to và nói: xin lỗi bác, mẹ con gọi, để con về chút con sang. Nói xong anh ta chạy tuốt về nhà cười ngất trả tiền cho mẹ, lại còn đưa thêm tiền chợ và nói: Mẹ thấy con nói có sai đâu! Thấy lâu quá cậu bé không sang, chủ bèn ra hiệu gọi, cậu bé lắc đầu, báo hại ông chủ cờ thế thêm một phen tức vỡ bụng.

Đấy, lẽ ra yếu quyết của vô niệm viên thông chỉ có thế. Nhưng nếu không thể đương cơ siêu xuất, thì xin tiếp tục tìm về yếu quyết thứ hai.
 

 

*
* *


Sáu chữ VÔ NIỆM VIÊN THÔNG YẾU QUYẾT nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh v.v…
 
Nhưng nếu phân tích kỹ ra mà nói thì thế nào là vô niệm? Ở nghĩa từ chữ thì Niệm là mống nghĩ, Vô là không. Nhưng Lục Tổ Huệ Năng đã từng cắt nghĩa: “” là không vọng niệm, “NIỆM” là thường niệm chơn như bổn tánh. Lại nói: “Chơn như bổn tánh là thể, niệm là dụng. Nếu chơn như tự tánh khởi niệm thì sáu căn dù có thấy nghe cũng không vì thế mà đắm nhiễm với ngoại cảnh. Được như thế là vô niệm.

Tuy nhiên, cắt nghĩa như thế chỉ dành riêng cho một số người ít nhất cũng phải có phần nào kiến thức về tâm học, không dễ gì ai ai cũng nhận được rõ ràng. Nếu muốn chứng thực điều này một cách cụ thể, xin mời độc giả thử vào trong màn, ngồi thẳng người xếp bằng tròn nhắm mắt lại, và giữ đừng mống nghĩ điều gì, rồi lắng nghe lại trong lòng độ 15 phút xem, có phải trong ấy hoàn toàn lặng hơ như mình tưởng, hay là cả một tập đoàn lao xao, hoặc cười hoặc nói hoặc bàn tán?!
 
Lắm lúc ta muốn hoàn toàn ngừng nghỉ để nằm xuống ngủ yên nhưng vẫn không tài nào thắng được. Trạng thái ấy có khi nhà Phật gọi là nghiệp nhóm chứa, có khi là vọng tưởng điên đảo, có khi gọi là vọng niệm. Vì mớ lao xao này nó điều khiển không cho ta chủ động hẳn hoàn toàn trong cuộc sống, chớ không như những bậc thoát tục xuất trần khi việc đến họ đón tiếp một cách sáng suốt, việc qua rồi không một mảy may lưu lại, tâm thể trong suốt như gương nên họ hoàn toàn chủ động cuộc sống, không như ta việc qua rồi thì lưu lại hình bóng, súc tích lũy kiếp thành một khối ồn ào chật ních trong lòng.
 
Cái ồn ào chật ních trong lòng ấy tạm đặt tên là “hữu niệm” còn trạng thái lúc nào cũng trong suốt như gương tạm đặt tên là “vô niệm”. Thế nào là VIÊN THÔNG? Viên là tròn, nghĩa trong ở đây là tròn khắp mọi mặt chứ không có nghĩa tròn dài, tròn hình ống, tròn bánh xe, tròn dẹp hay vòng tròn … Thông là thông suốt, là suốt khắp mọi mặt, mười phương tám hướng đều suốt khắp.

Thế là viên thông bao hàm nghĩa tròn một cách phủ định, co giãn theo thế làn sóng suốt khắp bao la, không kẹt vào thời gian, không gian, cũng không kẹt vào một chướng ngại nào. Hai chữ VIÊN THÔNG đặt liền sau hai chữ VÔ NIỆM là để chỉ cho tính chất suốt khắp của năng lực rung chuyển của tâm linh con người cũng như chúng sinh sau khi tâm thể được vô niệm.

Ai phát giác được viên thông ấy thì có khả năng giải quyết dứt khoát được mọi vấn đề trong toàn bộ cuộc sống của chính mình, không còn bị sức hấp dẫn của ngoại cảnh lôi cuốn nữa, mà còn có khả năng tham gia tán trợ việc hoá dục của thiên nhiên, cuộc sống của người ấy hoàn toàn yên vui, vĩnh viễn miên trường trong thế được. Đối với năng lực viên thông, họ có thể điều động được, từ đây họ là thiên nhiên, hoàn toàn thoát hẳn vòng tục lụy. Chớ không như tâm thể hữu niệm của chúng sanh chỏi ngược với trật tự thiên nhiên để phải chịu lấy bao nhiêu là ưu bi khổ não, bệnh tật đau thương.
 
Tuy nhiên không phải ai ai cũng có thể thực hiện, muốn thực hiện phải có sự hiểu biết, có phương pháp, có kỹ thuật, có chí khí, nên phải có yếu quyết mới có thể có thời gian bảo đảm, thẳng tắp và chính xác. Vì thế nên quyển sách này tạm đặt tên là VÔ NIỆM VIÊN THÔNG YẾU QUYẾT.
 
Đây cũng không phải là môi trường để cho tác giả múa bút khoe văn, cũng không phải là nơi giảng giáo lý Phật giáo hay trình bày duy thức hoặc pháp số, mà chỉ cốt sao giúp ích cho hành giả có những phương tiện cần yếu hạ thủ công phu trên con đường giải thoát được thẳng tắp, chính xác, và thời gian tính được bảo đảm trên tương đối. Cho nên tất cả chỉ là phương tiện và kỹ thuật chớ không quyết định theo một khuôn khổ nào, mong độc giả để ý cẩn thận.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Ba 2016(Xem: 13301)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế giới quan và Phật đà quan hoàn toàn không bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Niềm tin trọn vẹn về một bậc thầy giác ngộ viên mãn, đầy đủ oai lực từ bi và trí tuệ. Năng lực của Phật có từ trường rất mạnh đối với tâm thức người quán niệm. Người tu Tịnh Độ, cũng có niềm tin rằng bên ngoài có Phật A Di Đà, bên trong tâm mình có tánh Phật A Di Đà. Khi chưa giác ngộ thì còn bị phiền não che lấp tánh Di Đà, nay niệm Phật là phương tiện tuyệt vời để khôi phục tâm tánh ấy.
04 Tháng Mười Một 2015(Xem: 16976)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ. Từ này khá xa lạ đối với nhiều tín đồ theo truyền thống Phật giáo Nam Truyền Theravāda. Theo quan niệm thông thường của truyền thống Theravāda thì ngoài những Đức Phật quá khứ đã nhập diệt và những Đức Phật tương lai chưa ra đời, thì trong thời điểm hiện tại không tồn tại một Đức Phật nào khác.
30 Tháng Mười 2015(Xem: 14802)
"A-di-đà kinh khắc trên đá ở Tương dương là do Trần Nhân Lăng đời Tùy viết, nét chữ thanh đẹp nên nhiều người hâm mộ. Đoạn từ câu 'nhất tâm bất loạn' trở xuống có thêm: Chuyên trì danh hiệu, dĩ xưng danh, cố chư tội tiêu diệt, tức thị đa thiện căn phước đức nhân duyên. Truyền bản ngày nay đã thoát mất hai mốt chữ này"
19 Tháng Mười 2015(Xem: 19291)
Trong thời gian qua, trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen đã xảy ra nhiều tranh luận khá gay gắt về vấn đề đức Phật A-di-đà, nay thầy Phước Nguyên gửi cho ban biên tập cuốn tiểu luận nghiên cứu từ Tạng Kinh Sanskrit và Tây Tạng để phổ biến đến quý độc giả quan tâm.
11 Tháng Mười 2015(Xem: 10836)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cõi Tịnh độ hay Cực lạc (Phạn ngữ Sukhavatì) được mô tả là cảnh giới tuyệt vời với tất cả những sự thù thắng, trang nghiêm.
11 Tháng Mười 2015(Xem: 29361)
Hiện tại pháp môn niệm Phật đang rất phổ biến tại Việt Nam cũng như Trung Quốc và Đài Loan. Thượng tọa cũng đã giải thích, để được về Tây phương thì phải loại trừ tham, sân, si, còn đối với một người xuất gia muốn đạt được đến sự giải thoát chắc chắn phải tu tập giới-định-tuệ. Kinh A-di-đà có nói đến cảnh giới Tây phương cực lạc. Con muốn hỏi: Đức Phật A-di-đà có hay không, và khi niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà thì có được sanh về thế giới Tây phương hay không?
23 Tháng Chín 2015(Xem: 11944)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác.
13 Tháng Bảy 2015(Xem: 9374)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác.
27 Tháng Sáu 2015(Xem: 8632)
Bốn mươi sáu đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà; đó cũng chính là tông dụng của Kinh Duy Ma Cật: “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh”.
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 10893)
Khi thảo luận về nhu cầu tinh thần của người sắp chết dưới cái nhìn Phật giáo, trước hết chúng ta cần phải xem xét một số điểm quan trọng, thí dụ như: