Kinh Vượt Thắng

13 Tháng Sáu 201403:18(Xem: 5581)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Kinh Vượt Thắng

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 16

 

Phẩm này có 17 bài kệ. Thuật thiên là nói về con số ngàn. Tiếng Pali, sahassa là ngàn, là số nhiều. Đứng về phương diện phẩm chất thì không cần nói tới số lượng. Con số trăm, con số ngàn không có giá trị nếu không có chất liệu nội dung. Bài kệ thứ nhất nói dù có tụng đọc cả ngàn lời kinh, nhưng nếu các lời kinh ấy không chuyên chở được chánh pháp, cũng không bằng chỉ đọc một lời kinh thôi. Bài thứ 3 nói một câu Pháp cú tuy ít, nhưng nếu đem ra thực tập thì cũng có thể đắc đạo.

Bài thứ 4 là một bài kệ nổi tiếng nhất về chuyện thắng bại: chiến thắng được hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự mình chiến thắng được mình. Tự thắng là chiến công oanh liệt nhất. Bài thứ 16 nói sống một trăm tuổi thọ mà không nếm được vị cam lộ của đạo pháp, thì không bằng sống một ngày mà nếm được cam lộ. Làng Mai có câu: Chẳng biết rong chơi miền Tịnh độ, làm người một kiếp cũng như không, nói về cái hạnh phúc của sự thực tập thiền đi, cũng lấy từ ý ấy.

Các bài 4, 5 và 6 đều nói tới chủ đề tự vượt thắng mình để trở thành một vị anh hùng đích thực. Vì vậy, kinh này được đặt tên là kinh Vượt thắng. Vượt thắng chính mình.

 

Bài kệ 1

Tuy tụng thiên ngôn 雖 誦 千 言

Cú nghĩa bất chánh 句 義 不 正

Bất như nhất yếu 不 如 一 要

Văn khả diệt ý 聞 可 滅 意

Dầu có tụng đọc ngàn đời, nhưng nếu câu văn và nghĩa lý không phải là chánh đạo, thì không bằng chỉ tụng một lời mà khi nghe có cơ hội làm tĩnh lặng được tâm ý.

Bài kệ 2

Tuy tụng thiên ngôn 雖 誦 千 言

Bất nghĩa hà ích 不 義 何 益

Bất như nhất nghĩa 不 如 一 義

Văn hành khả độ 聞 行 可 度

 

Dù có tụng đọc ngàn lời, nhưng nếu nghĩa lý không có thì không bằng chỉ tụng đọc một lời mà có ý nghĩa (thâm sâu) để khi nghe thì có thể đem ra thực hành và vượt qua được đau khổ.

 

Bài k 3

Tuy đa tụng kinh 雖 多 誦 經

Bất giải hà ích 不 解 何 益

Giải nhất pháp cú 解 一 法 句

Hành khả đắc đạo 行 可 得 道

 

Dù có tụng đọc nhiều kinh mà không hiểu được thì cũng vô ích, không bằng chỉ đọc và hiểu được một câu Pháp cú, vì nếu đem ra thực hành thì có thể đắc đạo.

 

Bài kệ 4

Thiên thiên vi địch 千 千 為 敵

Nhất phu thắng chi 一 夫 勝 之

Vị nhược tự thắng 未 若 自 勝

Vi chiến trung thượng 為 戰 中 上

Chiến thắng được hàng ngàn quân địch thì cũng không bằng tự mình chiến thắng được chính mình. Tự thắng là chiến công oanh liệt nhất.

Bài kệ 5

Tự thắng tối hiền 自 勝 最 賢

Cố viết nhân hùng 故 曰 人 雄

Hộ ý điều thân 護 意 調 身

Tự tổn chí chung 自 損 至 終

Tự thắng được mình thì gọi là bậc hiền giả tối thượng. Đó là người anh hùng trong nhân gian, có khả năng điều phục và bảo hộ thân tâm, đạt tới mục tiêu cuối cùng.

 

Bài kệ 6

Tuy viết tôn thiên 雖 曰 尊 天

Thần ma Phạm Thích 神 魔 梵 釋

Giai mạc năng thắng 皆 莫 能 勝

Tự thắng chi nhân 自 勝 之 人

 

Thắng được các vị thiên giả, tôn thần, quỷ vương, Đế thích cũng không bằng tự thắng được mình.

 

Bài kệ 7

Nguyệt thiên phản từ 月 千 反 祠

Chung thân bất xuyết 終 身 不 輟

Bất như tu du 不 如 須 臾

Nhất tâm niệm Pháp 一 心 念 法

 

Nghìn tháng cầu đạo, suốt cả một đời không ngừng nghỉ, cũng không bằng trong một khoảnh khắc đem hết lòng thực tập niệm Pháp.

 

Bài kệ 8

Nhất niệm đạo phước 一 念 道 福

Thắng bỉ chung thân 勝 彼 終 身

Tuy chung bách tuế 雖 終 百 歲

Phụng sự hỏa từ 奉 事 火 祠

 

Chỉ thực tập phát khởi một niệm cung kính cúng dường bậc có phước đức thì công đức còn nhiều hơn suốt đời thờ phụng thần lửa.

 

Bài kệ 9

Bất như tu du 不 如 須 臾

Cung dưỡng tam tôn 供 養 三 尊

Nhất cung dưỡng phước 一 供 養 福

Thắng bỉ bách niên 勝 彼 百 年

Cúng dường trong một khoảnh khắc cho Tam Bảo còn có phúc đức nhiều hơn tế lễ cầu phước trong suốt cả một trăm năm.

Bài kệ 10

Tế thần dĩ cầu phước 祭 神 以 求 福

Tùng hậu quán kỳ báo 從 後 觀 其 報

Tứ phân vị vọng nhất 四 分 未 望 一

Bất như lễ hiền giả 不 如 禮 賢 者

 

Tế thần để cầu phước, cứ quan sát mà thấy thì phúc báo tới sau đó cũng chưa được bằng một phần tư của người cung kính bậc hiền nhân.

Bài kệ 11

Năng thiện hành lễ tiết 能 善 行 禮 節

Thường kính trưởng lão giả 常 敬 長 老 者

Tứ phước tự nhiên tăng 四 福 自 然 增

Sắc lực thọ nhi an 色 力 壽 而 安

Nếu biết tổ chức lễ lược theo đường hướng thiện lành, nếu biết thường cung kính các bậc trưởng lão (trong đạo) thì bốn thứ phước đức sẽ tự nhiên tăng trưởng. Sắc đẹp và sức khỏe, cũng như tuổi thọ cũng tăng lên.

Bài kệ 12

Nhược nhân thọ bách tuế 若 人 壽 百 歲

Viễn chánh bất trì giới 遠 正 不 持 戒

Bất như sanh nhất nhật 不 如 生 一 日

Thủ giới chánh ý thiền 守 戒 正 意 禪

Sống một trăm tuổi thọ mà xa lìa con đường chính, không biết giữ giới, thì không bằng sống một ngày mà biết trì giới và thực tập đưa tâm ý vào thiền định.

 

Bài kệ 13

Nhược nhân thọ bách tuế 若 人 壽 百 歲

Tà ngụy vô hữu trí 邪 偽 無 有 智

Bất như sanh nhất nhật 不 如 生 一 日

Nhất tâm học chánh trí 一 心 學 正 智

 

Sống một trăm tuổi thọ mà nếp sống tà ngụy, không có trí tuệ thì không bằng sống một ngày mà hết lòng tu học theo chánh trí.

 

Bài kệ 14

Nhược nhân thọ bách tuế 若 人 壽 百 歲

Giải đãi bất tinh tấn 懈 怠 不 精 進

Bất như sanh nhất nhật 不 如 生 一 日

Miễn lực hành tinh tấn 勉 力 行 精 進

 

Sống một trăm tuổi thọ mà giãi đãi không tinh tiến thì không bằng sống một ngày mà nỗ lực tu hành tinh tiến.

 

Bài kệ 15

Nhược nhân thọ bách tuế 若 人 壽 百 歲

Bất tri thành bại sự 不 知 成 敗 事

Bất như sanh nhất nhật 不 如 生 一 日

Kiến vi tri sở kị 見 微 知 所 忌

Sống một trăm tuổi thọ mà không hiểu được chuyện thành bại thì không bằng sống một ngày mà thấy được cái vi diệu của chánh pháp và thấy được nguyện vọng của mình.

Bài kệ 16

Nhược nhân thọ bách tuế 若 人 壽 百 歲

Bất kiến cam lồ đạo 不 見 甘 露 道

Bất như sanh nhất nhật 不 如 生 一 日

Phục hành cam lộ vị 服 行 甘 露 味

 

Sống một trăm tuổi thọ mà không thấy được đạo Cam Lộ thì không bằng sống một ngày mà nếm được vị Cam Lộ.

 

Bài kệ 17

Nhược nhân thọ bách tuế 若 人 壽 百 歲

Bất tri đại đạo nghĩa 不 知 大 道 義

Bất như sanh nhất nhật 不 如 生 一 日

Học thôi Phật pháp yếu 學 推 佛 法 要

 

Sống một trăm tuổi thọ mà không biết nghĩa lý của đạo lớn thì không bằng sống một ngày mà thực tập và tư duy theo giáo pháp tinh yếu của Bụt.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Mười Một 2023(Xem: 1734)
27 Tháng Chín 2022(Xem: 84308)
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.
16 Tháng Chín 2020(Xem: 6224)
20 Tháng Tám 2018(Xem: 7978)