Chương X - DAṆḌAVAGGA - (Phẩm Hình Phạt)

15 Tháng Sáu 201403:31(Xem: 5563)
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Dhammapada
KINH LỜI VÀNG
Việt - lục bát thi hóa - Pāḷi
( In lần thứ 5, có chỉnh sửa và nhuận sắc lần cuối)

Chương X
DAṆḌAVAGGA
(Phẩm Hình Phạt)

129.

Ai ai cũng sợ gươm đao

Ai ai cũng sợ máu đào, thây phơi

Bụng ta suy hiểu bụng người

Chớ nên giết hại, xúi lời giết nhau!

 

Sabbe tasanti daṇḍassa

sabbe bhāyanti maccuno,

attānaṃ upamaṃ katvā

na haneyya na ghātaye.

­œ

130.

Ai ai cũng sợ gươm đao

Người người mạng sống mong sao bảo toàn

Bụng ta hiểu bụng thế gian

Chớ nên giết hại, xúi bàn giết nhau!

 

Sabbe tasanti daṇḍassa,

sabbesaṃ jīvitaṃ piyaṃ,

attānaṃ upamaṃ katvā

na haneyya na ghātaye.

­œ

131.

Ai ai hạnh phúc cũng cầu

Tại sao đao trượng hại nhau làm gì?

Tìm an mà lại ác tri

Những người như vậy mong chi gặp lành.

 

Sukhakāmāni bhūtāni

yo daṇḍena vihiṃsati,

attano sukhamesāno

pecca so na labhate sukhaṃ.

­œ

132.

Ai ai hạnh phúc cũng cầu

Tại sao đao trượng hại nhau làm gì?

Xa lìa ác niệm ấy đi

Báo thân xả bỏ, tức thì nhàn sanh.

 

Sukhakāmāni bhūtāni

yo daṇḍena na hiṃsati,

attano sukhamesāno

pecca so labhate sukhaṃ.

­œ

133.

Giận nhau, thô lỗ, cộc cằn

Người kia trả miếng cũng ngần ấy thôi!

Khổ thay! Phẫn hận trên đời

Vết thương dao xé: Tiếng lời lại qua!

 

Māvoca pharusaṃ kañci

vuttā paṭivadeyyu taṃ,

dukkhā hi sārambhakathā

paṭidaṇḍā phuseyyu taṃ.

­œ

134.

Tự mình nếu biết lặng yên

Không còn oán nộ, chẳng hiềm hại ai

Như chuông đã bể tiếng rồi

Ai mà được vậy, kề nơi Niết-bàn.

 

Sace n’eresi attānaṃ

kaṃso upahato yathā,

esa pattosi nibbānaṃ

sārambho te na vijjati.

­œ

135.

Người chăn dùng gậy lùa dê

Lùa từng con một đi về đồng xa

Tuổi già, sự chết cũng là

Lùa từng mạng sống chúng ta xuống mồ!

 

Yathā daṇḍena gopālo

gāvo pājeti gocaraṃ,

Evaṃ jarā ca maccu ca

āyuṃ pājenti pāṇinaṃ.

­œ

136.

Người ngu ác độc, tội lầm

Vẫn không nhận thức việc làm cuồng si

Nghiệp kia cho quả tức thì

Bị thiêu, bị nấu có chi phải ngờ!

 

Atha pāpāni kammāni

karaṃ bālo na bujjhati,

sehi kammehi dummedho

aggidaḍḍho va tappati.

­œ

137.

Dùng đao hại kẻ “không đao”([1])

Trượng hại “không trượng”([2]) khác nào tự thiêu!

Ai kia thọ khổ mười điều

Chịu quả khốc liệt cùng nhiều tai ương!

 

Yo daṇḍena adaṇḍesu

appaduṭṭhesu dussati,

dasannamaññataraṃ ṭhānaṃ

khippameva nigacchati.

­œ

138.

Một là nhức nhối đau thương

Hai là họa biến, khôn đường trở xoay

Ba là thương tích mặt mày

Bốn là trọng bệnh, thuốc thầy chẳng xong!

 

Vedanaṃ pharusaṃ jāniṃ

sarīrassa ca bhedanaṃ,

garukaṃ vā pi ābādhaṃ

cittakkhepaṃ ca pāpuṇe.

­œ

139.

Năm là tâm trí loạn cuồng

Sáu, bị hại bởi lực quyền vua quan

Bảy, chịu trọng tội cáo oan

Tám là gia quyến các hàng phân ly!

 

Rājato vā upasaggaṃ

abbhakkhānañca dāruṇaṃ,

parikkhayaṃ va ñātīnaṃ

bhogānaṃ va pabhaṅguraṃ.

­œ

140.

Chín là tài sản ra đi

Mười là nhà cửa, lắm kỳ hỏa tai

Đến khi thọ mạng hết rồi

Chung thân địa ngục đồng sôi, chão dầu!

 

Atha vāssa agārāni

aggi ḍahati pāvako,

kāyassa bhedā duppañño

nirayaṃ so’papajjati.

­œ

141.

Bằng cách lõa thể lang thang

Hoặc là bện tóc tro than trét mình

Hoặc như bôi mặt bùn sình

Hay là tuyệt thực tóp hình sậy khô

Tu gì đất bẩn nằm co

Lấm lem bụi dính, phết nhơ dọa người?

Ngồi xổm hoặc nhảy loi choi

Nhịn ăn, nín thở sống đời dị nhân!

Ấy là thanh lọc thân tâm?

Hoài nghi trừ diệt, thánh nhân đời này?!

Than ôi! Khổ hạnh đặt bày

Nhân khổ, quả khổ biết hay trí cuồng?!

 

Na naggacariyā na jaṭā na paṅkā

nānāsakā thaṇḍilasāyikā vā,

rajo ca jallaṃ ukkuṭikappadhānaṃ,

sodhenti maccaṃ avitiṇṇakaṅkhaṃ.

­œ

142.

Người kia dẫu đẹp phục trang

Sống đời thanh tịnh, tĩnh an tục trần

Sáu căn chế ngự tinh thuần

Sống đời phạm hạnh trong ngần pha lê

Bước trên chánh đạo mà về

Từ tâm vô lượng, chẳng hề trượng đao!

Tỳ-khưu, Phạm chí khác nào

Sa-môn, khất sĩ gọi sao cũng là!

 

Alaṅkato ce pi samaṃ careyya,

santo danto niyato brahmacārī,

sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ,

so brāhmaṇo so samaṇo sa bhikkhu.

­œ

143.

Hiếm thay người ở thế gian

Đã biết tự chế, lại càng tự khiêm!

Biết hổ thẹn, thoát chê gièm

Như con tuấn mã tài hiền tránh roi.

 

Hirīnisedho puriso

koci lokasmi vijjati,

yo niddaṃ apabodheti

asso bhadro kasāmiva.

­œ

144.

Ngựa hiền chỉ thấy bóng roi

Tinh cần, giới đức sáng ngời tín tâm

Định thiền, trạch pháp, tư tầm

Kiên trì, đạo hạnh trong ngần như gương

Đủ đầy chánh niệm lên đường

Những người như vậy, tai ương tận lìa!

 

Asso yathā bhadro kasāniviṭṭho

ātāpino saṃvegino bhavātha,

saddhāya sīlena ca vīriyena ca

samādhinā dhammavinicchayena ca,

sampannavijjācaraṇā patissatā

jahissatha dukkhamidaṃ anappakaṃ.

­œ

 

145.

Hãy xem dẫn nước, đào mương

Mũi tên khéo uốn thành đường thẳng ngay

Bánh xe tròn đẽo, tài hay!

Hành trì tốt đẹp, xứng thay, tự điều!

 

Udakaṃ hi nayanti nettikā

usukārā namayanti tejanaṃ,

dāruṃ namayanti tacchakā

attānaṃ damayanti subbatā.


([1])Hàm chỉ bậc Thánh.

([2])Hàm chỉ bậc Thánh.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
02 Tháng Hai 2015(Xem: 6539)
Giống như biển cả chỉ có một vị, đó là vị mặn của muối; cũng như thế, Giáo Pháp và Giới Luật chỉ có một vị, đó là hương vị giải thoát. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ sáu của Giáo Pháp và Giới Luật..
29 Tháng Giêng 2015(Xem: 6604)
Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai có hành động, lời nói, và ý nghĩ thiện lành vào buổi sáng, sẽ có một buổi sáng hạnh phúc.Bất cứ ai có hành động, lời nói, và ý nghĩ thiện lành vào buổi trưa, sẽ có một buổi trưa hạnh phúc.Bất cứ ai có hành động, lời nói, và ý nghĩ thiện lành vào buổi chiều, sẽ có một buổi chiều hạnh phúc.
21 Tháng Giêng 2015(Xem: 6371)
Bài kinh hay đúng hơn là bài thơ Sunita này đã được Gabriel 'Jivasattha' Bittar, một người tu tập theo Phật Giáo Theravada và cũng là giáo sư tiến sĩ khoa học giảng dạy về môn "Tiến hóa chủng loại" (Phylology) tại các đại học Genève và Lausanne (Thụy Sĩ), dịch sang tiếng Pháp vào khoảng năm 1998.
19 Tháng Giêng 2015(Xem: 8818)
Bài kinh này khá quan trọng và tinh tế tuy nhiên dường như ít nghe nói đến. Chữ Aggi của tựa bài kinh có nghĩa là ngọn lửa, và lửa thì mang tính cách thiêng liêng trong đạo Bà-la-môn cũng như Ấn Giáo sau này. Các học giả Tây Phương thường xem bản kinh này là một trong số các kinh quan trọng nêu lên tinh thần phi-bạo-lực của Phật Giáo.
07 Tháng Giêng 2015(Xem: 25395)
Trở lại câu hỏi, có MỘT quyển kinh nào, của Phật giáo, tương ưng đối tác với quyển Kinh Thánh của 3 tôn giáo lớn Tây phương hay không, câu trả lời là CÓ, một cách quyết xác và không do dự,
15 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 9294)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538)1, thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm. Với chiều dài lịch sử đó, đã khẳng định những cống hiến riêng có của lễ hội này, trong tiến trình phát triển văn hóa của nhân loại nói chung và của Phật giáo nói riêng. Tuy nhiên