Kinh Mở Rộng Tầm Hiểu Biết

12 Tháng Sáu 201415:33(Xem: 5727)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch
Đa Văn Phẩm Pháp Cú Kinh đệ tam

多聞品法句經第三十

Kinh Mở Rộng Tầm Hiểu Biết

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 3

Phẩm này có 19 bài kệ, nối tiếp chủ đề học hỏi và thực tập của phẩm trước và nhấn mạnh đến cái cần thiết của sự học hỏi. Tu thì phải học. Học hỏi đem tới ánh sáng của trí tuệ, có thể giải phóng cho ta ra khỏi lo lắng và u mê (bài kệ thứ 17). Bài thứ 19 nói rõ: phải quyết tâm buông bỏ cái si ám, cái kiêu mạn và cái thích thú muốn làm giàu. Tư lương của ta phải là trí tuệ, sự nghiệp của ta là tuệ giác, không phải là cơ sở và tiền bạc. Đây là tuệ giác ‘‘Duy tuệ thị nghiệp’’ của kinh Bát Đại Nhân Giác.

Bài k1

Đa văn năng trì cố 多 聞 能 持 固

Phụng pháp vi viên tường 奉 法 為 垣 牆

Tinh tấn nan du hủy 精 進 難 踰 毀

Tùng thị giới tuệ thành 從 是 戒 慧 成

Bền chí trong sự học hỏi thì có thể xây dựng được một bức tường thành vững chãi để phụng trì Phật pháp. Có được sự siêng năng ấy thì những vi phạm giới luật sẽ không xen vào được, và do đó mình thành tựu được giới và tuệ.

Bài kệ 2

Đa văn lệnh chí minh 多 聞 令 志 明

Dĩ minh trí tuệ tăng 已 明 智 慧 增

Trí tắc bác giải nghĩa 智 則 博 解 義

Kiến nghĩa hành pháp an 見 義 行 法 安

Học rộng thì tâm trí khai minh. Tâm trí khai minh thì tuệ giác tăng trưởng. Có trí tuệ thì sự học hỏi nghĩa lý sẽ trở nên rộng rãi. Hiểu được giáo nghĩa thì sự thực tập giáo pháp sẽ đi đúng con đường và mang tới bình an.

Bài kệ 3

Đa văn năng trừ ưu 多 聞 能 除 憂

Năng dĩ định vi hoan 能 以 定 為 歡 Thiện thuyết cam lộ pháp 善 說 甘 露 法

Tự trí đắc nê hoàn 自 致 得 泥 洹

Học rộng có thể giúp ta diệt trừ được lo lắng, sống hoan lạc trong định, thuyết giảng pháp cam lộ và tới được Niết Bàn.

Bài kệ 4

Văn vi tri pháp luật 聞 為 知 法 律

Giải nghi diệc kiến chánh 解 疑 亦 見 正

Tùng văn xả phi pháp 從 聞 捨 非 法

Hành đáo bất tử xứ 行 到 不 死 處

Nhờ học mà biết rõ được giáo pháp và luật nghi, giải trừ được nghi ngờ, đạt tới chánh kiến, nhờ học mà bỏ được những điều phi pháp và biết cách hành trì để đi tới cõi bất tử.

Bài kệ 5

Vi năng sư hiện đạo 為 能 師 現 道

Giải nghi lệnh học minh 解 疑 令 學 明

Diệc hưng thanh tịnh bổn 亦 興 清 淨 本

Năng phụng trì pháp tạng 能 奉 持 法 藏

Nhờ học mà làm được bậc thầy, thấy được đạo, hóa giải được nghi ngờ, làm cho tam học sáng chói. Cái học làm cho gốc rễ thanh tịnh được hưng khởi và giúp ta phụng trì được kho tàng chánh pháp.

Bài kệ 6

Năng nhiếp vi giải nghĩa 能 攝 為 解 義

Giải tắc nghĩa bất xuyên 解 則 義 不 穿

Thọ pháp ỷ pháp giả 受 法 猗 法 者

Tùng thị tật đắc an 從 是 疾 得 安

Nhờ có khả năng tập hợp kiến thức nên có thể giải bày được nghĩa lý của giáo pháp. Giải bày được thì nghĩa lý ấy không bị xuyên tạc, nhờ thế mà những người đang học hỏi giáo pháp với mình mau đạt tới chỗ an lạc.

Bài kệ 7

Nhược đa thiểu hữu văn 若 多 少 有 聞

Tự đại dĩ kiêu nhân 自 大 以 憍 人

Thị như manh chấp chúc 是 如 盲 執 燭

Chiếu bỉ bất tự minh 照 彼 不 自 明

Có những kẻ vừa thu lượm được một mớ kiến thức mà đã tự kiêu tự đại. Họ cũng giống như người mù cầm đuốc, đuốc soi cho người khác nhưng chính mình lại không thấy đường.

Bài kệ 8

Phu cầu tước vị tài 夫 求 爵 位 財

Tôn quý thăng thiên phước 尊 貴 升 天 福

Biện tuệ thế gian hãn 辯 慧 世 間 悍

Tư văn vi đệ nhất 斯 聞 為 第 一

Ở đời, nhờ sức học mà người ta tìm cầu được chức tước, địa vị, sự giàu sang, sự tôn kính của kẻ khác và cả những phúc đức được siêu sinh lên cõi trời. Bởi vì cái học hỏi có khả năng đưa tới trí huệ, biện tài và thế lực trong nhân gian.

Bài kệ 9

Đế vương sính lễ văn 帝 王 聘 禮 聞

Thiên thượng thiên diệc nhiên 天 上 天 亦 然

Văn vi đệ nhất tạng 聞 為 第 一 藏

Tối phú lữ lực cường 最 富 旅 力 強

Chính vua chúa cũng kính trọng người học rộng, chư thiên ở cõi trời cũng thế. Kiến thức là kho tàng quý giá bậc nhất. Đó là một kho tàng, một sức mạnh.

Bài kệ 10

Trí giả vi văn khuất 智 者 為 聞 屈

Hảo đạo giả diệc lạc 好 道 者 亦 樂

Vương giả tận tâm sự 王 者 盡 心 事

Tuy Thích Phạm diệc nhiên 雖 釋 梵 亦 然

Các bậc trí giả cũng kính nể người có học. Kẻ mến đạo cũng ưa thích người có học. Các bậc vương giả cũng hết lòng giúp đỡ kẻ có học. Những bậc Thích tử và Phạm Chí cũng thế.

Bài kệ 11

Tiên nhân thường kính văn 仙 人 常 敬 聞

Huống quý cự phú nhân 況 貴 巨 富 人

Thị dĩ tuệ vi quý 是 以 慧 為 貴

Khả lễ vô quá thị 可 禮 無 過 是

Cả hai giới thiên và nhân đều kính nể người có học huống là giới cự phú. Do đó ta biết kiến thức là cái quý giá và cung kính người có học không phải là một cái gì quá đáng.

Bài kệ 12

Sự nhật vi minh cố 事 日 為 明 故

Sự phụ vi ân cố 事 父 為 恩 故

Sự quân dĩ lực cố 事 君 以 力 故

Văn cố sự đạo nhân 聞 故 事 道 人

Thờ mặt trời tại vì mặt trời cho ánh sáng, thờ vua vì vua có quyền lực, thờ cha vì cha có ân sinh thành và nuôi dưỡng, quy kính bậc đạo nhân vì bậc đạo nhân có học.

Bài kệ 13

Nhân vi mạng sự y 人 為 命 事 醫

Dục thắng y hào cường 欲 勝 依 豪 強

Pháp tại trí tuệ xứ 法 在 智 慧 處

Phước hạnh thế thế minh 福 行 世 世 明

Vì mạng sống mà người ta phải cầu khẩn lương y, vì muốn thắng cho nên người ta phải dựa vào kẻ mạnh, giáo pháp có mặt nơi nào tuệ giác có mặt, nhờ thế mà phước đức đời đời chiếu sáng.

Bài kệ 14

Sát hữu tại vi mưu 察 友 在 為 謀 Biệt bạn tại cấp thời 別 伴 在 急 時

Quán thê tại phòng lạc 觀 妻 在 房 樂

Dục tri trí tại thuyết 欲 知 智 在 說

Tìm hiểu bằng hữu bằng cách nhận diện mưu trí của họ, phân biệt được bạn hay thù là nhờ ở những lúc nguy cấp, xem mặt vợ tương lai là ở những lúc đang xảy ra sự vui chơi, biết được ai là kẻ trí là do khi nghe họ nói.

Bài kệ 15

Văn vi kim thế lợi 聞 為 今 世 利

Thê tử côn đệ hữu 妻 子 昆 弟 友

Diệc trí hậu thế phước 亦 致 後 世 福

Tích văn thành thánh trí 積 聞 成 聖 智

Học hỏi là có lợi ích cho kiếp sống hiện tại, nhờ đó mà tìm được vợ hiền, có được con khôn, anh em và bè bạn tốt. Học hỏi cũng để lại phước đức cho đời sau. Nhờ học hỏi liên tục mà người ta đạt tới thánh trí.

Bài kệ 16

Thị năng tán ưu khuể 是 能 散 憂 恚

Diệc trừ bất tường suy 亦 除 不 祥 衰

Dục đắc an ổn cát 欲 得 安 隱 吉

Đương sự đa văn giả 當 事 多 聞 者

Nếu muốn vượt lo lắng và hoạn nạn, nếu muốn tránh những điều rủi ro, suy nhược, nếu muốn được an lành và may mắn thì phải biết thân cận người có học.

Bài kệ 17

Chước sang vô quá ưu 斫 創 無 過 憂

Xạ tiễn vô quá ngu 射 箭 無 過 愚

Thị tráng mạc năng bạt 是 壯 莫 能 拔

Duy tùng đa văn trừ 唯 從 多 聞 除

Không có thương tích nào đau nhức bằng sự lo lắng, không có mũi tên nào cắm sâu bằng cái u mê. Nếu không có sức mạnh của kiến thức học hỏi thì không thể nhổ được những cái ấy ra khỏi cơ thể.

Bài kệ 18

Manh tùng thị đắc nhãn 盲 從 是 得 眼

Ám giả tùng đắc chúc 闇 者 從 得 燭

Diệc đạo thế gian nhân 亦 導 世 間 人

Như mục tương vô mục 如 目 將 無 目

Người mù nhờ cái học mà có con mắt, sự tối ám nhờ cái học mà có ngọn đuốc, cái học giúp cho ta dẫn đường được cho thế gian như người có mắt đưa đường được cho những người không có mắt.

Bài kệ 19

Thị cố khả xả si 是 故 可 捨 癡

Ly mạn hào phú lạc 離 慢 豪 富 樂

Vụ học sự văn giả 務 學 事 聞 者

Thị danh tích tụ đức 是 名 積 聚 德

Vì vậy cho nên ta phải quyết tâm buông bỏ cái si ám, cái kiêu mạn và cái thích thú muốn làm giàu, hết lòng học hỏi và thân cận các bậc tri thức. Đây mới thật là công việc tu nhân tích đức.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14770)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11877)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12382)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12065)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12045)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7928)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8500)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9115)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10129)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.