Kinh Quả Báo

13 Tháng Sáu 201403:23(Xem: 6152)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Ác Hành Phẩm Pháp Cú Kinh đệ thập thất

惡行品法句經第十七

Kinh Quả Báo

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 17

 

Phẩm này có 22 bài kệ. Ác hành (pāpa) là hành động xấu ác.

 

Bài kệ 1

Kiến thiện bất tùng 見 善 不 從

Phản tùy ác tâm 反 隨 惡 心

Cầu phước bất chánh 求 福 不 正

Phản lạc tà dâm 反 樂 邪 婬

 

Thấy cái lành không đi theo, lại để tâm đi theo cái ác, đi tìm hạnh phúc một cách sai lạc thì đã không có hạnh phúc mà lại còn bị lạc vào chuyện tà dâm.

 

Bài kệ 2

Phàm nhân vi ác 凡 人 為 惡

Bất năng tự giác 不 能 自 覺

Ngu si khoái ý 愚 癡 快 意

Lệnh hậu uất độc 令 後 欝 毒

 

Thường thường, người làm điều sai trái thì không có khả năng tự giác, kẻ ngu si cứ tiếp tục chạy theo khoái lạc, sau này sẽ hứng chịu sự dồn chứa của những cái độc hại.

 

Bài kệ 3

Hung nhân hành ngược 凶 人 行 虐

Trầm tiệm sác sác 沈 漸 數 數

Khoái dục vi nhân 快 欲 為 人

Tội báo tự nhiên 罪 報 自 然

 

Kẻ hung ác cứ tiếp tục làm điều bạo ngược và có thích thú trong khi làm như thế thì tội báo sẽ tự nhiên tới.

 

Bài kệ 4

Cát nhân hành đức 吉 人 行 德

Tướng tùy tích tăng 相 隨 積 增

Cam tâm vi chi 甘 心 為 之

Phước ưng tự nhiên 福 應 自 然

 

Người hiền làm chuyện phúc đức, càng ngày càng tích lũy thêm điều lành, có niềm vui khi làm như thế thì phúc đức sẽ tự nhiên tới.

Bài kệ 5

Yêu nghiệt kiến phước 妖 孽 見 福

Kỳ ác vị thục 其 惡 未 熟

Chí kỳ ác thục 至 其 惡 熟

Tự thọ tội ngược 自 受 罪 虐

 

Mình làm việc yêu nghiệt mà tưởng là đang có phúc, trong khi các quả báo xấu của hành động ác kia chưa chín. Khi nó chín rồi thì mình mới nhận chịu tội báo.

 

Bài kệ 6

Trinh tường kiến họa 貞 祥 見 禍

Kỳ thiện vị thục 其 善 未 熟

Chí kỳ thiện thục 至 其 善 熟

Tất thọ kỳ phước 必 受 其 福

 

Làm việc lành mà vẫn thấy phải chịu đựng hoàn cảnh khó khăn, đó là kết quả việc lành chưa chín. Khi nó chín rồi thì mình sẽ được hưởng cái phúc báo của việc làm ấy đem lại.

Bài kệ 7

Kích nhân đắc kích 擊 人 得 擊

Hành oán đắc oán 行 怨 得 怨

Mạ nhân đắc mạ 罵 人 得 罵

Thí nộ đắc nộ 施 怒 得 怒

 

Đánh người thì bị người đánh, gây oán thì chịu oán, mắng chửi người thì bị người mắng chửi lại, giận người thì bị người giận lại.

 

Bài kệ 8

Thế nhân vô văn 世 人 無 聞

Bất tri chánh pháp 不 知 正 法

Sanh thử thọ thiểu 生 此 壽 少

Hà nghi vi ác 何 宜 為 惡

 

Người đời vì không học hỏi cho nên không biết chánh pháp. Phải biết rằng mạng sống trong đời ngắn ngủi, tại sao mình lại đi làm chuyện ác độc?

 

Bài kệ 9

Mạc khinh tiểu ác 莫 輕 小 惡

Dĩ vi vô ương 以 為 無 殃

Thủy đế tuy vi 水 渧 雖 微

Tiệm doanh đại khí 漸 盈 大 器

Phàm tội sung mãn 凡 罪 充 滿

Tùng tiểu tích thành 從 小 積 成

 

Đừng xem thường những cái ác nhỏ, cho chúng là không nguy hiểm. Nước nhỏ giọt tuy ít nhưng dần dần bình lớn cũng đầy tràn. Thói thường cái ác mà đầy tràn là do những cái ác nhỏ hàng ngày tích tụ mà thành.

 

Bài kệ 10

Mạc khinh tiểu thiện 莫 輕 小 善

Dĩ vi vô phước 以 為 無 福

Thủy tích tuy vi 水 滴 雖 微

Tiệm doanh đại khí 漸 盈 大 器

Phàm phước sung mãn 凡 福 充 滿

Tùng tiêm tiêm tích 從 纖 纖 積

 

Đừng xem thường cái thiện nhỏ, cho nó là không phải phước đức. Nước giọt tuy ít nhưng lâu cũng đầy bình lớn, nếu phước đức sung mãn là do tích lũy từng chút lâu ngày.

 

Bài kệ 11

Phu sĩ vi hành 夫 士 為 行

Hảo chi dữ ác 好 之 與 惡

Các tự vi thân 各 自 為 身

Chung bất bại vong 終 不 敗 亡

 

Những kẻ phàm phu ưa làm việc ác, phải biết hành động ác nào cũng trở về tự thân, không có cái nào rơi mất.

 

Bài kệ 12

Hảo thủ chi sĩ 好 取 之 士

Tự dĩ vi khả 自 以 為 可

Một thủ bỉ giả 沒 取 彼 者

Nhân diệc một chi 人 亦 沒 之

 

Những bậc hảo nhân tự mình làm hết khả năng của mình, không mưu toan chiếm đoạt của kẻ khác thì kẻ khác cũng sẽ không mưu toan chiếm đoạt của mình.

 

Bài kệ 13

Ác bất tức thời 惡 不 即 時

Như cấu ngưu nhũ 如 搆 牛 乳

Tội tại ấm từ 罪 在 陰 祠

Như hôi phúc hỏa 如 灰 覆 火

 

Kết quả của cái ác không đến tức thời như sữa không đóng thành tô ngay được. Tội ác nằm âm ỉ như lửa nằm trong bếp tro.

 

Bài kệ 14

Hí tiếu vi ác 戲 笑 為 惡

Dĩ tác thân hành 以 作 身 行

Hiệu khấp thọ báo 號 泣 受 報

Tùy hành tội chí 隨 行 罪 至

 

Vui giỡn trong khi làm ác, tự mình tạo tác, sau này sẽ phải khóc than mà nhận chịu quả báo của cái tội đi theo cái hành động ác của mình.

 

Bài kệ 15

Tác ác bất phú 作 惡 不 覆

Như binh sở tiệt 如 兵 所 截

Khiên vãng nãi tri 牽 往 乃 知

Dĩ đọa ác hành 已 墮 惡 行

Hậu thọ khổ báo 後 受 苦 報

Như tiền sở tập 如 前 所 習

Làm ác không che giấu cũng như một toán quân sau khi bị chận đánh và áp giải làm tù binh mới biết là mình bị thua. Những hành động tàn ác thế nào cũng đưa tới quả báo khổ đau sau này.

 

Bài kệ 16

Như độc ma sang 如 毒 摩 瘡

Thuyền nhập hồi phúc 船 入 洄 澓

Ác hành lưu diễn 惡 行 流 衍

Mĩ bất thương khắc 靡 不 傷 尅

 

Như vết thương bị chất độc thấm vào, như chiếc thuyền đang đi vào vùng biển nguy hiểm, hành động độc ác cứ tiếp tục lưu diễn, không nơi nào là không tạo ra xung khắc và đau thương.

Bài kệ 17

Gia ác vu võng nhân 加 惡 誣 罔 人

Thanh bạch do bất ô 清 白 猶 不 污

Ngu ương phản tự cập 愚 殃 反 自 及

Như trần nghịch phong bộn 如 塵 逆 風 坌

 

Người ác vu cáo muốn làm hại người thanh bạch và không ô nhiễm thì tai ương sẽ trở lại hại mình, như tung bụi vào người khác khi ngược gió.

Bài kệ 18

Quá thất phạm phi ác 過 失 犯 非 惡

Năng truy hối vi thiện 能 追 悔 為 善 Thị minh chiếu thế gian 是 明 照 世 間

Như nhật vô vân ê 如 日 無 雲 曀

 

Người nào trong quá khứ đã lỡ có lỗi lầm, đã lỡ làm những điều không phải, mà bây giờ có khả năng hối hận bỏ ác làm lành, thì cũng như một mặt trời vượt ra khỏi các đám mây, chiếu sáng được cho thế gian.

 

Bài kệ 19

Phu sĩ sở dĩ hành 夫 士 所 以 行

Nhiên hậu thân tự kiến 然 後 身 自 見

Vi thiện tắc đắc thiện 為 善 則 得 善

Vi ác tắc đắc ác 為 惡 則 得 惡

 

Nhìn vào hành động của mình, mình có thể tự thấy được sự thực: làm thiện thì được thiện, làm ác thì gặp ác.

Bài kệ 20

Hữu thức đọa bào thai 有 識 墮 胞 胎

Ác giả nhập địa ngục 惡 者 入 地 獄

Hành thiện thượng thăng thiên 行 善 上 昇 天

Vô vi đắc nê hoàn 無 為 得 泥 洹

 

Thần thức đi luân hồi, kẻ ác vào địa ngục, người hiền sinh lên cõi trời. Thực tập đi vào được trạng thái vô vi thì chứng đắc Niết bàn.

 

Bài kệ 21

Phi không phi hải trung 非 空 非 海 中

Phi ẩn sơn thạch gian 非 隱 山 石 間 Mạc năng ư thử xứ 莫 能 於 此 處

Tị miễn túc ác ương 避 免 宿 惡 殃

 

Không phải ở trên trời cao, không phải ở dưới biển sâu, không phải ở trong hốc núi đá mà có thể tránh được nghiệp báo tai ương mình đã tạo ra.

 

Bài kệ 22

Chúng sanh hữu khổ não 眾 生 有 苦 惱

Bất đắc miễn lão tử 不 得 免 老 死

Duy hữu nhân trí giả 唯 有 仁 智 者

Bất niệm nhân phi ác 不 念 人 非 惡

 

Chúng sinh có khổ não chưa thoát ra khỏi cái già cái chết, chỉ có bậc nhân trí mới vượt thoát được ý niệm về thiện ác.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14791)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11885)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12400)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12094)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12065)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7959)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8516)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9132)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10141)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.