Kinh Thực Tập Quán Niệm

12 Tháng Sáu 201415:47(Xem: 5606)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Duy Niệm Phẩm Pháp Cú Kinh đệ lục

惟 念 品 法 句 經 第 六

Kinh Thực Tập Quán Niệm

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 6

Phẩm này tuy ghi là có 12 bài kệ, nhưng thật ra là có tới 13 bài. Bài thứ 1 nói về phép quán niệm hơi thở. Bài thứ 2 nói về hai yếu tố của sự thực tập thiền định, đó là chỉ và quán. Chỉ là dừng lại, là làm cho lắng dịu, là tập trung tâm ý. Quán là nhìn sâu vào đối tượng mình đang quán chiếu: đó có thể là hơi thở, là hình hài, là cảm thọ, là tâm ý, hoặc là các pháp đối tượng của tâm ý. Bài thứ 4 nói về quán thân, bài thứ 7 nói về quán tâm, bài 11, 12 và 13 nói về các phép tùy niệm: niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Vô Thường và niệm Bố Thí. Ta để ý thì không có niệm Thiên. Bài thứ 13 cũng nói tới ba phép niệm căn bản để đi tới giải thoát (tam giải thoát môn) là quán Không, quán Vô tướng và quán Vô nguyện, tức là Vô tác. Bài kệ thứ 7 lấy lại hai câu chót của bài kệ thứ 6 (Nhược năng ngộ ý niệm, tri giải nhất tâm lạc) và thêm vào hai câu nữa (ưng thời đẳng hành pháp, thị độ sinh tử não). Vì vậy cho nên trong khi sao chép, người sao chép đã bỏ mất hai câu lặp lại, tưởng đó là dư thừa, cho nên trong nguyên văn chữ Hán, bài kệ thứ 6 có tới sáu dòng thay vì bốn dòng. Vì vậy đếm lại chỉ thấy có 12 bài kệ trong khi đó thực sự là 13. Bài kệ thứ bảy như sau:

Nhược năng ngộ ý niệm

Tri giải nhất tâm lạc

Ưng thời đẳng hành pháp

Thị độ lão tử não.

Sở dĩ ta phục hồi được bài kệ này là nhờ có kinh Pháp Tập Yếu Tụng. Kinh này đã sử dụng bản dịch của kinh Pháp Cú và trong khi sao chép đã không đánh mất hai câu tưởng như là trùng lặp mà không phải trùng lặp.

Phẩm này liệt kê được những phép thiền quán căn bản của đạo Bụt nguyên thỉ, được sử dụng chung cho các tông phái Phật giáo: Duy có phép tu Từ quán chưa nhắc tới, và sẽ được nhắc tới ở phẩm sau.

Bài kệ 1

Xuất tức nhập tức niệm 出 息 入 息 念

Cụ mãn đế tư tánh 具 滿 諦 思 惟

Tùng sơ cánh thông lợi 從 初 竟 通 利

An như Phật sở thuyết 安 如 佛 所 說

Phép tu quán niệm hơi thở vào ra nếu làm cho đến nơi đến chốn thì có thể đem lại sự thực chứng Chân Đế. Ngay buổi đầu thực tập cho đến khi thành tựu viên mãn luôn luôn có sự thông thoáng lợi ích. Phép thực tập này sẽ đem lại sự bình an như Bụt đã nói.

Bài kệ 2

Thị tắc chiếu thế gian 是 則 照 世 間

Như vân giải nguyệt hiện 如 雲 解 月 現

Khởi chỉ học tư duy 起 止 學 思 惟

Tọa ngọa bất phế vong 坐 臥 不 廢 忘

Phát khởi công phu thực tập chỉ và quán trong lúc ngồi cũng như trong lúc nằm, không lúc nào bỏ quên, sẽ làm phát sinh ra ánh sáng chiếu rọi trong thế gian, như mây tan trăng hiện.

Bài kệ 3

Tỳ-kheo lập thị niệm 比 丘 立 是 念

Tiền lợi hậu tức thắng 前 利 後 則 勝

Thủy đắc chung tất thắng 始 得 終 必 勝

Thệ bất đổ sanh tử 逝 不 覩 生 死

Vị tỳ kheo thiết lập được các pháp chánh niệm này sẽ được hưởng lợi lạc ngay trong lúc ban đầu thực tập, sau đó thì công phu càng ngày càng trở nên vững chãi. Hoa trái của công phu cũng càng ngày càng trở nên thù thắng. Công phu này sẽ giúp bậc hiền giả vượt qua được dòng sinh tử.

Bài kệ 4

Nhược kiến thân sở trụ 若 見 身 所 住

Lục cánh dĩ vi tối 六 更 以 為 最

Tỳ-kheo thường nhất tâm 比 丘 常 一 心

Tiện tự tri nê hoàn 便 自 知 泥 洹

Thành tựu được phép quán niệm về thân rồi thì hành giả sẽ nhiếp niệm được cả sáu giác quan. Duy trì được trạng thái nhất tâm, thì vị tỳ khưu có thể thực chứng được Niết Bàn.

Bài kệ 5

Dĩ hữu thị chư niệm 已 有 是 諸 念

Tự thân thường kiến hành 自 身 常 建 行

Nhược kỳ bất như thị 若 其 不 如 是

Chung bất đắc ý hành 終 不 得 意 行

Thực tập thành công các pháp quán niệm ấy thì tự thân sẽ thường xuyên đạt được trạng thái kiện hành. Chưa được như thế thì vẫn còn chưa cảm thấy thoải mái hoàn toàn.

Bài kệ 6

Thị tùy bổn hành giả 是 隨 本 行 者

Như thị độ ái lao 如 是 度 愛 勞

Nhược năng ngộ ý niệm 若 能 悟 意 念

Tri giải nhất tâm lạc 知 解 一 心 樂

Ai thực tập theo được các pháp môn căn bản này thì có thể vượt thoát được biển trần lao của ái dục. Ai có khả năng nhận diện được những tâm hành của mình (khi chúng phát hiện) sẽ có khả năng hiểu được (bản chất) của các tâm hành ấy và đạt tới được niềm hoan lạc do sức định của nhất tâm đem tới.

Bài kệ 7

Nhược năng ngộ ý niệm 若 能 悟 意 念

Tri giải nhất tâm lạc 知 解 一 心 樂

Ưng thời đẳng hành pháp 應 時 等 行 法

Thị độ lão tử não 是 度 老 死 惱

Nếu có khả năng nhận diện được các tâm hành thì sẽ đạt tới giải thoát và hưởng được những pháp lạc do cái định của nhất tâm đem lại. Nếu thực tập được đúng lúc và đều đặn thì sẽ vượt thoát được phiền não trong cuộc sinh tử.

Bài kệ 8

Tỳ-kheo ngộ ý hành 比 丘 悟 意 行

Đương lệnh ưng thị niệm 當 令 應 是 念

Chư niệm sanh tử khí 諸 念 生 死 棄

Vi năng tác khổ tế 為 能 作 苦 際

Vị tỳ kheo ý thức được các tâm hành và làm cho tâm mình tương ưng với chánh niệm thì sẽ có khả năng buông bỏ được các ý niệm, như ý niệm sinh tử v.v.. và vượt thoát được thế giới khổ đau.

Bài kệ 9

Thường đương thính vi diệu 常 當 聽 微 妙

Tự giác ngộ kỳ ý 自 覺 悟 其 意

Năng giác giả vi hiền 能 覺 者 為 賢

Chung thủy vô sở hội 終 始 無 所 會

Ta hãy thường nên học hỏi giáo pháp vi diệu (của Bụt) và giác ngộ được ý chỉ (thâm sâu) của các giáo pháp ấy. Có giác ngộ như thế mới có thể gọi là bậc hiền giả, trước sau không còn bị sự sợ hãi trấn ngự.

Bài kệ 10

Dĩ giác ý năng ưng 以 覺 意 能 應

Nhật dạ vụ học hành 日 夜 務 學 行

Đương giải cam lồ yếu 當 解 甘 露 要

Lệnh chư lậu đắc tận 令 諸 漏 得 盡

Để tâm tương ưng với chánh niệm, đêm ngày thực tập chuyên cần như thế, thì sẽ liễu giải được yếu chỉ Cam Lộ và làm cho tất cả các lậu hoặc chấm dứt.

Bài kệ 11

Phu nhân đắc thiện lợi 夫 人 得 善 利

Nãi lai tự quy Phật 乃 來 自 歸 佛

Thị cố đương trú dạ 是 故 當 晝 夜

Thường niệm Phật Pháp Chúng 常 念 佛 法 眾

Ai có được cơ duyên lành và cơ hội thuận lợi thì nên thực tập ngay phép quy y Bụt, đêm ngày niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng.

Bài kệ 12

Kỷ tri tự giác ý 己 知 自 覺 意

Thị vi Phật đệ tử 是 為 佛 弟 子

Thường đương trú dạ niệm 常 當 晝 夜 念

Phật dữ Pháp cập Tăng 佛 與 法 及 僧

Đã là một người con Bụt thì phải nuôi dưỡng tâm tự giác, đêm ngày thực tập phát khởi và duy trì chánh niệm về Bụt, Pháp và Tăng.

Bài kệ 13

Niệm thân niệm phi thường 念 身 念 非 常

Niệm giới bố thí đức 念 戒 布 施 德

Không bất nguyện vô tướng 空 不 願 無 相

Trú dạ đương niệm thị 晝 夜 當 念 是

Hãy tinh chuyên thực tập các phép quán niệm về Thân, về Vô Thường, về Giới, về Bố Thí, về Không, về Vô Tướng và về Vô Nguyện, đêm cũng như ngày.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14813)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11901)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12427)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12118)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12106)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7980)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8546)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9161)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10164)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.