Kinh Bất Hại

13 Tháng Sáu 201403:26(Xem: 5934)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Đao Trượng Phẩm Pháp Cú Kinh đệ thập bát

刀杖品法句經第十八

Kinh Bất Hại

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 18

 

Phẩm này có 12 bài kệ. Đao trượng là vũ khí, là bạo lực, tiếng Pali là danda. Kinh này nói về sự thực tập bất bạo động, bất hại (ahimsa). Ba bài kệ đầu nói về tâm lý bất hại: Thấy được cái khổ của người khác thì mình có thể buông bỏ được ý muốn trừng phạt. Ba bài kệ kế tiếp nói về lời nói bất hại. Những bài sau nói về hành động bất hại. Các bài thứ 9 và 10 cho ta biết muốn nuôi dưỡng tâm từ bi và thực tập bất hại, thì phải có tâm tàm quý, biết hổ thẹn, phải có đức tin, phải hành trì giới luật, thiền tập và tinh cần. Bài 12 kết luận: Thực tập bất hại sẽ không có kẻ thù.

Bài kệ 1

Nhất thiết giai cụ tử 一 切 皆 懼 死

Mạc bất úy trượng thống 莫 不 畏 杖 痛

Thứ kỷ khả vi thí 恕 己 可 為 譬

Vật sát vật hành trượng 勿 殺 勿 行 杖

 

Ai cũng sợ chết, không ai không sợ cái đau đớn do vũ khí gây ra. Hãy quán sát để thấy người ta ai cũng có cái sợ như mình, để có thể ngừng lại sự sát hại và buông bỏ ý tưởng trừng phạt.

 

Bài kệ 2

Năng thường an quần sanh 能 常 安 群 生

Bất gia chư sở độc 不 加 諸 楚 毒

Hiện thế bất phùng hại 現 世 不 逢 害

Hậu thế trường an ẩn 後 世 長 安 隱

 

Hãy luôn luôn có ý muốn đem tới sự an lành cho quần sinh, mà đừng đem tới thêm cho họ những tổn hại của bạo động. Để cho trong hiện tại không ai bị tàn hại và để cho sau này ai cũng được sống an ổn lâu dài.

Bài kệ 3

Bất đương thô ngôn 不 當 麤 言

Ngôn đương úy báo 言 當 畏 報

Ác vãng họa lai 惡 往 禍 來

Đao trượng quy khu 刀 杖 歸 軀

 

Đừng nói lời thô ác với ai. Khi nói phải thấy được hậu quả của lời nói mình. Lời nói ác nào được phát ra cũng sẽ đem tai họa tới, và gươm giáo sẽ trở về hủy hoại chính thân thể mình.

 

Bài kệ 4

Xuất ngôn dĩ thiện 出 言 以 善

Như khấu chung khánh 如 叩 鐘 磬

Thân vô luận nghị 身 無 論 議

Độ thế tắc dị 度 世 則 易

 

Khi nói chỉ nên sử dụng những lời lành. Như một cái chuông câm, nên chấm dứt mọi tranh luận. Như thế ta sẽ độ đời dễ dàng hơn.

 

Bài kệ 5

Âu trượng lương thiện 歐 杖 良 善

Vọng sàm vô tội 妄 讒 無 罪

Kỳ ương thập bội 其 殃 十 倍

Tai tấn vô xá 災 迅 無 赦

Sát hại người hiền lương, dèm pha kẻ vô tội, tai ương sẽ trở về với mình mười lần lớn hơn, và khi quả báo về tới, không có cách gì tránh thoát hay giải cứu.

Bài kệ 6

Sanh thọ khốc thống 生 受 酷 痛

Hình thể hủy chiết 形 體 毀 折

Tự nhiên não bệnh 自 然 惱 病

Thất ý hoảng hốt 失 意 恍 惚

Nhân sở vu cữu 人 所 誣 咎

Hoặc huyền quan ách 或 縣 官 厄

Tài sản háo tận 財 產 耗 盡

Thân thích ly biệt 親 戚 離 別

Xá trạch sở hữu 舍 宅 所 有

Tai hỏa phần thiêu 災 火 焚 燒

Tử nhập địa ngục 死 入 地 獄

Như thị vi thập 如 是 為 十

 

Người hành xử bạo động thì kiếp sau khi sinh ra sẽ gánh chịu mười thứ hoạn nạn: đau nhức dữ dội, hình hài tật nguyền, đột nhiên mà bị khổ bệnh, quên lãng, hoảng hốt, bị người ta vu cáo oan ức, bị giam cầm tù đày, tài sản tiêu tán, nhà cửa và gia sản tan nát, thân thích biệt ly, đi tiêu chảy và khi chết thì đi vào địa ngục.

Bài kệ 7

Tuy khỏa tiễn phát 雖 倮 剪 髮

Trường phục thảo y 長 服 草 衣

Mộc dục cứ thạch 沐 浴 踞 石

Nại si kết hà 奈 癡 結 何

 

Dù có bện tóc, dù chỉ mặc áo cỏ suốt ngày, dù có ngồi xẩm trên tảng đá, hoặc đi tắm gội mỗi ngày (dưới sông Hằng) cũng không thể nào diệt trừ được những khối si mê của mình.

 

Bài kệ 8

Bất phạt sát thiêu 不 伐 殺 燒

Diệc bất cầu thắng 亦 不 求 勝 

Nhân ái thiên hạ 人 愛 天 下

Sở thích vô oán 所 適 無 怨

 

Không trừng phạt, không giết hại, không đốt cháy, cũng không mong cầu vượt thắng kẻ khác, biết thương yêu mọi người thì sẽ cảm thấy thoải mái không còn oán hận.

Bài kệ 9

Thế đảng hữu nhân 世 黨 有 人

Năng tri tàm quý 能 知 慚 愧

Thị danh dụ tấn 是 名 誘 進

Như sách lương mã 如 策 良 馬

 

Trên đời có những người biết tàm biết quý: những người ấy có cơ hội được khuyên bảo và sách tn dễ dàng, giống như con ngựa giỏi khi có cây roi chạm nhẹ vào.

Bài kệ 10

Như sách thiện mã 如 策 善 馬

Tiến đạo năng viễn 進 道 能 遠

Nhân hữu tín giới 人 有 信 戒

Định ý tinh tấn 定 意 精 進

Thọ đạo tuệ thành 受 道 慧 成

Tiện diệt chúng khổ 便 滅 眾 苦

 

Như chạm nhẹ cây roi vào con ngựa giỏi có thể làm cho nó đi tới, đi xa. Kẻ nào có tín, có giới, có định, có tinh cần, thì sẽ học tập và thành tựu tuệ giác dễ dàng, sẽ có khả năng diệt trừ được mọi khổ não.

 

Bài kệ 11

Tự nghiêm dĩ tu pháp 自 嚴 以 修 法

Diệt tổn thọ tịnh hạnh 滅 損 受 淨 行

Trượng bất gia quần sanh 杖 不 加 群 生

Thị sa môn đạo nhân 是 沙 門 道 人

 

Lấy sự thực tập để làm đẹp cho chính mình, không làm tổn hại đến sinh mạng của ai, sống đời tịnh hạnh, không hành xử bạo động đối với các loài chúng sinh, đó đích thực là bậc sa môn đạo nhân.

 

Bài kệ 12

Vô hại ư thiên hạ 無 害 於 天 下

Chung thân bất ngộ hại 終 身 不 遇 害

Thường từ ư nhất thiết 常 慈 於 一 切

Thục năng dữ vi oán 孰 能 與 為 怨

 

Thường biết thực tập phép bất hại, thì suốt đời mình sẽ không bị hại. Nếu cứ tiếp tục hành xử với lòng từ bi đối với tất cả, thì không còn có ai sẽ là kẻ thù của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14770)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11877)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12384)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12068)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12045)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7929)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8500)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9118)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10130)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.