Kinh Phụng Trì

13 Tháng Sáu 201415:35(Xem: 5592)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Phụng Trì Phẩm Pháp Cú Kinh đệ nhị thập thất

奉持品法句經第二十七

Kinh Phụng Trì

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 27

 

Phẩm này có 15 bài kệ. Phụng trì có nghĩa là vâng theo lời chỉ giáo và thực tập theo những lời chỉ giáo ấy. Các bài kệ thứ 3 và thứ 4 dạy ta thực tập mà đừng ham lý luận và phô trương kiến thức, dù là kiến thức Phật học. Bài 12 dạy rằng sự im lặng chưa hẳn đã là dấu hiệu của minh triết: im lặng chỉ là cái vỏ minh triết nếu bên trong tâm ý còn có những dự tính không trong sáng. Bài 13 định nghĩa một vị Mâu ni: đạt được vô vi, tâm ý thanh khiết, không còn vướng bận, an trú Niết bàn trong giây phút hiện tại.

Các bài 5, 6, 7, 8, 9, 10 và 11 cho thấy thế nào là một vị xuất gia đích thực.

 

Bài kệ 1

Hảo kinh đạo giả 好 經 道 者

Bất cạnh ư lợi 不 競 於 利

Hữu lợi vô lợi 有 利 無 利

Vô dục bất hoặc 無 欲 不 惑

 

Người ưa thích học kinh và hành đạo thì không ham tranh đua về mặt lợi lộc. Dù những cái kia có lợi hay không có lợi thì mình cũng không ham muốn chạy theo, không bị mê hoặc bởi chúng.

 

Bài k 2

Thường mẫn hảo học 常 愍 好 學

Chánh tâm dĩ hành 正 心 以 行

Ủng hoài bảo tuệ 擁 懷 寶 慧

Thị vị vi đạo 是 謂 為 道

 

Thường có tâm lân mẫn, ưa tu tập học hỏi, đem tâm chính trực của mình để hành trì, ôm ấp chí nguyện đạt tới kho tàng quý báu của tuệ giác, như thế mới gọi là kẻ hành đạo chân chính.

 

Bài k3

Sở vị trí giả 所 謂 智 者

Bất tất biện ngôn 不 必 辯 言

Vô khủng vô cụ 無 恐 無 懼

Thủ thiện vi trí 守 善 為 智

 

Người có trí không phải là người ưa biện luận. Không hề sợ hãi, luôn luôn biết bảo hộ cái thiện, đó mới là người trí.

 

Bài kệ 4

Phụng trì Pháp giả 奉 持 法 者

Bất dĩ đa ngôn 不 以 多 言

Tuy tố thiểu văn 雖 素 少 聞

Thân y Pháp hành 身 依 法 行

 

Người tu đích thực đang thực sự phụng trì chánh pháp không hẳn là người đang nói nhiều về Phật pháp. Có thể kiến thức Phật pháp của người ấy còn ít, nhưng người ấy đang thực sự nương tựa vào chánh pháp để hành trì.

Bài k 5

Thủ đạo bất kị 守 道 不 忌

Khả vị phụng Pháp 可 謂 奉 法

Sở vị lão giả 所 謂 老 者

Bất tất niên kì 不 必 年 耆

Hình thục phát bạch 形 熟 髮 白

Xuẩn ngu nhi dĩ 憃 愚 而 已

 

Không xao lãng công phu tu tập mới là người phụng trì chánh pháp. Không phải do sống lâu mà người ta trở thành một vị trưởng lão trong Phật pháp. Tuy có hình tướng thân già tóc bạc, nhưng người ấy không phải là một vị đạo cao đức trọng, mà vẫn chỉ là một kẻ ngu phu.

 

Bài k 6

Vị hoài đế Pháp 謂 懷 諦 法

Thuận điều từ nhân 順 調 慈 仁

Minh viễn thanh khiết 明 遠 清 潔

Thị vi Trưởng lão 是 為 長 老

 

Ôm được chánh pháp vào lòng, tu tập theo nếp sống nhân từ, người có đạo hạnh chiếu sáng và thấy xa, nếp sống thanh khiết, mới có thể được gọi là một vị thượng tọa, đại đức hay trưởng lão.

Bài k 7

Sở vị đoan chánh 所 謂 端 政

Phi sắc như hoa 非 色 如 花

Xan tật hư sức 慳 嫉 虛 飾

Ngôn hành hữu vi 言 行 有 違

 

Như một bông hoa chỉ có sắc không hương, xan lẫn, tật đố, chỉ có giả trang hình tướng bên ngoài, lời nói và hành động đi ngược lại với nhau thì chưa có thể gọi là một người thực sự đoan chính.

 

Bài k8

Vị năng xả ác 謂 能 捨 惡

Căn nguyên dĩ đoạn 根 原 已 斷

Tuệ nhi vô khuể 慧 而 無 恚

Thị vị đoan chánh 是 謂 端 政

Sở vị Sa môn 所 謂 沙 門

Phi tất trừ phát 非 必 除 髮

Vọng ngữ tham thủ 妄 語 貪 取

Hữu dục như phàm 有 欲 如 凡

 

Buông bỏ được tà hạnh, cắt đứt được gốc rễ của ác, có tuệ giác, không còn sân nhuế, đó mới thực sự là người đoan chính. Một người cạo tóc mà còn vọng ngữ, tham đắm, chấp thủ, có nhiều tham dục như một kẻ phàm tục, thì không phải là một vị Sa môn đích thực.

 

Bài k 9

Vị năng chỉ ác 謂 能 止 惡

Khôi khuếch hoằng đạo 恢 廓 弘 道

Tức tâm diệt ý 息 心 滅 意

Thị vi Sa môn 是 為 沙 門

 

Chấm dứt được những hành động sai trái, làm sống dậy và quảng bá được chánh pháp, làm lắng dịu nội tâm và diệt trừ được mọi tà ý, đó mới thật là một vị Sa môn.

 

Bài k10

Sở vị Tỳ-kheo 所 謂 比 丘

Phi thời khất thực 非 時 乞 食

Tà hành dâm bỉ 邪 行 婬 彼

Xưng danh nhi dĩ 稱 名 而 已

 

Là một vị Tỳ khưu mà đi khất thực phi thời, mà vẫn còn tà hạnh và vọng ngữ thì chỉ là một vị Tỳ khưu hữu danh vô thực.

 

Bài k 11

Vị xả tội phước 謂 捨 罪 福

Tịnh tu phạm hạnh 淨 修 梵 行

Tuệ năng phá ác 慧 能 破 惡

Thị vi Tỳ-kheo 是 為 比 丘

Buông bỏ được ý niệm về tội phúc, tu tập thanh tịnh theo nếp sống phạm hạnh, tuệ giác đủ lớn để phá trừ được mọi ác kiến, đó mới đích thực là một vị Tỳ-khưu.

 

Bài kệ 12

Sở vị nhân minh 所 謂 仁 明

Phi khẩu bất ngôn 非 口 不 言

Dụng tâm bất tịnh 用 心 不 淨

Ngoại thuận nhi dĩ 外 順 而 已

 

Nhà minh triết không phải là một kẻ chỉ biết im lặng không nói, trong khi đó thì tâm mình vẫn còn có những chủ ý không sạch. Im lặng như thế chỉ là cái vỏ bề ngoài.

 

Bài k13

Vị tâm vô vi 謂 心 無 為

Nội hành thanh hư 內 行 清 虛

Thử bỉ tịch diệt 此 彼 寂 滅

Thị vi nhân minh 是 為 仁 明

 

Nội tâm thực sự đã đạt tới vô vi, thanh khiết, không còn vướng bận gì, biết an trú Niết Bàn, đó mới thật là một bậc Mâu ni.

 

Bài k 14

Sở vị hữu đạo 所 謂 有 道

Phi cứu nhất vật 非 救 一 物

Phổ tế thiên hạ 普 濟 天 下

Vô hại vi đạo 無 害 為 道

 

Không phải chỉ biết lo cứu độ cho một người, mà biết lo cứu độ cho tất cả mọi loài trong thiên hạ, không bao giờ làm tổn hại đến ai, đó mới thật là một bậc đạo hạnh.

 

Bài k15

Giới chúng bất ngôn 戒 眾 不 言

Ngã hành đa thành 我 行 多 誠

Đắc định ý giả 得 定 意 者

Yếu do bế tổn 要 由 閉 損

Ý giải cầu an 意 解 求 安

Mạc tập phàm nhân 莫 習 凡 人

Sử kết vị tận 使 結 未 盡

Mạc năng đắc thoát 莫 能 得 脫

 

Dù có giữ giới, có thực tập tịnh khẩu, dù có thành khẩn tu tập, đạt được các định nhưng vẫn còn giữ thái độ cầu an, vẫn còn có nhu yếu khép kín, sợ tổn hại đến mình, vẫn còn giữ tập khí của người đời, thì kẻ ấy vẫn không thể nói là đã đạt tới giải thoát thật sự.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14793)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11887)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12403)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12095)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12067)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7960)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8521)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9133)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10150)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.