Kinh Vị La Hán

13 Tháng Sáu 201403:14(Xem: 5184)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Kinh Vị La Hán

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 15

 

Phẩm này có 11 bài tụng. La Hán là bậc đã được giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy, đáng được mọi người tôn kính. Tiếng Pali là arahanta. Bài kệ thứ tư tả vị La Hán như con chim trở về hư không, cao bay vô ngại. Bài thứ 7 nói vị La Hán bình tĩnh như đất, bất động như núi. Bài thứ 2 ví vị La Hán như con thiên nga đã rời bỏ chiếc hồ. Bài thứ 10 nói nơi đâu có một vị A La Hán thì nơi ấy trở nên mát mẻ linh thiêng. Bài thứ nhất định nghĩa vị A La Hán là người đã lìa bỏ mọi ưu tư hoạn nạn, thoát ra ngoài mọi hệ lụy, tháo tung được mọi sợi dây ràng buộc, đạt tới sự mát mẻ (Niết bàn), không còn bị các cơn sốt phiền não thiêu đốt.

 

Bài kệ 1

Khứ ly ưu hoạn 去 離 憂 患

Thoát ư nhất thiết 脫 於 一 切

Phược kết dĩ giải 縛 結 已 解

Lãnh nhi vô noãn 冷 而 無 煖

 

Lìa bỏ mọi ưu tư hoạn nạn, thoát ra ngoài mọi hệ lụy, tất cả các sợi dây ràng buộc đều đã được tháo tung, mát mẻ, không còn bị một cơn sốt não phiền nào đốt cháy nữa.

 

Bài kệ 2

Tâm tịnh đắc niệm 心 淨 得 念

Vô sở tham lạc 無 所 貪 樂

Dĩ độ si uyên 已 度 癡 淵

Như nhạn khí trì 如 鴈 棄 池

 

Tâm ý đã thanh tịnh, chánh niệm đã đạt, không còn vướng vào một tham dục nào nữa, vị A la hán đã qua được vực sâu u mê như con thiên nga đã rời bỏ chiếc hồ.

Bài kệ 3

Lượng phước nhi thực 量 腹 而 食

Vô sở tạng tích 無 所 藏 積

Tâm không vô tưởng 心 空 無 想

Độ chúng hành địa 度 眾 行 地

 

Ăn uống chừng mực, không chất chứa của cải, tâm ý rỗng rang không còn vọng tưởng, vượt qua được mọi hành và mọi địa.

Bài kệ 4

Như không trung điểu 如 空 中 鳥

Viễn thệ vô ngại 遠 逝 無 礙

Thế gian tập tận 世 間 習 盡

Bất phục ngưỡng thực 不 復 仰 食

 

Như con chim bay về hư không, cao bay vô ngại, các tập khí thế gian đã chấm dứt, không còn lo lắng về chuyện ăn uống.

Bài kệ 5

Hư tâm vô hoạn 虛 心 無 患

Dĩ đáo thoát xứ 已 到 脫 處

Thí như phi điểu 譬 如 飛 鳥

Tạm hạ triếp thệ 暫 下 輒 逝

 

Tâm ý thảnh thơi, không còn hoạn nạn, đã tới được chốn giải thoát như con chim bay tạm thời đáp xuống mà đi.

Bài kệ 6

Chế căn tùng chỉ 制 根 從 止

Như mã điều ngự 如 馬 調 御

Xả kiêu mạn tập 捨 憍 慢 習

Vi thiên sở kính 為 天 所 敬

 

Điều phục các căn, làm cho an tĩnh như con ngựa hay, buông bỏ được mọi tập khí kiêu mạn, cả chư thiên cũng phải kính ngưỡng.

 

Bài kệ 7

Bất nộ như địa 不 怒 如 地

Bất động như sơn 不 動 如 山

Chân nhân vô cấu 真 人 無 垢

Sanh tử thế tuyệt 生 死 世 絕

 

Không giận, bình tĩnh như đất, bất động như núi, đã là vị chân nhân thì không còn bị cấu nhiễm, vì sinh tử và thời gian đã chấm dứt.

 

Bài kệ 8

Tâm dĩ hưu tức 心 已 休 息

Ngôn hành diệc chánh 言 行 亦 正

Tùng chánh giải thoát 從 正 解 脫

Tịch nhiên quy diệt 寂 然 歸 滅

 

Tâm tư ngưng nghỉ, ngôn và hành cũng thế, đi theo con đường chánh đạo, đã được giải thoát, yên lặng và trở về Niết Bàn.

 

Bài kệ 9

Khí dục vô khán 棄 欲 無 着

Khuyết tam giới chướng 缺 三 界 障

Vọng ý dĩ tuyệt 望 意 已 絕

Thị vị thượng nhân 是 謂 上 人

 

Buông bỏ tham dục, không còn dính mắc, vượt mọi chướng ngại ba cõi, vọng tâm đã hết, đó là một bậc thượng nhân.

Bài kệ 10

Tại tụ nhược dã 在 聚 若 野

Bình địa cao ngạn 平 地 高 岸

Ưng chân sở quá 應 真 所 過

Mạc bất mông hữu 莫 不 蒙 祐

 

Nơi đồng quê hay ở chốn xóm làng, dưới bình nguyên hay trên cao nguyên, địa phương nào có các vị ấy đi tới đều trở nên linh thiêng.

Bài kệ 11

Bỉ lạc không nhàn 彼 樂 空 閑

Chúng nhân bất năng 眾 人 不 能

Khoái tai vô vọng 快 哉 無 望

Vô sở dục cầu 無 所 欲 求

 

Ưa những nơi nhàn vắng, ít người lui tới, hạnh phúc thay khi đã đạt tới trình độ không còn vọng động, không còn mong cầu.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14794)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11889)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12414)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12103)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12081)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7964)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8526)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9140)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10153)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.