Kinh Luyến Ái

13 Tháng Sáu 201415:21(Xem: 5692)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Hảo Hỉ Phẩm Pháp Cú Kinh đệ nhị thập tứ

好喜品法句經第二十四

Kinh Luyến Ái

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 24

 

Phẩm này có 12 bài kệ. Piya là luyến ái. Luyến ái ở đây không phải là tình thương chân thật làm bằng các chất liệu từ, bi, hỷ và xả. Luyến ái ở đây là sự vướng mắc, mất tự do. Cái vướng mắc này tạo ra cái lo, cái sợ, cái ghen, cái giận ghét và cái thù hận. Cho nên bài kệ thứ 3 nói: cái thương là nguyên nhân sinh ra cái ghét. Bài kệ thứ 8 dạy ta không nên để cho cái bóng sắc bên ngoài lôi kéo. Phải tập tư duy cho chính xác, nói năng và hành động cho đúng phép thì mới cắt ngang được dòng lũ sinh tử.

 

Bài kệ 1

Vi đạo tắc tự thuận 違 道 則 自 順

Thuận đạo tắc tự vi 順 道 則 自 違

Xả nghĩa thủ sở hảo 捨 義 取 所 好

Thị vi thuận ái dục 是 為 順 愛 欲

Những gì ngược với đạo lý mình lại thích, những gì thuận với đạo lý thì mình lại không ưa; bỏ cái đạo nghĩa mà theo cái mình đam mê, đó gọi là đi theo ái dục.

 

Bài kệ 2

Bất đương thú sở ái 不 當 趣 所 愛

Diệc mạc hữu bất ái 亦 莫 有 不 愛

Ái chi bất kiến ưu 愛 之 不 見 憂

Bất ái kiến diệc ưu 不 愛 見 亦 憂

 

Đừng tìm tới cái đối tượng mình thương, đừng tìm cách xa lánh cái đối tượng mình ngét. Thương đem lại ưu phiền mà ghét cũng đem lại ưu phiền.

 

Bài kệ 3

Thị dĩ mạc tạo ái 是 以 莫 造 愛

Ái tăng ác sở do 愛 憎 惡 所 由

Dĩ trừ phược kết giả 已 除 縛 結 者

Vô ái vô sở tăng 無 愛 無 所 憎

 

Cho nên đừng đan dệt luyến ái, cũng đừng đan dệt thù ghét. Cái thương là nguyên nhân sinh ra cái ghét. Kẻ không muốn ràng buộc thì không ghét cũng không thương.

Bài kệ 4

Ái hỉ sanh ưu 愛 喜 生 憂

Ái hỉ sanh úy 愛 喜 生 畏

Vô sở ái hỉ 無 所 愛 喜

Hà ưu hà úy 何 憂 何 畏

 

Luyến ái sinh lo, luyến ái sinh sợ, không có luyến ái, thì còn lo gì sợ gì?

 

Bài kệ 5

Hảo lạc sanh ưu 好 樂 生 憂

Hảo lạc sanh úy 好 樂 生 畏

Vô sở hảo lạc 無 所 好 樂

Hà ư hà úy 何 憂 何 畏

 

Ham vui sinh lo, ham vui sinh sợ, không có ham vui, thì còn lo gì sợ gì?

Bài kệ 6

Tham dục sanh ưu 貪 欲 生 憂

Tham dục sanh úy 貪 欲 生 畏

Giải vô tham dục 解 無 貪 欲

Hà ưu hà úy 何 憂 何 畏

 

Tham dục sinh lo, tham dục sinh sợ, không có tham dục, thì còn lo gì sợ gì?

 

Bài kệ 7

Tham pháp giới thành 貪 法 戒 成

Chí thành tri tàm 至 誠 知 慚

Hành thân cận đạo 行 身 近 道

Vi chúng sở ái 為 眾 所 愛

 

Những kẻ ham học ham tu theo giới và pháp, đem tất cả tâm dạ chí thành để học hỏi, những kẻ ấy biết hổ thẹn là gì và cách hành xử của họ rất gần với chánh đạo, và họ được quần chúng thương mến.

Bài kệ 8

Dục thái bất xuất 欲 態 不 出

Tư chánh nãi ngữ 思 正 乃 

Tâm vô tham ái 心 無 貪 愛

Tất tiệt lưu độ 必 截 流 渡

 

Những ai không chạy theo những gì hào nhoáng bên ngoài của tham dục, những ai biết tư duy, nói năng theo chánh pháp và tâm không bị cuốn theo tham ái, những vị ấy thế nào cũng cắt ngang được dòng lũ sinh tử.

 

Bài kệ 9

Thí nhân cửu hành 譬 人 久 行

Tùng viễn cát hoàn 從 遠 吉 還

Thân hậu phổ an 親 厚 普 安

Quy lai hoan hỉ 歸 來 歡 喜

 

Có người đi xa lâu ngày trở về nhà được bình an, tất cả bà con quyến thuộc đều ra mừng rỡ đón chào.

 

Bài kệ 10

Hảo hành phước giả 好 行 福 者

Tòng thử đáo bỉ 從 此 到 彼

Tự thọ phước tộ 自 受 福 祚

Như thân lai hỉ 如 親 來 喜

 

Thì những kẻ tu tập thành công cũng thế, đi tới đâu cũng tiếp nhận ân phước, đi đến đâu cũng được mừng rỡ đón chào như một người thân nhân.

Bài kệ 11

Khởi tùng Thánh giáo 起 從 聖 教

Cấm chế bất thiện 禁 制 不 善

Cận đạo kiến ái 近 道 見 愛

Ly đạo mạc thân 離 道 莫 親

 

Khởi sự tu tập theo thánh giáo, tự chế ngự được bản thân, không dính vào những chuyện bất thiện, kẻ hành giả rất gần với thánh đạo và được mọi người yêu mến. Còn nếu tách xa khỏi con đường đạo thì không còn ai là người thân thích yêu mến mình nữa.

 

Bài kệ 12

Cận dữ bất cận 近 與 不 近

Sở trụ giả dị 所 住 者 異

Cận đạo thăng thiên 近 道 昇 天

Bất cận đọa ngục 不 近 墮 獄

 

Những kẻ gần gũi đạo pháp và những kẻ xa lìa đạo pháp không ở chung với nhau. Kẻ gần đạo thì đang ở thiên đường, còn kẻ xa đạo thì đang ở địa ngục.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14793)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11887)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12404)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12095)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12068)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7962)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8522)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9134)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10150)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.