Kinh Thoát Tục

13 Tháng Sáu 201403:38(Xem: 5859)
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh dịch

Thế Tục Phẩm Pháp Cú Kinh đệ nhị thập nhất

世俗品法句經第二十一

Kinh Thoát Tục

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 21

 

Phẩm này có 14 bài kệ. Thế tục đây là cuộc đời tục lụy (loka). Bài kệ thứ 4 đưa ra những hình ảnh về thế giới tục lụy: mọi hiện tượng đều mong manh như những chùm bọt nổi trên mặt nước, như những cơn mộng huyễn, như những hóa thành (maricika), và tâm ý ta thì lại như một con ngựa hoang chưa được điều phục. Bài thứ 8 đưa ra hình ảnh rất đẹp của những con nhạn khôn ngoan giúp cả bầy nhạn vượt lưới bay cao; cũng như thế, có những bậc cao minh có tu, có học, có trí tuệ cao vời, có khả năng dẫn dắt người đời vượt khỏi lưới tà. Đó là những người có mắt tuệ, phải hết lòng yểm trợ cho những nhóm người như thế. Ba bài kệ đầu nói tới sự cần thiết của con đường chánh đạo: phải giữ vững hướng đi, đừng bao giờ bỏ con đường lớn và bằng phẳng ấy để đi vào một lối nhỏ gập ghềnh. Trục xe đời sẽ gãy, vì thế mà mình không có cơ hội vượt thoát cõi sinh tử.

 

Bài kệ 1

Như xa hành đạo 如 車 行 道

Xả bình đại đồ 捨 平 大 途

Tùng tà kính bại 從 邪 徑 敗

Sanh chiết trục ưu 生 折 軸 憂

 

Một chiếc xe bỏ con đường lớn và bằng phẳng để đi vào một đường hẻm gập ghềnh ắt phải chịu cái khổ làm gãy trục xe.

 

Bài kệ 2

Ly Pháp như thị 離 法 如 是

Tùng phi pháp tăng 從 非 法 增

Ngu thủ chí tử 愚 守 至 死

Diệc hữu chiết hoạn 亦 有 折 患

 

Rời bỏ con đường chánh pháp cũng thế: những gì trái với đạo lý càng ngày càng lớn mạnh sẽ đưa người ngu phu tới chỗ chết. Đó là một thứ tai nạn gãy trục xe đời.

 

Bài kệ 3

Thuận hành chánh đạo 順 行 正 道

Vật tùy tà nghiệp 勿 隨 邪 業

Hành trụ ngọa an 行 住 臥 安

Thế thế vô hoạn 世 世 無 患

 

Vậy nên ta phải tiếp tục hành trì theo chánh đạo, đừng theo đuổi những công việc có tính cách trái với chánh pháp. Có như thế thì trong bốn tư thế đi, đứng, nằm và ngồi ta sẽ có sự an ổn và tai nạn sẽ không xảy tới, trong đời này cũng như trong các đời sau.

 

Bài kệ 4

Vạn vật như phao 萬 物 如 泡

Ý như dã mã 意 如 野 馬

Cư thế nhược huyễn 居 世 若 幻

Nại hà lạc thử 奈 何 樂 此

 

Những gì xảy ra trong cuộc đời đều mong manh như chùm bọt nổi trên mặt nước, trong khi ấy thì tâm ý của ta lại như một con ngựa hoang. Ở đời cái gì cũng (vô thường) như mộng huyễn, tại sao ta lại đi tìm lạc thú trong những gì mong manh ấy?

Bài kệ 5

Nhược năng đoạn thử 若 能 斷 此

Phạt kỳ thụ căn 伐 其 樹 根

Nhật dạ như thị 日 夜 如 是

Tất chí vu định 必 至 于 定

 

Nếu chặt đứt được gốc rễ của tham dục thì ngày cũng như đêm sẽ thành tựu được chánh định.

 

Bài kệ 6

Nhất thí như tín 一 施 如 信

Như lạc chi nhân 如 樂 之 人

Hoặc tùng não ý 或 從 惱 意

Dĩ phạn thực chúng 以 飯 食 眾

Thử bối nhật dạ 此 輩 日 夜

Bất đắc định ý 不 得 定 意

Dù đang thực tập bố thí, dù đang cung cấp thức ăn cho người, dù có tin rằng làm như thế là đang đem lại hạnh phúc cho người; nhưng nếu trong khi đang làm những công việc ấy mà tâm ý mình còn mang nặng những phiền não thì những hành động ấy cũng chưa đem lại được cho mình chánh định, ngày cũng như đêm.

Bài kệ 7

Thế tục vô nhãn 世 俗 無 眼

Mạc kiến đạo chân 莫 見 道 真

Như thiểu kiến minh 如 少 見 明

Đương dưỡng thiện ý 當 養 善 意

 

Trong cuộc đời, người có con mắt tuệ rất hiếm, cho nên ít ai thấy được cái chân thật của đạo lý. Vì vậy nếu có được một nhóm người còn sáng suốt thì phải giúp nuôi dưỡng thiện ý của nhóm người này.

 

Bài kệ 8

Như nhạn tướng quần 如 鴈 將 群

Tị la cao tường 避 羅 高 翔

Minh nhân đạo thế 明 人 導 世

Độ thoát tà chúng 度 脫 邪 眾

 

Như những con nhạn khôn ngoan giúp cả bầy nhạn vượt lưới bay cao, những con người cao minh phải dẫn dắt người đời vượt thoát lưới tà.

 

Bài kệ 9

Thế giai hữu tử 世 皆 有 死

Tam giới vô an 三 界 無 安

Chư thiên tuy lạc 諸 天 雖 樂

Phước tận diệc tang 福 盡 亦 喪

 

Ai rồi cũng phải chết. Cả ba cõi đều không an ổn. Chư thiên tuy đang hưởng lạc thú ở các cõi trời, nhưng khi phước báo đã hết cũng phải đọa lạc trở lại.

 

Bài kệ 10

Quán chư thế gian 觀 諸 世 間

Vô sanh bất chung 無 生 不 終

Dục ly sanh tử 欲 離 生 死

Đương hành đạo chân 當 行 道 真

 

Phải quán sát thế gian: hễ có sinh là có tử. Muốn lìa bỏ sinh tử, phải hành trì chánh đạo.

 

Bài kệ 11

Si phú thiên hạ 癡 覆 天 下

Tham lệnh bất kiến 貪 令 不 見

Tà nghi khước đạo 邪 疑 却 道

Khổ ngu tùng thị 苦 愚 從 是

 

Vô minh bao phủ thế gian, lòng tham che lấp không cho người ta thấy được sự thực, tà kiến khiến cho người ta xa lìa con đường chính, do đó mà khổ đau cứ tiếp tục trong u mê.

 

Bài kệ 12

Nhất pháp thoát quá 一 法 脫 過

Vị vọng ngữ nhân 謂 妄 語 人

Bất miễn hậu thế 不 免 後 世

Mĩ ác bất cánh 靡 惡 不 更

 

Còn một cái tệ hại lớn nữa của thế gian: đó là sự nói dối. Người đã lỡ nói dối một lần rồi thì cứ tiếp tục nói dối mãi, và cứ lặp lại mãi những lỗi lầm mà mình đã phạm.

 

Bài kệ 13

Tuy đa tích trân bảo 雖 多 積 珍 寶

Tung cao chí vu thiên 嵩 高 至 于 天

Như thị mãn thế gian 如 是 滿 世 間

Bất như kiến đạo tích 不 如 見 道 迹

 

Dù có chất chứa châu báu cao đến tận trời, tràn ngập cả thế gian thì cũng không bằng thấy được con đường đạo.

 

Bài kệ 14

Bất thiện tượng như thiện 不 善 像 如 善

Ái như tự vô ái 愛 如 似 無 愛

Dĩ khổ vi lạc tượng 以 苦 為 樂 像

Cuồng phu vi sở yếm 狂 夫 為 所 厭

 

Cái bất thiện mà nói là cái thiện, cái tham ái mà nói không phải là cái tham ái, cái khổ mà nói là cái vui, kẻ ngu phu dại dột bị hại vì những nhận thức đảo ngược như thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14773)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11879)
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
10 Tháng Mười 2014(Xem: 12387)
Viên giác là nói về tuệ giác viên mãn của Phật. Nên kinh này rõ ràng duyệt xét khá kỹ về trí thức con người. Điều kỳ dị trong việc này là đối với trí thức ấy không công nhận mà có vẻ công nhận. Thí dụ chương Tịnh chư nghiệp chướng nói về sự tự ý thức tự ngã: tự biết mới hiện ra tự ngã, vậy là không công nhận, nhưng tự hiểu như vậy nên cũng hiểu tự ngã ấy không đáng nhận, vậy là có vẻ công nhận.
19 Tháng Chín 2014(Xem: 12069)
Kinh Hiền Ngu thuộc bộ phận “Thí dụ” hoặc “Nhân duyên”, là một trong mười hai phần giáo của Kinh điển. Nội dung kinh này gồm những mẩu chuyện ghi chếp về tiền thân của đức Phật ở đời quá khứ có liên hệ với hiện tại, hoặc ở đời hiện tại có liên hệ với quá khứ, cũng là những chuyện được Phật hóa độ, Phật thụ ký, và những chuyện khuyến thiện trừng ác… Về kỹ thuật thuyết minh, chuyện dựa trên căn bản nhân duyên hoặc thí dụ, thiện nghiệp và ác nghiệp. Căn cứ vào những phần tướng của thiện và ác nên mới có hiền và ngu. Vì vậy nên tên kinh gọi là Hiền Ngu, nay gọi tắt là “Kinh Hiền”
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12047)
(Bản dịch Tâm Kinh mới của Sư Ông Làng Mai)....Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. ...
01 Tháng Tám 2014(Xem: 7937)
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 8504)
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9118)
12 Tháng Sáu 2014(Xem: 10131)
Dhammapada là giáo nghĩa thiết yếu của các kinh. Dhamma là pháp, Pada là câu, là cú, là kệ. Pháp Cú có nhiều bộ khác nhau: có bộ có 900 câu kệ, có bộ 700 câu, và có bộ 500 câu. Kệ là những lời ngắn gọn, như bài thơ, bài tụng. Những câu ấy do Bụt nói ra, không phải một lần tất cả các câu, mà chỉ khi nào xúc sự thì mới nói lên một câu. Tất cả các câu ấy đều có gốc gác rải rác trong các kinh.