Chương XVIII – MALAVAGGA - (Phẩm Uế Trược)

15 Tháng Sáu 201415:19(Xem: 5083)
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Dhammapada
KINH LỜI VÀNG
Việt - lục bát thi hóa - Pāḷi
( In lần thứ 5, có chỉnh sửa và nhuận sắc lần cuối)

Chương XVIII 
MALAVAGGA
(Phẩm Uế Trược)

235.

Thân ngươi, chiếc lá úa tàn

Hái đao Diêm Sứ hiện đang đón chờ

Than ôi! Chết đến bất ngờ

Đường xa chẳng có dự hờ tư lương!?

 

Paṇḍupalāso va dānisi

yamapurisā pi ca te upaṭṭhitā,

uyyogamukhe ca tiṭṭhasi

pātheyyampi ca te na vijjati.

­œ

236.

Tự xây hòn đảo mà nương

Tinh cần gấp rút dọn đường tuệ tri!

Gỡ bao nhơ bợn ngu si

Mở cửa thánh địa ra đi nhẹ nhàng!

 

So karohi dīpamattano

khippaṃ vāyama paṇḍito bhava,

niddhantamalo anaṅgaṇo

dibbaṃ ariyabhūmiṃ upehisi.

­œ

237.

Đời ngươi, sự sống sắp tàn

Cứ thêm mỗi bước mỗi gần tử vong

Bên đường, chỗ nghỉ cũng không

Xa xăm chẳng có dự phòng tư lương!

 

Upanītavayo ca dānisi

sampayātosi yamassa santike,

vāso te natthi antarā

pātheyyampi ca te na vijjati.

­œ

238.

Tự xây hòn đảo mà nương

Tinh cần gấp rút, dọn đường tuệ tri!

Gỡ bao dục vọng mê si

Tử sinh quyết chẳng lộn đi, trở vào!

 

So karohi dīpamattano

khippaṃ vāyama paṇḍito bhava,

niddhantamalo anaṅgaṇo

na punaṃ jātijaraṃ upehisi.

­œ

239.

Từ từ, chút chút mà hay

Từng sát-na một gỡ ngay ác mầm!

Thợ vàng lọc bụi trong ngần

Cũng dường thế ấy, chắt dần uế nhơ!

 

Anupubbena medhāvī

thoka thokaṃ khaṇe khaṇe,

kammāro rajatasseva

niddhame malamattano.

­œ

240.

Rỉ sét vốn từ sắt sanh

Ăn mòn tiêu hoại rất nhanh sắt nầy

Sống đời lợi dưỡng, biết hay!

Tự nghiệp, tự dẫn trắng tay, khốn cùng!

 

Ayasā’ va malaṃ samuṭṭhitaṃ

tatuṭṭhāya tameva khādati,

evaṃ atidhonacārinaṃ

sāni kammāni nayanti duggatiṃ.

­œ

241.

Không tụng niệm: Bợn nhơ kinh!

Không siêng năng: Bợn nhơ sinh cửa nhà

Biếng nhác: Sắc đẹp nhơ nhòa

Canh phòng sơ hở, bợn trà trộn ngay!

 

Asajjhāyamalā mantā

anuṭṭhānamalā gharā,

malaṃ vaṇṇassa kosajjaṃ

pamādo rakkhato malaṃ.

­œ

242.

Tà hạnh: Nhơ uế đàn bà

Bỏn xẻn: Nhơ uế đàn-na các hàng

Ác pháp: Nhơ uế thế gian

Đời này, đời kế ngập tràn khổ đau!

 

Malitthiyā duccaritaṃ

maccheraṃ dadato malaṃ,

malā ve pāpakā dhammā

asmiṃ loke paramhi ca.

­œ

243.

Trong hàng cấu uế, dẫn đầu:

Là vô minh bổn, bợn sâu, dính dày!

Tỳ-kheo khởi tuệ lìa ngay

Thành bậc vô nhiễm, đời này sạch không!

 

Tato malā malataraṃ

avijjā paramaṃ malaṃ,

etaṃ malaṃ pahatvāna

nimmalā hotha bhikkhavo.

­œ

244.

Dễ thay! Lỗ mãng, trẽn trơ!

Chẳng lòng hổ thẹn, trộm hờ cắn sau!

Quạ đen, người – có khác đâu!

Những kẻ tự phụ, cứng đầu, kiêu căng

Nhiễm ô, xấc xược, huênh hoang

Sống như vậy đó, dễ dàng lắm ôi!

 

Sujīvaṃ ahirikena

kākasūrena dhaṃsinā,

pakkhandinā pagabbhena

saṃkiliṭṭhena jīvitaṃ.

­œ

245.

Khó thay! Biết hổ thẹn rồi

Lại còn tinh khiết sống đời trăng gương

Có tâm dứt bỏ, khiêm nhường

Sáng trong, vắng lặng, tuệ hương ngát ngào!

 

Khó thay! Biết hổ thẹn rồi

Lại cầu thanh tịnh mà noi hướng về

Vô tư, khiêm hạ, lìa mê

Trăng trong, sao sáng - đề huề hai vai!

 

Hirimatā ca dujjīvaṃ

niccaṃ sucigavesinā,

alīnenāppagabbhena

suddhājīvena passatā.

­œ

246-247.

Kẻ nào vọng ngữ, sát sanh

Trộm của thiên hạ, đành hanh vợ người

Rượu men, rượu nấu dể duôi

Tự chôn gốc rễ, nhiều đời vùi sâu!(1)

 

Yo pāṇamatipāteti

musāvādañca bhāsati,

loke adinnaṃ ādiyati

paradārañca gacchati.

 

Surāmerayapānañ ca

yo naro anuyuñjati,

idhevameso lokasmiṃ

mūlaṃ khaṇati attano.

­œ

248.

Hỡi này, những kẻ thiện hiền!

Chế ngự điều ác, chẳng nên khinh thường

Ái tham, sân hận(1) lỡ vương

Cuốn vào cảnh khổ miên trường đớn đau!

 

Evaṃ bho purisa jānāhi

pāpadhammā asaññatā,

mā taṃ lobho adhammo ca

ciraṃ dukkhāya randhayuṃ.

­œ

249.

Người ta bố thí do tin

Do tâm hoan hỷ hằng vin pháp lành

Có người đố kỵ, tỵ ganh

Thức ăn, vật uống dâng dành sa-môn

Người như vậy, phước tiêu mòn

Định tâm không được, sớm hôm não phiền.

 

Dadāti ve yathāsaddhaṃ

yathāpasādanaṃ jano,

tattha yo ca maṅku bhavati

paresaṃ pānabhojane,

na so divā vā rattiṃ vā

samādhiṃ adhigacchati.

­œ

250.

Hãy mau cắt đứt gốc nhân

Phải mau nhổ tiệt căn sân, tỵ hiềm!

Người như vậy: Bậc trí hiền

Đạt được tâm định, an thiền tháng năm!

 

Yassa cetaṃ samucchinnaṃ

mūlaghaccaṃ samūhataṃ,

sa ve divā vā rattiṃ vā

samādhiṃ adhigacchati.

­œ

251.

Lửa tham hơn lửa đất trời!

Kềm sân vô địch kẹp người, siết ta

Lưới nào bằng lưới si ma?

Sông nào sánh được ái hà dòng sâu?!

 

Natthi rāgasamo aggi

natthi dosasamo gaho,

natthi mohasamaṃ jālaṃ

natthi taṇhāsamā nadī.

­œ

252.

Lỗi người thì dễ thấy ngay!

Lỗi mình khó thấy, khó hay dường nào

Lỗi người tỉ mỉ bới đào

Tìm trấu trong gạo, đếm sao trời mờ

Lỗi ta, ta giấu, ta ngơ

Lại còn che đậy, giả vờ ngụy trang!

Bẫy chim, ta trốn trong hang!

Chơi bài thì lại dối gian, giấu bài!

 

Sudassaṃ vajjamannesaṃ

attano pana duddasaṃ,

paresaṃ hi so vajjāni

opunāti yathā bhusaṃ,

attano pana chādeti

kaliṃva kitavā saṭho.

­œ

253.

Những ai chăm thấy lỗi người

Dễ sanh đâm thọc, nói lời gièm pha

Kẻ như vậy, còn rất xa

Xa trừ lậu hoặc, càng xa Niết-bàn!

 

Paravajjānupassissa

niccaṃ ujjhānasaññino,

āsavā tassa vaḍḍhanti

ārā so āsavakkhayā.

­œ

254.

Hư không chẳng có vết chân

Bên ngoài chẳng có xuất trần sa-môn!

Chúng sanh hý luận, đa ngôn

Như Lai hý luận sạch trơn, sạch làu!

 

Ākāseva padaṃ n’atthi

samaṇo n’atthi bāhire,

papañcābhiratā pajā

nippapañcā tathāgatā.

­œ

255.

Hư không chẳng có vết chân

Bên ngoài chẳng có xuất trần sa-môn

Các hành(1) chẳng phải trường tồn

Phật không dao động, đâu còn hữu vi?

 

Ākāseva padaṃ n’atthi

samaṇo natthi bāhire,

saṅkhārā sassatā n’atthi

n’atthi buddhānaṃ iñjitaṃ.


(1) Ý nói là tự chôn gốc rễ của mình mãi mãi trên thế gian này, không bao giờ lìa thoát được.

(1) Adhammo: Phi pháp, nghịch nghĩa với pháp; nghĩa là không đi theo giáo pháp – nhưng chú giải cho nghĩa là sân hận vì tham và sân là căn nguyên của điều ác.

(1) Saṅkhāra: Tôi dịch là hành chứ không dịch là hữu vi – vì tâm hành là tâm lăng xăng tạo tác, nó ở trong 12 duyên khởi; còn hữu vi là thường chi tất cả các pháp được kết hợp, cấu tạo của thế giới gồm chung tinh thần, vật chất, của sum la vạn tượng.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 2016(Xem: 7039)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Bàhiya Daruciriya trú ở Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng như sau: "Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán, ta là một trong những vị ấy ". Rồi một Thiên nhân, trước là bà con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya Dàruciriya, đi đến Bàhiya Dàruciriya và nói như sau:
14 Tháng Tư 2016(Xem: 5702)
Tôi đã nghe nói rằng, có một thời Đức Phật đã sống với những người ở vùng Sumbhan. Lúc bấy giờ, trong vùng Sumbhan nầy, có một tỉnh tên là Sedaka. Ở đó, Đức Phật đã gọi chư tăng, "Nầy các Tỳ Kheo!" "Dạ thưa Đức Thế Tôn," chư tăng đồng trả lời.
02 Tháng Tư 2016(Xem: 6696)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời. Những lời chúng ta nghe kể lại ở đây hay được thuyết pháp từ những người kém trí tuệ và đạo đức cho dù có lập lại chính xác từng lời từng chữ từ kim khẫu của Đức Thế Tôn vẫn không có đủ hấp lực, mãnh lực và công lực sư tử hống để giác ngộ nổi cho người nghe. Tuy nhiên, khi đọc, nghe được những lời vàng ngọc của Đức Thế Tôn dù qua bất cứ một phương tiện nào cũng như là những hạt nhân giác ngộ được cấy vào trong ý thức của chúng ta chờ nhân duyên chín ‘muồi’ để đơm hoa kết quả Phật tánh.
29 Tháng Ba 2016(Xem: 5629)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một. Trong đó có nhiều kinh liên hệ tới sự chết. Nơi đây, bài viết này sẽ dịch hai kinh: Ud 7.10 và SN 44.9. Cả hai kinh đều dẫn tới nhiều suy nghĩ cho người học Phật.
02 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6784)
Có một số kinh được Đức Phật đưa ra và gọi đó là giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy giáo pháp ngắn gọn để lui về một góc rừng tu hành khẩn cấp.
22 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7495)
Trong một số bài trước, chúng ta đã thấy Đức Phật trong vài kinh đã đưa ra một số giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy để lui về một góc rừng u tịch tu hành khẩn cấp.
06 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7869)
Đức Phật chỉ đường Giới Định Huệ là để giải thoát khỏi Tham Sân Si, ba độc đã lôi kéo chúng ta nhiều đời. Từ giáo pháp nhà Phật, hiện nay, các nhà khoa học Tây phương đã chọn ra một phần thích nghi để sử dụng cho nhiều trường hợp có lợi cho nhân loại và xã hội – trong đó, chánh niệm, thường dịch là mindfulness, được quan tâm, ưa chuộng nhất.
21 Tháng Mười 2015(Xem: 7800)
Phật Giáo là đạo giải thoát, vượt bờ sinh tử, xa lìa muôn kiếp mê lầm bể khổ. Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si. Và ngài nói, chìa khóa xa lìa phiền não là tam học: giới định huệ. Như thế, cả phiền não và xa lìa phiền não đều là tâm. Ngắn gọn, Phật Giáo là pháp tu tâm.
08 Tháng Mười 2015(Xem: 6505)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền, vừa như một thoại đầu cho hành giả mà cũng vừa là bài kinh hộ niệm cho người bệnh.