Chương XIV – BUDDHAVAGGA - (Phẩm Đức Phật)

15 Tháng Sáu 201414:50(Xem: 4886)
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Dhammapada
KINH LỜI VÀNG
Việt - lục bát thi hóa - Pāḷi
(In lần thứ 5, có chỉnh sửa và nhuận sắc lần cuối)

Chương XIV
BUDDHAVAGGA
(Phẩm Đức Phật)

179.

Vô biên, hành xứ Như Lai!

Chiến bất khả bại(1), chẳng ai sánh đồng!

Vinh thay! Phật giới mênh mông!

Chẳng để vết tích, chân không dính gì!(2)

Vinh thay! Uy lực vô vi!(3)

Có ai thấy dấu bước đi của ngài?(4)

 

Yassa jitaṃ nāvajīyati

jitamassa no yāti koci loke,

taṃ buddhamanantagocaraṃ

apadaṃ kena padena nessatha.

­œ

180.

Rối ren, hỗn tạp hết rồi

Ái dục, triền phược kéo lôi ngõ nào?

Đi không dấu tích trần lao

Phật giới tối thượng biết sao mà bàn?

Bước ra khỏi cõi ba ngàn

Ma Vương lần vết xuất phàm được ư?!

 

Yassa jālinī visattikā

taṇhā n’atthi kuhiñci netave,

taṃ buddhamanantagocaraṃ

apadaṃ kena padena nessatha.

­œ

181.

Trí nhân vui hạnh khước từ

Tinh cần thiền quán, tĩnh cư lòng mình

Chư thiên ái kính, hoan nghinh

Phật luôn chánh niệm, giác minh tròn đầy!

 

Ye jhānapasutā dhīrā

nekkhammūpasame ratā,

devāpi tesaṃ pihayanti

sambuddhānaṃ satīmataṃ.

­œ

182.

Hiếm thay! Sanh được làm người

Hiếm thay! Sống được một đời lành trong

Hiếm thay! Nghe pháp chánh tông

Hiếm thay! Vị Phật trần hồng Đản Sinh

 

Kiccho manussapaṭilābho

kicchaṃ maccāna jīvitaṃ,

Kicchaṃ saddhammassavanaṃ

kiccho buddhānamuppādo.

­œ

183.

Vui thay! Điều ác không làm

Vui thay! Việc thiện lại chăm làm hoài

Tự tâm thanh lọc trong ngoài

Ấy là giáo huấn ba đời Thế Tôn!

 

Sabbapāpassa akaraṇaṃ

kusalassa upasampadā,

Sacittapariyodapanaṃ

etaṃ buddhāna sāsanaṃ.

­œ

184.

Nhẫn kham: Khổ hạnh nhất đời

Niết-bàn là cõi tuyệt vời, tối cao

Xuất gia không hại người nào

Sa-môn chẳng dính trượng đao giữa đời!

 

Khantī paramaṃ tapo titikkhā

nibbānaṃ paramaṃ vadanti buddhā,

Na hi pabbajito parūpaghātī

na samaṇo hoti paraṃ viheṭhayanto.

­œ

185.

Sống đời vô hại, vô vi

Giới điều thu thúc, hộ trì các căn

Tri túc, dị giản uống ăn

Độc cư tịch tịnh, Phật hằng thuyết ngôn!

 

Anūpavādo anūpaghāto

pātimokkhe ca saṃvaro,

mattaññutā ca bhattasmiṃ

pantañca sayanāsanaṃ,

adhicitte ca āyogo

etaṃ buddhāna sāsanaṃ.

­œ

186.

Trận mưa bảy báu đầy tràn

Chẳng làm thỏa mãn ái tham lòng người

Dục khổ nhiều, lạc ít thôi

Chỉ bậc trí hiểu, bẻ mồi câu đi!

 

Na kahāpaṇavassena

titti kāmesu vijjati,

appassādā dukhā kāmā

iti viññāya paṇḍito.

­œ

187.

Cho nên đệ tử Thánh Hiền

Chẳng tìm khoái lạc thần tiên cảnh trời

Hỷ hoan ái dục diệt rồi

Niết-bàn vắng lặng, nghỉ ngơi vẹn toàn!

 

Api dibbesu kāmesu

ratiṃ so nādhigacchati,

taṇhakkhayarato hoti

sammāsambuddhasāvako.

­œ

188.

Loài người hoảng hốt, hoảng kinh

Đi tìm nhiều chỗ cho mình tựa nương

Vào nơi cây cối, ruộng vườn

Hoặc là đền tháp, núi rừng, miếu hoang!

 

Bahuṃ ve saraṇaṃ yanti

pabbatāni vanāni ca,

ārāmarukkhacetyāni

manussā bhayatajjitā.

­œ

189.

Ấy đâu phải chỗ an toàn

Là nơi bảo vệ cho hàng trí nhân

Chẳng đâu thoát khỏi mê trần

Chẳng đâu ẩn trốn dấu chân khổ hình!

 

N’etaṃ kho saraṇaṃ khemaṃ

n’etaṃ saraṇamuttamaṃ,

n’etaṃ saraṇamāgamma

sabbadukkhā pamuccati.

­œ

190.

Quy y Phật Bảo quang vinh

Quy y Pháp Bảo cao minh rạng ngời

Quy y Tăng Chúng ba đời

Quy y như vậy, chính nơi hướng về!

 

Yo ca buddhañca dhammañca

saṅghañca saraṇaṃ gato,

cattāri ariyasaccāni

sammappaññāya passati.

­œ

191.

Chánh tri đâu khổ, đâu mê

Chánh tri Tứ Đế, Bồ-đề tự tâm!

Lần theo Bát Chánh, Giác phần

Vượt qua khổ nạn, mê tân đời này.

 

Dukkhaṃ dukkhasamuppādaṃ

dukkhassa ca atikkamaṃ,

ariyaṃ c’aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ

dukkhūpasamagāminaṃ.

­œ

192.

Quy y ấy quả cao dày

Quy y tối thượng, đâu tày mà so!

Quy y tận khổ, vô lo,

Quy y, giải thoát, thảy đò ngàn sông!

 

Etaṃ kho saraṇaṃ khemaṃ

etaṃ saraṇamuttamaṃ,

etaṃ saraṇamāgamma

sabbadukkhā pamuccati.

­œ

193.

Khó thay! Thật hiếm có người

Vĩ nhân hiền thiện ra đời ở đây

Chỉ đâu phúc đủ, duyên đầy

Nơi ấy, bậc trí đợi ngày giáng sinh!

 

Dullabho purisājañño

na so sabbattha jāyati,

yattha so jāyati dhīro

taṃ kulaṃ sukhamedhati.

­œ

194.

Lành thay! Chư Phật giáng sinh!

Lành thay! Chánh Pháp quang minh ba tòa!

Lành thay! Tăng Bảo lục hòa!

Lành thay! Tứ Chúng một nhà đồng tu!

 

Sukho buddhānamuppādo

sukhā saddhammadesanā,

sukhā saṅghassa sāmaggī

samaggānaṃ tapo sukho.

­œ

195.

Xứng thay! Bậc đáng cúng dường

Thế Tôn, môn đệ các hàng Thanh Văn!

Quý ngài an tĩnh lục căn

Vượt qua hý luận, tham sân, não phiền.

 

Pūjārahe pūjayato

buddhe yadi va sāvake,

papañcasamatikkante

tiṇṇasokapariddave.

­œ

196.

Xứng thay! Bậc đáng cúng dường

Người có tuệ giác, thơm hương Niết-bàn

Vô vi, vô uý, tĩnh an

Cúng dường như vậy, cao sang phước mầu.

 

Te tādise pūjayato

nibbute akutobhaye,

na sakkā puññaṃ saṅkhātuṃ

imettamapi kenaci.


(1)Cuộc chiến thắng tham, sân, si.

(2) Mọi vết tích của hữu vi, phiền não.

(3) 10 Phật lực, 9 hồng danh.

(4) Giải thoát ngoài 3 cõi, không còn dấu vết tâm hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 2016(Xem: 7069)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Bàhiya Daruciriya trú ở Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng như sau: "Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán, ta là một trong những vị ấy ". Rồi một Thiên nhân, trước là bà con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya Dàruciriya, đi đến Bàhiya Dàruciriya và nói như sau:
14 Tháng Tư 2016(Xem: 5718)
Tôi đã nghe nói rằng, có một thời Đức Phật đã sống với những người ở vùng Sumbhan. Lúc bấy giờ, trong vùng Sumbhan nầy, có một tỉnh tên là Sedaka. Ở đó, Đức Phật đã gọi chư tăng, "Nầy các Tỳ Kheo!" "Dạ thưa Đức Thế Tôn," chư tăng đồng trả lời.
02 Tháng Tư 2016(Xem: 6715)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời. Những lời chúng ta nghe kể lại ở đây hay được thuyết pháp từ những người kém trí tuệ và đạo đức cho dù có lập lại chính xác từng lời từng chữ từ kim khẫu của Đức Thế Tôn vẫn không có đủ hấp lực, mãnh lực và công lực sư tử hống để giác ngộ nổi cho người nghe. Tuy nhiên, khi đọc, nghe được những lời vàng ngọc của Đức Thế Tôn dù qua bất cứ một phương tiện nào cũng như là những hạt nhân giác ngộ được cấy vào trong ý thức của chúng ta chờ nhân duyên chín ‘muồi’ để đơm hoa kết quả Phật tánh.
29 Tháng Ba 2016(Xem: 5649)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một. Trong đó có nhiều kinh liên hệ tới sự chết. Nơi đây, bài viết này sẽ dịch hai kinh: Ud 7.10 và SN 44.9. Cả hai kinh đều dẫn tới nhiều suy nghĩ cho người học Phật.
02 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6812)
Có một số kinh được Đức Phật đưa ra và gọi đó là giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy giáo pháp ngắn gọn để lui về một góc rừng tu hành khẩn cấp.
22 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7510)
Trong một số bài trước, chúng ta đã thấy Đức Phật trong vài kinh đã đưa ra một số giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy để lui về một góc rừng u tịch tu hành khẩn cấp.
06 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7892)
Đức Phật chỉ đường Giới Định Huệ là để giải thoát khỏi Tham Sân Si, ba độc đã lôi kéo chúng ta nhiều đời. Từ giáo pháp nhà Phật, hiện nay, các nhà khoa học Tây phương đã chọn ra một phần thích nghi để sử dụng cho nhiều trường hợp có lợi cho nhân loại và xã hội – trong đó, chánh niệm, thường dịch là mindfulness, được quan tâm, ưa chuộng nhất.
21 Tháng Mười 2015(Xem: 7814)
Phật Giáo là đạo giải thoát, vượt bờ sinh tử, xa lìa muôn kiếp mê lầm bể khổ. Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si. Và ngài nói, chìa khóa xa lìa phiền não là tam học: giới định huệ. Như thế, cả phiền não và xa lìa phiền não đều là tâm. Ngắn gọn, Phật Giáo là pháp tu tâm.
08 Tháng Mười 2015(Xem: 6522)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền, vừa như một thoại đầu cho hành giả mà cũng vừa là bài kinh hộ niệm cho người bệnh.