- Lời Nói Đầu Của Dịch Gỉa
- 01. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi
- 02. Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
- 03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
- 04. Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
- 05. Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
- 06. Pháp Hội Bất Động Như Lai
- 07. Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
- 08. Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
- 09. Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
- 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
- 11. Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh
- 12. Pháp Hội Bồ Tát Tạng
- 12.01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả Thứ Nhất
- 12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai
- 12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba
- 12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư
- 12.05. Phẩm Tứ Vô Lượng Thứ Năm
- 12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu
- 12.07. Phẩm Thi La Ba La Mật Thứ Bẩy
- 12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám
- 12.09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín
- 12.10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật Thứ Mười
- 12.11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Thứ Mười Một
- 12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai
- 13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
- 14. Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
- 15. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký
- 16. Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt
- 16.01. Phẩm Tự
- 16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
- 16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
- 16-04 Phẩm Bổn Sự
- 16-05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
- 16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
- 16-07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
- 16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
- 16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
- 16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
- 16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
- 16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
- 16-13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
- 16-14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
- 16-15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
- 16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
- 16-17 Phẩm Hoá Lạc Thiên Thọ Ký
- 16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
- 16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
- 16-20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
- 16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
- 16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
- 16-23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
- 16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
- 16-25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
- 16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
- 17. Pháp Hội Phú Lâu Na
- 18. Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
- 19. Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
- 20. Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
- 21. Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
- 22. Pháp Hội Đại Thần Biến
- 23. Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
- 24. Pháp Hội Ưu Ba Ly
- 25. Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện
- 26-pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
- 27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
- 28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa
- 29-pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
- 30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
- 31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
- 32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát
- 33-pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
- 34-pháp Hội Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát
- 35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử
- 36-pháp Hội Thiện Trụ Ý Thiên Tử
- 36-01-phẩm Duyên Khởi
- 36-02-phẩm Khai Thiệt Nghĩa
- 36-03-phẩm Văn Thù Thần Biến
- 36-04-phẩm Phá Ma
- 36-05-phẩm Bồ Tát Thân Hành
- 36-06-phẩm Bồ Tát Tướng
- 36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng
- 36-08-phẩm Phàm Phu Tướng
- 36-09-phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
- 36-10-phẩm Xưng Tán Phó Pháp
- 37-pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
- 38-pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
- 39-pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Gỉa
- 40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ
- 41. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
- 42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn
- 43. Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
- 44. Pháp Hội Bửu Lương Tụ:
- 44.01 Phẩm Sa Môn Thứ Nhất
- 44.02 Phẩm Tỳ Kheo Thứ Hai
- 44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn Thứ Ba
- 44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo Thứ Tư
- 44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo Thứ Năm
- 44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực Thứ Sáu
- 44.07 Phẩm Phất Tảo y Tỳ Kheo Thứ Bảy
- 45. Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
- 46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
- 47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
- 48. Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân
- 49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
- 50. Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
- 51. Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát
- 52. Pháp Hội Bửu Nữ
- 53. Pháp Hội Bất Thuần Bồ Tát
- 54. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
- 55. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
- 56. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát
- 57. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
- 58. Pháp Hội Bửu Tràng
- 59. Pháp Hội Hư Không Mục
- 60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
- 61. Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
- 62. Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật
- Lời Ghi Nhận Sau Kinh Của Người Dịch
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản:
Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXIX
Pháp hội
ƯU ĐÀ DIÊN VƯƠNG
Thứ hai mươi
chín
Hán Dịch: Nhà
Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt
Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Câu Viêm Di tại vườn Cù Sư La cùng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.
Bấy giờ đệ nhất phu nhơn của vua Ưu Đà Diên tên Xá Ma đối với đức Như Lai và hàng Thánh chúng thân tín cung kính thân cận cúng dường và thường ca ngợi công đức của Như Lai.
Đệ nhị phu nhơn tên Đế Nữ có lòng ganh siễm đến vua nói dối là đức Như Lai và hàng đệ tử có chỗ phi pháp đối với đại phu nhơn.
Nhà vua giận lắm lấy cung tên bắn phu nhơn Xá Ma. Vì thương xót vua, Phu nhơn Xá Ma nhập từ tam muội, mũi tên bắn ra liền quay trở lại dừng tại trên không ngay đỉnh đầu vua, mũi tên ấy cháy đỏ như khối lửa rất đáng sợ. Vua bắn ba phát tên cũng đều như vậy
Vua Ưu Đà Diên thấy sự việc ấy toàn thân lông tóc đều dựng lên kinh sợ hối hận nói với phu nhơn rằng: «Bà có phải là Thiên nữ hay Long nữ chăng? Hay bà là Dạ Xoa nữ, Càn Thát Bà nữ, Tì Xá Gía nữ, La Sát nữ chăng? ».
Phu nhơn Xá Na nói; «Tôi chẳng phải Thiên nữ cũng chẳng phải La Sát nữ. Đại vương nên biết tôi nghe đức Phật thuyết pháp thọ trì ngũ giới làm Ưu Bà Di. Vì thương vua nên tôi nhập từ tam muội. Dầu vua đối với tôi sanh lòng bất thiện, nhưng do sức nguyện từ tâm nên tôi không bị thương tổn. Lành thay Đại Vương nên đối với đức Như Lai qui mạng đảnh lễ chắc sẽ được an vui ».
Vua nghĩ rằng phu nhơn nghe pháp làm Ưu Bà Di còn có sức oai thần dường ấy huống là đức Như Lai Đẳng Chánh Giác.
Vua Ưu Đà Diên liền đến chỗ Phật lễ chưn hữu nhiễu ba vòng trình bày sự việc trên rồi bạch rằng: Ngưỡng mong đức Như Lai và hàng Thánh chúng hoan hỉ cho tôi sám hối khiến tội lỗi ấy sớm siêu diệt ».
Đức Phật ấy nói: «Như lời vua tự thuật vì lầm cho Như Lai và hàng Thánh chúng như phàm nhơn ngu si có lỗi nên vua sanh lòng giận oán. Nay vua nếu có thể y Phật pháp luật tự ăn năn tội lỗi chẳng có lòng che giấu cùng tận đời vị lai chẳng tái phạm thì ta sẽ nhiếp thọ cho vua tăng trưởng thiện pháp.
Vua bạch rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Vì tôi bị nữ nhơn mê hoặc cuồng loạn điên đảo không hiểu biết nên phát sanh giận dữ, tội nghiệp nầy sẽ đọa địa ngục. Ngưỡng mông đức Như Lai vì an lạc chúng sanh mà xót thương khai thị lỗi họa siễm khúc hư dối của nữ nhơn, chớ để chúng tôi thân cận nữ nhơn hầu sẽ được mãi mãi thoát các sự khổ lụy ».
Đức Phật nói: « Để sự ấy lại, sao vua cần hỏi sự ấy mà chẳng hỏi sự khác? ».
Vua bạch: »tôi không hỏi sự khác. Vì nữ nhơn khiến tôi tạo tội địa ngục, nay tôi chỉ muốn biết lỗi họa nữ nhơn siểm khúc hư cuống tà mỵ. Mông đức Thế Tôn khai thị cho ».
Vua Ưu Đà Diên ba lần thỉnh hỏi như vậy.
Đức Phật nói: « Đại Vương trước phải biết lỗi họa của trượng phu rồi sau sẽ quan sát lỗi họa của nữ nhơn ».
Vua bạch; «Vâng,bạch đức Thế Tôn! Xin thích muốn được nghe.
Đức Phật nói: «Tất cả trượng phu đều do bốn thứ lỗi lầm bất thiện nên bị nữ nhơn làm mê loạn.
Một là ở nơi dục nhiễm đam trước không chán ưa thích nữ nhơn mà túng dật, chẳng biết gần gũi Sa Môn và Bà La Môn đủ tịnh giới tu phước nghiệp. Vì chẳng thân cận những bực như vậy nên những tịch tín, thi la, đa văn bố thí, trí huệ đều thối thất. Do vì không có tín giới văn thí huệ nên người ấy chẳng phải thiện trượng phu làm nghiệp đạo ác, không có trí huệ say mê dục lạc, bị dục bắt, bị dục trói, lấy dục làm mạng sống, gần kẻ ngu xa người trí, làm bạn với kẻ ác tạo tội lỗi, tham ưa cảnh bất tịnh của nữ nhơn bèn bị nữ nhơn chế phục như tôi đòi, hệ thuộc sa ngã ở chỗ nữ nhơn, không biết hổ thẹn, gần kề đến ở cửa ghẻ máu mủ hôi tanh mũi dãi thường chảy như cảnh bất tịnh ở bãi tha ma. Đến đỗi trái bỏ cha mẹ chẳng biết ơn dưỡng. Bỏ lìa Sa Môn Bà La Môn, chẳng có lòng tôn trọng cung kính cúng dường. Với Phật pháp và Tăng chẳng tín kính sẽ mất hẳn Niết bàn giới. Hạng trượng phu nầy sẽ đọa vào địa ngục Chúng Hiệp và địa ngục A Tì, cũng sẽ phải đọa ngạ quỉ súc sanh không ai cứu được. Dầu nghe lời dạy của Phật, nhưng vẫn mãi nhớ tưởng nữ nhơn ca vũ đùa cười chẳng biết chán lìa. Người nầy quen thói ngu ác chẳng thích tu hành sự việc của thiện trượng phu. Đại Vương nên biết lúc trượng phu thân cận nữ nhơn chính là lúc thân cận nghiệp ác đạo. Đây là lỗi họa thứ nhứt của trượng phu vậy ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
« Cảnh dục đều khổ
Hạ liệt dơ xấu
Máu mủ tanh hôi
Rất đáng chán sợ
Là chỗ chứa họp
Nhiều thứ lỗi họa
Nào có người trí
Ưua thích cảnh nầy
Như trong hầm tiêu
Dơ uế đầy tràn
Cũng như chó sình
Như dã can chết
Như rừng thây ma
Dầy những uế dơ
Dục nhiễm dơ uế
Đáng chán cũng vậy
Những người ngu si
Ái luyến nữ nhơn
Như chó sanh con
Chưa từng bỏ lìa
Cũng như ruồi thấy
Đồ ăn ói mửa
Lại như bầy heo
Ham chỗ dơ dáy
Nữ nhơn hay phá
Giới cấm thanh tịnh
Cũng lại làm hư
Công đức danh văn
Làm nhơn địa ngục
Chướng sanh cõi trời
Nào có người trí
Lại thích cảnh dục
Lại như có người
Uống ăn thuốc độc
Thân tâm đao khổ
Chẳng vận động được
Do dục nhơn nầy
Hay làm gốc khổ
Như thân có đọc
Ngu chẳng hay biết
Cũng như chẳng rõ
Pháp thuật ảo hóa
Vọng theo tìm cầu
Luống tự khổ nhọc
Người ngu cũng vậy
Đối với dục nhiễm
Thường khổ tham cầu
Phải đọa địa ngục
Hoặc thiết tiệc tùng
Ca vũ kỹ nhạc
Cưới con gái người
Về làm vợ mình
Chứa họp nhiều thứ
Khổ chẳng lợi ích
Người ngu gây tạo
Nghiệp khổ vô lợi
Thêm lớn các tội
Lui mất căn lành
Trong việc vô lợi
Chẳng tiết thân mạng
Do đây sa đọa
Hố sâu ác đạo
Chiêu vời địa ngục
Hoàn sắt cháy đỏ
Núi dao lưỡi nhọn
Tên độc các khổ
Nữ nhơn hay họp
Nhiều sự việc khổ
G iả mượn hoa hương
Để chưng diện đẹp
Người ngu ở đây
Vong lầm tham cầu
Gần kề ngợi khen
Cảnh sắc hạ liệt
Thối thất trí huệ
Sa đọa tam đồ
Đây do ngu si
Nên bị mê hoặc
Như chim biển mệt
Mê mất hướng bờ
Lại như người ngu
Lấy dây sắt nóng
Đeo vào cổ mình
Như trâu mang ách
Cảnh dục như rượu
Làm say cuồng người
Tại sao người ngu
Chẳng biết ngốc khổ
Hoặc với cha mẹ
Chẳng biết ơn thương
Điều do nhục nhiễm
Sanh họa lỗi nầy
Thường với tà dục
Các pháp như vậy
Ca ngợi tập làm
Chẳng biết hổ thẹn
Họ do ngu si
Nên bị mê loạn
Tạo tội ấy rồi
Sẽ đến tam đồ
Người tối cuồng say
Đam mê cảnh dục
Dầu ơn cha mẹ
Họ cũng bỏ được
Nếu người tham nhiễm
Gần kề cảnh dục
Thì là chống trái
Vô thượng phước điền
Vô lượng câu chi
Vọng tưởng phiền nhiễu
Xoay vần bức não
Từ đây mà sanh
Hoặc lại mong cầu
Danh lợi thế gian
Đem phi pháp ấy
Khuyên dụ lẫn nhau
Do đây hiện tại
Chiêu vời sự khổ
Chết chắc phải đọa
Địa ngục an tỳ
Hiện thấy những khổ
Đều họp trên thân
Bạn lành lìa xa
Cung trời mất hẳn
Nào có người trí
Ưu thích nơi đây
Thà vào địa ngục
Chạy trên núi đao
Nằm trên lò lửa
Chẳng gần nữ sắc
Nếu người thường nhiễm
Ham mê tà dục
Hư mất rất nhiều
Những sự lợi lạc
Người nữ hay làm
Nhơn các sự khổ
Tham dục hay hoại
Tất cả an lạc
Ác pháp chứa họp
Thiện hữu xa lìa
Đều do gốc nơi
Tham cầu người nữ
Nếu người được nghe
Lời Phật răng dạy
Đối với nữ nhơn
Hay sanh chán lìa
Thì là trang nghiêm
Báo trời thanh tịnh
Cũng sẽ mau chứng
Vô thượng Bố đề.
Lại nửa, nầy Đại Vương! Luận về cha mẹ đều muốn cho con mình được lợi lạc nên hay làm việc khó làm hay nhẫn sự khó nhẫn, dầu tất cả thứ bất tịnh dơ uế đều chịu được cả, lại muốn thân thể sắc lực của mình mau tăng trưởng nên khiến nó thấy những sự thắng diệu trong Diêm Phù bú mớm nuôi nấng không có lòng mỏi nhàm, lại vì muốn cho con mình được vui sướng nên kinh doanh cầu tìm tài vật để cung cấp đầy đủ cho con và đến nhà người cầu hôn cưới con gái cho con. Hôn thú xong đứa con ái luyến vợ quên mất cha mẹ. Hoặc nó thấy cha mẹ lần suy già nên khinh khi trái nghịch lãng phí tài vật, hoặc dời cha mẹ cho ở chổ khác. Đây đều do tham dục làm mê hoặc đên đảo, nên với cha mẹ thì vất bỏ không kính thương nuôi dưỡng, với con gái nhà người thì trân trọng cung kính cung cấp không biết mỏi nhàm, đây là thành tựu gốc địa ngục, cũng là lỗi họa thứ hai của trượng phu vậy ».
Đức Thế Tôn kệ rằng:
«Các ông nên biết
Đối với cha mẹ
Tôn trọng cúng duờng
Người nầy thường được
Thích Phạm Hộ Thế
Vệ hộ phò trì
Hay khiến ở nhà
An ổn khoái lạc
Hoặc nhơn buôn bán
Đi biển phương xa
Qua lại an ổn
Được những tài lợi
Chính đây gọi là
Đại bửu vô gía
Hay cho hiệu qủa
Tên tối thượng điền
Như vậy hiện đời
Qủa báo trân bửu
Đều do cúng dường
Cha mẹ mà được
Còn ở đời sau
Sẽ được xa rời
Thân hình lừa ngựa
Mang nặng sai khiến
Cũng chẳng sa đọa
Ngục phẩn sông tro
Núi dao mũi nhọn
Đồng sôi sắc đỏ
Lại ở đời kế
Sanh trong loài người
Giàu có của báu
Thóc lụa dư thừa
Vợ con quyến thuộc
Thảy đều hòa mục
Hoặc đến tương lai
Được sanh trên trời
Cung điện vườn tược
Âm nhạc tự nhiên
Tha hồ vui chơi
Hưởng thọ diệu lạc
Đâu có người trí
Nghe pháp âm nầy
Với ruộng cha mẹ
Chẳng siêng cúng dường.
Lại nầy Đại vương! Nếu là trượng phu do nơi tà kiến chẳng biết tự thân mau diệt hoại nên gây tạo nghiệp ác mà tự khi dối. Người ngu si nầy luống bỏ qua thời giờ, Như gổ đá chạm trổ làm thành, dầu hình giống người mà không hiểu biết quen làm tham dục, thế là thành tựu nghiệp nhơn ác đạo. Đây là lỗi thứ ba của trượng phu».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Trượng phu thì dục
Làm cho mê loạn
Nên thường gây tạo
Các thứ tội ác
Điên đão tối tăm
Che chướng tâm họ
Nhơn đó sẽ sanh
Ngục tù ác đạo
Những kẻ tà hạnh
Sẽ còn xa lìa
Tất cả thánh hiền
Cũng chẳng cung kính
Các hàng Sa Môn
Do điên đảo kiến
Nhẫn đến qui mạng
Núi sông tà mị
Do vì tham dục
Hoặc lại giết hại
Các loài cầm thú
Thờ tế thần kỳ
Nhơn vì đảo kiến
Phi pháp cầu phước
Do đây lìa hẳn
Tất cả an lạc
Nếu ở trong hàng
Người tạo ác nầy
Chẳng biết tịnh tín
Hung hiểm không thẹn
Những người như vậy
Lìa hẳng Hiền Thánh
Họ chắc sẻ đọa
Địa ngục kêu la
Hoặc vì tham dục
Bức khổ người khác
Sẽ đọa địa ngục
Đốt cháy tột đốt cháy
Lại vì đảo kiến
Với Phật pháp tăng
Chẳng thể thân cận
Cung kính cúng dường
Pháp bửu chánh giáo
Mà chẳng lắng nghe
Xa lìa thánh hiền
Sa đọa ác thú
Ví thế người trí
Đã được thân người
Chớ nên lầm lẫn
Điên đảo vọng kiến
Nên tu bố thí
Và giữ tịnh giới
Sẽ được sanh thiên
Chứng đạo Bồ đề
Lại nầy Đại Vuơng! Hoặc có trượng phu vì thân mạng mình mà quá lao nhọc chứa họp tài vật, rồi bị nữ nhơn ràng buộc phải cung phụng như tôi đòi nên lại càng tham cầu của báo chẳng bố thí cho Sa Môn và Bà La Môn, họ cũng cam chịu luật vua trị phạt. Thấy nữ nhơn buồn rầu họ liền tự nghĩ nay tôi phải làm sao cho nàng vui vẻ? Những trượng phu nầy là tôi tớ của tham dục, với cảnh hạ liệt bất tịnh ấy lại tưởng là tịnh mà lại sanh lòng ái nhiễm. Lúc gần kề nữ nhơn như vậy chính là tạo thành nghiệp ác đạo. Đây là lỗi thứ tư của trượng phu vậy ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
«Người tham dục sai mê
Họ thiệt không an lạc
Vì gần kề ác pháp
Chẳng gọi thiện trượng phu
Nếu người tự phóng vật
Không biết gìn cấm giới
Tùy tâm ý mà làm
Hư mất những phước lợi
Người không trí huệ kia
Hành các pháp súc sanh
Chạy đuổi theo ngũ sắc
Như theo thích phẩn dơ
Người ngu chẳng biết xem
Lỗi họa của nhục nhiễm
Vọng tưởng là ân trọng
Như người mù lòa kia
Bị sắc dục trói buộc
Thêm lớn lòng ái dục
Dường như loài dã can
Chẳng rời khỏi tha ma
Nơi thanh hương vị xúc
Mà sanh lòng ái nhiễm
Luân chuyển trong sanh tử
Như con khỉ cột
Vì vô minh bao che
Bị nữ nhơn mê loạn
Như kẻ chợ cầu lợi
Dối phỉnh đến thân cận
Người ngu thân cận dục
Là vào cảnh giới ma
Dường như Ế Đồ Ca
Thèm ưa mùi phẩn dơ
Cũng như trận mưa đá
Hay tổn hại lúa mạ
Thợ gốm thường gần lửa
Phần nhiều bị phỏng nóng
Những người chưa kiến đế
Bị dục mất pháp lành
Như gió thổi cám nhuyễn
Nghiã ấy cũng như vậy
Giả như thiện trượng phu
Bị kẻ nhơn bắt
Thà chiu khổ nạn nầy
chẳng nên gần nữ nhơn
Nếu ham thích nữ sắc
Lòng tham cầu càng nhiều
Người phàm ngu thủ tướng
Thêm lớn lòng ái dục
Như trong mùa hạ nóng
Đi lâu trong đồng hoang
Khát quá uống nước mặn
Uống xong khát càng tăng
Người chưa thấy chơn thiệt
Ngu si luống sanh sống
Thân cận cùng nữ nhơn
Tham dục ái vững chắc
Nếu người chạm rắn độc
Thì bị rắn làm hại
Người phàm phu phạm dục
Bị dục hại cũng vậy
Ví như bình màu đẹp
Trong đựng toàn thuốc độc
Trong bình thiệt đáng sợ
Mặt ngoài hiện đoan nghiêm
Trang sức cho nữ nhơn
Bảo họ là sinh đẹp
Thân họ rất dơ dáy
Như túi da đầy phẩn
Lại như lấy lụa màu
Quấn lấy lưỡi dao bén
Trang sức cho nữ nhơn
Nghiã ấy cũng như vậy
Như lửa đầy hố sâu
Không khói hay đốt cháy
Nữ nhơn cũng như vậy
Bạo ác không xót thương
Như thây chó thây rắn
Xấu dơ mà rã thúi
Cũng như đốt phẩn dơ
Mọi người đều gốm nhờm
Thây chó rắn cùng phẩn
Dầu rất đáng gớm nhờm
Nhưng các nữ nhơn kia
Đáng gớm lại càng hơn
Ví như thuở kiếp hoại
Đại địa đều nổi lửa
Rừng rậm những cỏ cây
Tất cả đều bị cháy
Loài vật to ở biển
Nước cạn không lần hết
Tu Di các bửu sơn
Thế giới bị cháy khắp
Thưở kiếp thiêu như vậy
Đốt cháy cả núi biển
Không có chúng sanh nào
Mà có người cứu được
Nhơn ái dục nữ nhơn
Đốt hại các ngu phu
Dường như kiếp hỏa tai
Tất cả bị cháy hết
Thân bất tịnh thường chảy
Mũi dãi đàm máu mủ
Sao kẻ ngu mê kia
Lại ái luyến thân ấy
Gân xương kết chỏi nhau
Gói ghém nhờ da thịt
Hôi dơ rất đáng gớm
Như đồ ăn thiêu bỏ
Cũng như của kho vựa
Trấu rơm thường bừa bãi
Thân nầy nhiều dơ xấu
Sung mãn cũng như vậy
Gan mật cật tì vị
Tim phổi ruột phẩn dơ
Cùng óc tủy mủ máu
Tám vạn hộ trùng nhỏ
Ở đó thường ăn nút
Các người ngu tối tăm
Lưới si thường quấn trùm
Không hiểu rõ điều ấy
Ăn uống cặn bã thừa
Chín lỗ thường chảy luôn
Thân tội lỗi như vậy
Do nghiệp dơ đời trước
Người ngu ham nữ nhơn
Ái luyến nơi thanh sắc
Do đây sanh nhiễm trước
Chẳng từng biết như thiệt
Như ruồi thấy ói mửa
Liền sanh lòng ưa thích
Người ngu ưa nữ nhơn
Cảnh giới cũng như vậy
Nghiêng ngả nơi nữ sắc
Thường ố quế thân mình
Tại sao người ngu kia
Thích gần kề nơi ấy
Như chim chóc kiếm ăn
Chẳng biết tránh lưới bẫy
Tham ái nơi nữ nhơn
Bị hại cũng như vậy
Ví như cá trong nước
Lội bơi trước người chài
Liền bị họ bắt được
Há chẳng là tự hại
Nữ nhơn như người chài
Siểm cuống khác vì lưới
Nam tử đồng với cá
Bị bắt cũng như vậy
Dao bén của sát nhơn
Dầu cũng là đáng sợ
Dao bén nữ nhơn kia
Tổn hại lại còn hơn
Như bướm đáp lửa đèn
Và lúc nhà bị cháy
Côn trùng bị thiêu đốt
Không ai cứu vớt nó
Mê say nơi nữ nhơn
Bị lữa dục đốt cháy
Do đây đọa ác thú
Không được cứu cũng vậy
Những người ngu tà hạnh
Ái luyến thê thiếp người
Vọng sanh tưởng ưa thích
Dường như gà trống nhà
Cũng như chim trĩ rừng
Lầm vào chỗ giết hại
Nhơn đó tự tổn thương
Mà không ai cứu giúp
Bỏ rời Phật chánh pháp
Gần kề nữ nhơn kia
Do nghiệp nhơn duyên nầy
Sa đọa ba ác đạo
Lại như bầy khỉ kia
Chuyền nhảy trong gộp cây
Tất sẽ bị tổn thương
Há chẳng vì tham ngu
Cũng vậy người tham dục
Với các nữ nhơn kia
Bị lưới si chụp bắt
Luôn bị khổ sanh tử
Như người tội thế gian
Bị xử giáo nhọn đâm
Kẻ mê say dâm dục
Thường luyến rừng gươm nhọn
Như dùng ngọn lửa mạnh
Đốt nấu vạc nước sôi
Đem bắp mè ném vào
Theo nước sôi trôi chìm
Cũng vậy người tham dục
Chẳng hiểu biết thiện ác
Chết sẽ đọa ác đạo
Bị nấu trong vạc sôi
Số lớn của vạc sôi
Sáu mươi bốn câu chi
Những kẽ gây nghiệp ác
Lấy đó làm chỗ ở
Mỗi mỗi vạc như vậy
Rộng lớn một do tuần
Lửa mạnh đốt khắp bề
Đáy và bốn bên vạc
Có kẻ mãn trăm năm
Hoặc hai ba bốn trăm
Chịu khổ nung nấu nóng
Đều do nghiệp mình tạo
Ngục tốt cầm móc bén
Thỉnh thoảng lại móc ra
Da thịch đều nhừ rã
Chỉ còn lại xương trắng
Bấy giờ các ngục tốt
Lại đem đến chuồng sắt
Lấy chài đâm giã nát
Không ai cứu giúp được
Bấy giờ các xương tủy
Đều nát nhỏ như bụi
Do gió nghiệp thổi đến
Chết rồi mà sông lại
Nếu có kẻ xâm bức
Vợ con của kẻ khác
Sẽ phải leo gai sắt
Và bị nạn búa chày
Thiết xoa ba chia nhọn
Hoặc có bốn năm chia
Xâm bức vợ con người
Sẽ bị hình phạt ấy
Lại có quạ mỏ sắt
Mổ moi lấy tủy óc
Các bầy sói dã can
Tranh đến táp liếm ăn
Người tà dục như vậy
Sẽ đọa địa ngục phẩn
Hoặc chạy trên mũi dao
Cũng phải trèo núi dao
Người tà dục như vậy
Sẽ đọa ngục nóng đốt
Đã bị khổ cháy thiêu
Rồi đài qua ngục băng
Người tà dục như vậy
Cũng đọa ngục cực nhiệt
Hiều kiếu và đại kiếu
Cùng qua ngục hắc thằng
Người tà dục như vậy
Sẽ chìm sông hèm nóng
Lại trãi qua ngục tro
Chưa tới đáy đã chết
Có ngục tật lê sắc
Năm gốc gai nhọn bén
Bị chó sắt rượt cắn
Sợ chạy vào rừng gai
Ái luyến nơi nữ nhơn
Đọa vào chỗ đại bố
Hoặc phải nuốt hoàn sắt
Hoặc phải uống nước đồng
Có hai núi sắc nóng
Kia đây ép vào nhau
Người tham dục ngày xưa
Nay bị khổ trong ấy
Lúc khổ như vậy
Đều không ai cứu giúp
Bị tội báo khổ ấy
Đều do nghiệp mình gây
Người đồng vui ngày trước
Nay nào thấy họ đâu
Chỉ riêng mình chiệu khổ
Họ chẳng đến cứu nhau
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến cha mẹ
Cũng chẳng cứu nhau được
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến con cái
Cũng chẳng cứu nhau được
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến anh em
Cũng chẳng cứu nhau được
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến chị em
Cũng chẳng cứu nhau được
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến bằng hữu
Cũng chẳng cứu nhau được
Kẻ ngu vì tà dục
Tham tìm cầu nữ nhơn
Nơi địa ngục vô gián
Bị những khổ như vậy
Nói nữ nhơn bất tịnh
Dơ xấu nhiều như vậy
Chỗ kẻ ngu đến gần
Người trí đều lìa xa
Thân cận nữ nhơn kia
Rất là tột hạ liệt
Là ác trong những ác
Nào có đáng vui ưa
Các phàm phu tham dục
Thường ôm ấp túi phẩn
Do nghiệp nhơn duyên nầy
Sẽ nhận vô lượng khổ
Người ngu vì nữ nhơn
Cam chịu những hình phạt
Tù trói và đáng đập
Vẫn không lòng chán lìa
Người ngu vì nữ nhơn
Bị các thứ thiêu hại
Hay nhịn chịu khổ đau
Vẫn không lòng chán lìa
Hoặc đặt trên cây nhọn
Hoặc giết hoặc nhận nước
Hoặc ném vào hố to
Chịu đủ mọi khổ độc
Dầu thấy khổ như vậy
Còn ở trong dâm dục
Khen gợi các nữ nhơn
Chưa hề biết chán lìa
Hoặc có người trí ít
Biết là gốc sự khổ
Biết mà vẫn thân cận
Như keo sơn gập lửa
Nghe lời Phật răng dạy
Dầu có lòng tin nhận
Vẫn nuôi chứa nữ nhơn
Đông nhiều như bầy dê
Hoặc nghe lời Phật dạy
Vừa khởi lòng hối nhàm
Gây lát hại sanh tham
Như bịnh độc lại phát
Dường như heo bị bố
Tạm dừng trong gây lát
Nếu thấy vũng phẩn dơ
Lòng tham ái lại sanh
Người ngu nghe pháp rồi
Tạm thời lòng kinh sợ
Lúc sau thấy sắc dục
Lòng tham ái lại sanh
Dường như có trượng phu
Từ trên thân đầu mình
Lột bỏ vòng hoa vàng
Lại đội nón sắt nóng
Người ngu vì tham dục
Ném bỏ lời Phật dạy
Tham cầu pháp hạ liệt
Gây tạo các tội nghiệp
Người say mê sắc dục
Đọa trong cõi Diêm La
Thường nuốt hoàn sắt nóng
Lại uống nước đồng sôi
Người sai mê sắt dục
Bỏ lành mà làm quấy
Bỏ rời chỗ thanh lương
Đến hẳng cõi Diêm La
Nếu người có trí huệ
Nghe Phật nói pháp nầy
Phải bỏ tất cả dục
Mau cầu đạo xuất ly ».
Đức Thế Tôn nói kệ rồi, vua Ưu Đà Diên bạch rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Những lời vừa được nghe đây thật là hi hữu hi hữu. Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác khéo nói lỗi họa của sắc dục. Nay tôi quy y Phật Pháp Tăng tam bửu. Từ đây đến trọn đời tôi quy y Phật Pháp Tăng làm Ưu Bà Tắc, ngưỡng mong đức Thế Tôn nhiếp thọ tôi ».
Đức Phật nói kinh nầy rồi, vua Ưu Đà Diên và các đại chúng Trời Người thế gian Thiên Long Bát Bộ nghe lời đức Phật dạy tất cả đều hoan hỉ phụng hành.
PHÁP HỘI ƯU ĐÀ DIÊN VƯƠNG
THỨ HAI MƯƠI CHÍN
HẾT