- Lời Nói Đầu Của Dịch Gỉa
- 01. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi
- 02. Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
- 03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
- 04. Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
- 05. Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
- 06. Pháp Hội Bất Động Như Lai
- 07. Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
- 08. Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
- 09. Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
- 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
- 11. Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh
- 12. Pháp Hội Bồ Tát Tạng
- 12.01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả Thứ Nhất
- 12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai
- 12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba
- 12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư
- 12.05. Phẩm Tứ Vô Lượng Thứ Năm
- 12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu
- 12.07. Phẩm Thi La Ba La Mật Thứ Bẩy
- 12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám
- 12.09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín
- 12.10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật Thứ Mười
- 12.11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Thứ Mười Một
- 12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai
- 13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
- 14. Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
- 15. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký
- 16. Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt
- 16.01. Phẩm Tự
- 16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
- 16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
- 16-04 Phẩm Bổn Sự
- 16-05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
- 16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
- 16-07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
- 16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
- 16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
- 16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
- 16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
- 16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
- 16-13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
- 16-14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
- 16-15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
- 16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
- 16-17 Phẩm Hoá Lạc Thiên Thọ Ký
- 16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
- 16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
- 16-20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
- 16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
- 16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
- 16-23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
- 16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
- 16-25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
- 16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
- 17. Pháp Hội Phú Lâu Na
- 18. Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
- 19. Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
- 20. Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
- 21. Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
- 22. Pháp Hội Đại Thần Biến
- 23. Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
- 24. Pháp Hội Ưu Ba Ly
- 25. Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện
- 26-pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
- 27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
- 28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa
- 29-pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
- 30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
- 31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
- 32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát
- 33-pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
- 34-pháp Hội Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát
- 35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử
- 36-pháp Hội Thiện Trụ Ý Thiên Tử
- 36-01-phẩm Duyên Khởi
- 36-02-phẩm Khai Thiệt Nghĩa
- 36-03-phẩm Văn Thù Thần Biến
- 36-04-phẩm Phá Ma
- 36-05-phẩm Bồ Tát Thân Hành
- 36-06-phẩm Bồ Tát Tướng
- 36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng
- 36-08-phẩm Phàm Phu Tướng
- 36-09-phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
- 36-10-phẩm Xưng Tán Phó Pháp
- 37-pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
- 38-pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
- 39-pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Gỉa
- 40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ
- 41. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
- 42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn
- 43. Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
- 44. Pháp Hội Bửu Lương Tụ:
- 44.01 Phẩm Sa Môn Thứ Nhất
- 44.02 Phẩm Tỳ Kheo Thứ Hai
- 44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn Thứ Ba
- 44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo Thứ Tư
- 44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo Thứ Năm
- 44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực Thứ Sáu
- 44.07 Phẩm Phất Tảo y Tỳ Kheo Thứ Bảy
- 45. Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
- 46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
- 47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
- 48. Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân
- 49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
- 50. Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
- 51. Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát
- 52. Pháp Hội Bửu Nữ
- 53. Pháp Hội Bất Thuần Bồ Tát
- 54. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
- 55. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
- 56. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát
- 57. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
- 58. Pháp Hội Bửu Tràng
- 59. Pháp Hội Hư Không Mục
- 60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
- 61. Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
- 62. Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật
- Lời Ghi Nhận Sau Kinh Của Người Dịch
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản:
Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXXVI
PHÁP HỘI
THiỆN TRỤ Ý THiÊN TỬ
THỨ BA MƯƠi SÁU
Hán dịch :Tùy
Pháp Sư Đạt Ma cấp Đa
Việt dịch: Việt
Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM PHÁ PHÀM PHU TƯỚNG
THỨ TÁM
Bấy giờ Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại bạch Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát : “Bạch Đại Sĩ ! Nay Ngài có hứa cho tôi tu phạm hạnh chăng ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Phải , nầy Thiên Tử !
Nếu nay Ngài có thể chẳng nghĩ tác cầu chẳng suy tiến xu thì tôi sẽ hứa cho
Ngài tu phạm hạnh.
-
- Bạch Đại Sĩ ! Ngài nói như vậy là có nghĩa gì ?
Nầy Thiên Tử ! Nếu có vi tác có thể gọi phạm hạnh, nếu không vi tác thì có gì gọi là phạm hạnh. Lại nếu có thấy được có thể gọi là phạm hạnh, nếu không thấy được thì có gì gọi là phạm hạnh.
- Bạch Đại Sĩ ! Nay lẽ nào Ngài không phạm hạnh
ư !
- Này Thiên Tử ! Đúng như vậy, tôi không phạm
hạnh. Tại sao ? Vì xét về phạm hạnh thì chẳng phải phạm hạnh , vì chẳng phải
phạm hạnh nên tôi gọi phạm hạnh ”.
- Thiện Trụ Ý Thiên Tử khen rằng : “ Lành thay, lành thay, bạch Đại Sĩ ! Ngài có đầy đủ lạc thuyết biện tài hay tuyên thuyết vô ngại như vậy.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Nầy Thiên Tử
! Nếu tôi có đủ vô ngại biện thì thành chướng ngại. Tại sao ? Vì phàm thủ
trước ngã và ngã sở đều do phân biệt, vì tất cả phân biệt không gì chẳng phải
là chưóng ngại vậy. Nầy Thiên Tử ! Nay nếu Ngài có thể giết chết tất cả chúng
sanh mà chẳng cầm dao chẳng cầm gậy chẳng nấm tảng chẳng nấm khối để hành sự
thì tôi sẽ đồng cùng với Ngài tu phạm hạnh.
- Bạch Đại Sĩ ! Lại do nghĩa gì mà Ngài nói như vậy
?
- Nầy Thiên Tử ! Nói là chúng sanh ấy, nơi ý Ngài
thế nào ?
Bạch Đại Sĩ ! Theo tôi thì chúng sanh ấy và
nhẫn đến tất cả chỉ có danh tự vì đều là tưởng chấp thôi.
- Nầy Thiên Tử ! Vì thế nên tôi nói nay Ngài phải
cần giết hại ngã tưởng, giết hại nhân tưởng, giết chúng sanh tưởng, giết thọ mạng
tưởng, nhẫn đến diệt trừ tưởng danh tự v.v... phải giết hại như vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! nơi dùng sát cụ gì để giết hại ?
- Nầy Thiên Tử ! Tôi thường dùng dao bèn trí huệ ấy
để hành sát. Lúc hành sát nên cầm dao trí huệ như vậy, nên giết như vậy, nhưng cũng
không có ý tưởng cầm nắm và giết nại. Do nghĩa nầy nên Ngài phải khéo biết giết
hại ngã tưởng và chúng sanh tưởng, đây gọi là chơn thiệt sát hại tất cả chúng
sanh. Được như vậy tôi sẽ hứa cho Ngài phạm hạnh
Nầy Thiên Tử ! Nay tôi lại bảo Ngài rằng : Nếu Ngài tu hành mười ác nghiệp đạo, Ngài lại hay thành tựu pháp đen trược cấu uế, bỏ mười thiện nghiệp đạo phá hoại ly tán pháp trong trắng thanh bạch thì tôi sẽ cùng Ngài tu phạm hạnh.
- Bạch Đại Sĩ ! Do nghĩa gì mà Ngài nói như vậy
?
- Nầy Thiên Tử ! Tất cả những nhiễm trược thanh
bạch đều bình đẳng. Với bình đẳng ấy tôi được đồng với phạm hạnh của Ngài.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào ? Ngài lấy pháp gì
làm nhiễm trược bình đẳng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Do chẳng tham chẳng làm chẳng thối
chẳng đọa, đây gọi là nhiễm trược bình đẳng.
- Nầy Thiên Tử ! Lại do pháp gì làm thanh bạch bình
đẳng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Do như pháp tánh và cùng thiệt tế
ba môn giải thoát, đây là thanh bạch bình đẳng.
- Nầy Thiên Tử ! Như tôi khiến Ngài ở trong cơn
pháp giới đầy đủ tu hành xoay vòng qua lại, sự ấy có được chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Chẳng được.
- Vì lẽ ấy nên, nầy Thiên Tử, tôi nói nhiễm trược
thanh bạch tất cả bình đẳng rồi sau mới có thể cùng tu phạm hạnh.
- Nầy Thiên Tử ! Nay nếu Ngài có thể tay nắm người
đáng chết rồi Ngài cầm dao bén chém đầu người ấy, tôi sẽ hứa cho Ngài phạm hạnh
như vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! Do nghĩa gì mà Ngài lại nói như vậy
?
- Nầy Thiên Tử ! Kẻ đáng chết là ai ? Cái gì là đầu
? Ai hay hành sát ?
Nầy Thiên Tử cần phải giết tham dục sân khuể ngu si,
nhẫn đến cần phải giết những ngã mạn tật đố khi đối siểm khúc chấp trước thủ
tướng và thọ tưởng v.v... đâylà những kẻ đáng giết.
Nầy Thiên Tử ! Nếu người nhứt tâm chuyên tinh tự
thủ,lúc tâm tham dục phát khởi liền phải hay biết phương tiện trừ tan nó khiến
trở ngại tịch tĩnh.
Trừ tan nó thế
nào ?
Nên suy nghĩ
như vầy : đây là không là bất tịnh, tìm tâm dục ấy chỗ sanh chỗ diệt, từ đâu
đến, đi đến đâu, trong đây ai nhiễm, ai thọ nhiễm, gì là pháp nhiễm.
Quan sát như vậy
chẳng thấy năng nhiễm chẳng thấy sở nhiễm chẳng thấy sự nhiễm. Vì chẳng thấy
nên không có thủ. Vì không có thủ nên không có xả. Vì không có xả nên không có
thọ. Chẳng xả chẳng thọ thì gọi là ly dục tịch diệt Niết bàn.
Nhẫn đến tất cả tâm cũng
đều quan sát như vậy.
Nầy Thiên Tử ! Phải biết
pháp giết hại như vậy liền giết liền sanh , nên được gọi là lúc hành sát ấy
trước hết chặt đầu nó. Đây là chơn thiệt sát vậy.
Lại nầy Thiên Tử ! Nay nếu
Ngài có thể chống trái chư Phật hủy báng Pháp và Tăng tôi sẽ đồng phạm hạnh với
Ngài.
- Bạch Đại Sĩ ! Nay sao Ngài lại nói như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, lấy gì làm Phật ?
- Bạch Đại Sĩ ! Như như pháp giới, tôi nói là
Phật vậy.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, như như pháp giới
có thể nhiễm trước chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! không được.
- Nầy Thiên Tử ! Vì nghĩa ấy mà tôi nói nếu Ngài có
thể chống trái chư Phật thì tôi sẽ đồng phạm hạnh với Ngài.
Nầy Thiên Tử ! Ý
Ngài thế nào, lấy gì lám pháp?
- Bạch Đại Sĩ ! Ly dục tịch tĩnh tôi gọi là pháp.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào , pháp tịch tĩnh ấy
có thể nhiễm trước được chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! không được.
- Nầy Thiên Tử ! Vì nghĩa ấy mà
tôi nói nếu nay Ngài có thể hủy báng chánh pháp thì tôi sẽ đồng phạm hạnh như
vậy.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, lấy gì làm Tăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Pháp vô vi ấy gọi là
Thánh Tăng, như đức Thế Tôn dạy rằng tất cả thánh nhơn do vô vi mà được tên,
nên pháp vô vi gọi là Thanh Văn Tăng.
- Nầy Thiên Tử ! Pháp vô vi ấy có
thể chấp trước được chăng?
- Bạch Đại Sĩ ! không được.
- Nầy Thiên Tử !Vì nghĩa ấy nên tôi nói
nếu nay Ngài có thể phá hoại Thánh Tăng thì tôi sẽ đồng phạm hạnh với Ngài như
vậy.
Nầy Thiên Tử !
Nếu người thấy Phật là họ trước Phật, thấy Pháp là trước Pháp, thấy Tăng là
trước Tăng. Tại sao ? Vì Phật Pháp Tăng chẳng phải có thể được. Nếu người chẳng
thấy Phật chẳng nghe Pháp chẳng biết Tăng, người ấy là chẳng trái Phật cẳng
báng Pháp chẳng phá Tăng vậy. Tại sao ? Vì người ấy chẳng có được Phật Pháp
Tăng vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu người ái Phật
ái Pháp ái Tăng, người ấy có nhiễm trước Phật Pháp Tăng. Phải biết nếu người chẳng
nhiễm trước Phật, Pháp, Tăng, thì gọi là ly dục tịch diệt. Do nghĩa nầy mà tôi
nói nếu Ngài chẳng nhiễm trước Phật Pháp Tăng thì tôi sẽ đồng phạm hạnh cùng
Ngài”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử nói với Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát : “ Hy hữu, hy hữu, Đại Sĩ hay tuyên nói nghĩa xứ thậm thâm
như vậy. Đối với Đại Sĩ tôi lấy gì để báo ơn”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :
- Nầy thiên Tử
! Ngài chớ báo ơn. Tại sao ? Vì Ngài có thể chẳng báo ơn như vậy tức là chơn
báo ơn.
- Bạch Đại Sĩ ! Nay Ngài chừng có thể không báo ơn
chăng ?
- Đúng như vậy , nầy Thiên Tử, tôi chẳng báo ơn
cũng chẳng phải là chẳng báo ơn.
- Bạch Đại Sĩ ! Do nghĩa gì mà Ngài nói
như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Kẻ phàm phu tạo nhiều
sự khởi nhiều kiến chấp làm nhiều hạnh. Bởi họ làm những kiến những hạnh như
vậy nên họ nghĩ rằng tôi sẽ báo ơn. Đây chẳng phải là những chánh hạnh. Người
có chánh hạnh thì chẳng có chút gì để làm hoặc làm hay chẳng làm, người nầy
trọn chẳng hề nói tôi nhớ báo ơn.
Lại nầy Thiên Tử !
Người chẳng báo ơn như đức Phật Thế Tôn tuyên nói bình đẳng. Nghĩa là tất cả
pháp không có sở tác không có chỗ làm đều nhập vào bình đẳng không có thối
chuyển cũng không siêu việt chẳng phải tự chẳng phải tha không có tác bất tác.
Vì thế nên tôi không báo ơn vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! Ngài trụ
chỗ nào mà nói như vậy ? Ngài trụ nhẫn mà nói hay trụ pháp mà nói ?
- Nầy Thiên Tử ! Chỗ tôi
trụ chẳng phải nhẫn chẳng phải pháp.
- Bạch Đại Sĩ ! Ngài
thiệt trụ chỗ nào mà nói như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Tôi không
chỗ trụ, như thân hóa nhơn tôi trụ như vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! Hóa nhơn
ấy lại y cứ nơi đâu để trụ ?
- Nầy Thiên Tử
! Như như như trụ, hóa nhơn trụ như vậy. Nầy Thiên Tử ! Nếu là như
vậy sao Ngài lại hỏi an trụ tại chỗ nào, là tại nhẫn hay tại pháp. Nầy Thiên Tử
! Vì thế nên tôi nói nhẫn chỉ có danh tự. Danh tự không có chỗ trụ. Pháp
cũng như vậy, không có chỗ trụ không có động chuyển cũng không có phân biệt.
Thiên Tử nên biết tất cả các pháp đều không có chỗ trụ, mà nói chỗ trụ ấy là
đức Phật vì các chúng sanh mà nói. Như đức Phật nói. Như Lai trụ trong pháp như
như ấy tất cả chúng sanh cũng như vậytrụ trong như như chẳng hề di động. Như
chúng sanh như là Như Lai như, Như Lai như là chúng sanh n, chúng sanh và
Như Lai không hai không khác.
- Bạch Đại Sĩ
! Nói rằng “Sa Môn na ». Sa Môn na ấy có nghĩa gì ?
- Nầy Thiên Tử ! Nếu
chẳng phải Sa Môn chẳng phải Bà La Môn thì gọi là chơn Sa Môn vậy. Tại sao ? Vì
họ chẳng trước Dục giới Sắc giới Vô sắc giới nên gọi chơn Sa môn.
Lại nầy Thiên Tử ! Nếu nhãn
chẳng lộ nhĩ tỉ thiệt thân và ý chẳng lậu, tôi gọi là chơn Sa Môn.
Nầy Thiên Tử ! Nếu chẳng y chỉ
thuyết chẳng y chỉ chúng chẳng y chỉ xứ, tôi lại gọi là chơn Sa Môn vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu không chỗ đi
không chỗ đến không tổn không hại không tổn không hại, tôi lại nói là chơn Sa
Môn vậy.
Nầy Thiên Tử ! Vì thế nên câu
nói trên kia : chẳng pha”i Sa Môn chẳng phải Bà La Môn tôi mới nói là chơn Sa
Môn vậy”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử khen Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát “Lành thay, lành thay, thiệt chưa từng có, chí Ngài dường kim
cương, lời Ngài tuyên nói không có chương cú cũng không có xứ sở, tâm đều liễu
đạt không có sót thừa”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Tâm tôi
chẳng cương , tại sao, vì tôi tự phóng ý lòng an nhu nhẫn nên chẳng cương vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! Nghĩa ấy thế nào ?
- Nầy Thiên Tử ! Tôi thả lỏng tâm nhập Thanh Văn
địa ở duyên giác cảnh nên gọi là phóng ý. Tôi lại thả lỏng tâm vào trong các
trần lao sanh tử mà cũng chẳng chán ghét họa hại phiền não tham sân si nên gọi
là phóng ý”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử
lại khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “ Lành thay, lành thay, hi hữu Đại Sĩ ! Do Ngài
từ quá khứ đã lâu cúng dường chư Phật trồng các cội đức lành nên Ngài hay tuyên
nói vi diệu dường ấy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Tôi không cúng Phật, không trồng cội lành. Tại sao ?
Vì tôi không hề thấy thuở xưa đã qua, cũng chẳng biết đương lai sẽ làm. Dầu có
làm cũng không có làm. Nơi cácPhật pháp tôi chưa hề kiến lập thì sao lại hay
trồng các cội đức lành !”